Showing posts with label Luật Hiến pháp. Show all posts
Showing posts with label Luật Hiến pháp. Show all posts
04/11/2015
Những điểm mới về Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
Trong hoàn cảnh chiến tranh, Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước, đứng đầu Chính phủ và kiêm chức vụ Thủ tướng. Đến năm 1955, chức vụ Thủ tướng được chuyển giao cho Phó Thủ tướng lúc đó là Phạm Văn Đồng đảm nhiệm và Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Quốc hội khóa II bầu lại và làm Chủ tịch đến khi Người mất ngày 2 tháng 9 năm 1969. Từ đó đến nay, vai trò lãnh đạo chính trị nói chung và của Chủ tịch nước nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến thể chế, con người và toàn bộ đất nước. Tuy nhiên, lãnh đạo nói chung và đặc biệt vị trí đứng đầu nói riêng có xu hướng cá nhân hóa nếu địa vị của họ không được thiết lập một cách chặt chẽ và vững chắc trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, vai trò, chức năng và thẩm quyền của Chủ tịch nước cần phải được hiến định trong Hiến pháp.

Ở nước ta, việc hoàn thiện phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực của Chủ tịch nước là một nội dung rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế chính trị pháp lý Hiến pháp. Mặt khác chủ trương của Đảng thể hiện trong các Văn kiện Đại hội X, XI đặt ra những thay đổi chế định trong quá trình thiết kế và vận hành chính thể nói chung và chế định Chủ tịch nước nói riêng. Do đó, nghiên cứu chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trải qua các thời kỳ lịch sử với 5 bản Hiến pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa những chế định cơ bản, quan trọng của Hiến pháp năm 1992 nhưng có những đổi mới, bổ sung mang tính phù hợp để thể hiện Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Việt Nam và là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế, em xin chọn đề tài: “Những điểm mới về Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992” để tìm hiểu và nghiên cứu. 
26/10/2015
Quyền con người theo Hiến pháp 2013 - Bài tập nhóm Luật Hiến pháp
Lịch sử Việt Nam là một lịch sử đẫm máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc. Nước ta trước đây đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế. Ngoài mục đích cướp đoạt chủ quyền quốc gia, các thế lực ấy còn muốn tước đi quyền con người của người dân Việt Nam, biến chúng ta thành nô lệ phục vụ cho chúng. Nhưng chưa một lần nào nhân dân ta từ bỏ; bao lần đất nước lâm nguy là bấy nhiêu lần con dân đất Việt đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, đòi lại quyền của chính bản thân họ. Con người sinh ra, ai cũng khát khao được tự do, được sống một cuộc sống an lành. Ngày nay, khi điều kiện sống ngày càng phát triển, những mong muốn đó không còn là của riêng ai; mà nó đã nâng lên thành nhu cầu, điều kiện tối thiểu cần được đáp ứng cho cuộc sống thường ngày của cả xã hội. Vì vậy, việc “quyền con người” phải được thừa nhận, bảo vệ bởi nhà nước, pháp luật là rất chính đáng và cấp thiết. 

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, nền tảng của hệ thống luật của quốc gia đó. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của đời sống xã hội, chính trị. Do tính chất đặc thù của việc lập, sửa đổi hiến pháp nên có thể coi hiến pháp là cơ sở pháp lý vững chắc nhất trong việc thực hiện, bảo vệ các vấn đề ấy. Như vậy, việc Hiến pháp 2013 ghi nhận, khẳng định “quyền con người” đã xác lập nên các thiết chế, các điều kiện để đảm bảo, bảo vệ “quyền con người”; định hướng cho việc thực hiện rộng rãi chúng trong cuộc sống. Trong lần sửa đổi này, “quyền con người” là một điểm sáng, thu hút được nhiều sự quan tâm không chỉ của dư luận trong nước mà còn cả quốc tế. Việt Nam chúng ta đã ký rất nhiều Công ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (24-9-1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em (20-2-1992),… Nhưng chỉ đến Hiến pháp 2013, “quyền con người” mới được tách riêng khỏi “quyền công dân”; không những vậy, chương này còn được đưa thành chương II, thể hiện sự quan tâm, chú trọng của nhà nước ta đối với vấn đề này. Hiến pháp 2013 có hiệu lực chưa lâu, việc phổ biến, truyền tải nội dung Hiến pháp nói chung, “quyền con người” ghi nhận trong hiến pháp nói riêng là rất cần thiết. Vì vậy, nhóm 24-A1 chúng em mạnh dạn chọn đề tài “Quyền con người theo Hiến pháp 2013” nhằm giúp mọi người có thêm cái nhìn đối với vấn đề “cổ” mà không “cũ” này. 
06/06/2015
Vấn đề tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội - Thực trạng và giải pháp
Bài tập học kỳ Luật Hiến pháp.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của toàn dân. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn và đổi mới. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống hoạt động của Quốc hội còn có những hạn chế. Đặc biệt đó là hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội là vấn đề còn nhiều thiếu xót. Hạn chế này không chỉ bắt nguồn từ cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội mà còn có nguyên nhân nội tại từ chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội. Chính vì lẽ đó mà em mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội- Thực trạng và giải pháp” để đi sâu vào tìm hiểu.
22/03/2015
Thực trạng và giải pháp vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội - Bài tập học kỳ Hiến pháp
Quyền giám sát của quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của quốc hội đối với hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước là vấn đề hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Một trong những hoạt động giám sát quan trọng của quốc hội là hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội. Thông qua hoạt động chất vấn, đại biểu quốc hội thể hiện trách nhiệm của người đại biểu trước nhân dân, nhiều vấn đề bức xúc của xã hội được đại biểu đưa ra để tìm giải pháp khắc phục.Để hiểu rõ về vấn đề quan trọng này ,em xin chọn đề tài “Vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội- Thực trạng và giải pháp”.

NỘI DUNG

I.Nội dung của vấn đề chất vấn.
22/02/2015
Mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo Hiến pháp năm 2013 - 8 điểm
Bài tập học kỳ Hiến pháp 8 điểm: Mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo Hiến pháp năm 2013.

Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là một hệ thống gồm nhiều cơ quan có vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất. Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta, Quốc hội chiếm một vị trí đặc biệt với những tính chất và chức năng vô cùng quan trọng, và trong hiến pháp có hẳn một chế định pháp luật về Quốc hội. Để có thể đảm bảo uy tín cũng như trách nhiệm trong việc thực hiện các chức năng của mình, Quốc hội phải gắn bó chặt chẽ đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan nhà nước ở trung ương. Trong BT lớn lần này, em xin đi tìm hiểu chi tiết hơn về Quốc hội với đề tài số 10: “Mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo Hiến pháp năm 2013”.
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội – Thực trạng và giải pháp - Bài tập học kỳ Luật Hiến pháp
Đề  bài: Tổ chức và hoạt động của Quốc hội – thực trạng và giải pháp

Trong bộ máy của Nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trong, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nguyên tắc này được quy định lần đầu tiên tại Điều 22 của Hiến pháp năm 1946: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền lực có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” và được tiếp tục khẳng định, củng cố trong Hiến pháp năm 1959: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 4). Đến Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm  1992 vai trò của Quốc hội được tăng cường và phát triển hơn nữa: Quốc hội vừa là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như: quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, quyết định các chính sách về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng, đối nội, đối ngoại..; giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính vì có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như vậy mà việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội quyết định chủ yếu sự phát triển của đất nước, nhất là trong thời kì nước ta đang đẩy mạnh hội nhập. Cũng vì lí do này mà em đã chọn đề bài: “Tổ chức và hoạt động của Quốc hội – thực trạng và giải pháp”
14/11/2014
Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hôi - Bài tập học kỳ - Luật Hiến pháp
I. MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết, chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội. Trong thời gian qua, hoạt động này luôn được công chúng quan tâm theo dõi. Những nỗ lực đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn tại kì họp Quốc hội đã được cử tri cũng như các đại biểu Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao. Chất lượng của các phiên chất vấn được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động chất vấn còn tồn tại nhiều điểm hạn chế bởi vậy việc đưa ra giải pháp khắc phục là điều rất cần thiết.

II. NỘI DUNG

1.Cơ sở lý luận

1.1 Một số khái niệm

a. Đại biểu Quốc hội

Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước bầu ra thông qua tổng tuyển cử tự do. Đó là những đại biểu chân chính, đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân đồng thời là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội.

b. Chất vấn và trả lời chất vấn

Chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội đồng thời cũng là quyền của đại biểu Quốc hội.  Chất vấn được hiểu là “đặt vấn đề hỏi một cơ quan chính quyền về một điều thắc mắc và yêu cầu trả lời”. Trong phiên chất vấn, đại biểu Quốc hội nêu ra những câu hỏi và yêu cầu một cơ quan nhà nước hay một nhà chức trách phải trả lời, báo cáo và giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan, cá nhân đó. Chất vấn là một dạng câu hỏi nhằm quy kết trách nhiệm đồng thời làm rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục.
03/09/2014
[Download] Ebook Giáo trình Luật Hiến pháp - Khoa Luật ĐH Quốc gia
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT HIẾN PHÁP(Hiến pháp phần I)

Chương I: Khoa học luật hiến pháp
I. Đối tượng nghiên cứu
II. Phương pháp nghiên cứu
III. Mối quan hệ giữa khoa học luật hiến pháp với các ngành khoa học pháp lý khác
IV. Sơ lược lịch sử khoa học luật hiến pháp
V. Những cơ sở lý luận của khoa học luật hiến pháp
VI. Hệ thống khoa học luật hiến pháp

Chương II: Khái quát về Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia
I. Tổ chức nhà nước và vấn đề hiến pháp
II. Định nghĩa hiến pháp
III. Bản chất của hiến pháp
IV. Phân loại hiến pháp
V. Chế độ bảo hiến
Đề cương ôn tập Luật Hiến pháp
23/08/2014
Trao đổi về hoạt động giám sát của Quốc hội - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2000
T.S. HOÀNG DUY- HOÀNG MINH HIẾU 
Trung tâm TT-TV&NCKH Văn phòng Quốc hội

Giám sát là một trong những chức năng quan trọng của Quốc hội nước ta. Điều 83, Hiến pháp năm 1992 quy định: "...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Chỉ trên cơ sở hoạt động giám sát, Quốc hội mới có điều kiện nhận biết những quy địnhpháp luật và những quyết địnhcủa mìnhcó đúng đắn và hiện thực hay không; thông qua đó kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ những gì không còn phản ánhđúng thực tiễn khách quan; làm rõ trách nhiệm của các các cơ quan và các quan chức được giao quyền. Tuy nhiên, hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát đang là vấn đề thời sự hiện nay.

Mặc dầu thời gian qua, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã dànhnhiều thời gian và nỗ lực cho hoạt động giám sát, và hoạt động này đã đạt được một số kết quả đượcnhân dân cả nước ghi nhận (đặc biệt là hoạt động chất vấn. Do được truyền hìnhtrực tiếp, nên nội dung và thủ tục chất vấn tại Kỳ họp Quốc hội đang nhanhchóng được các Hội đồng nhân dân áp dụng. Và hiệu quả của hoạt động này vì thế mà đượcnhân lên gấp bội). Đây vẫn là hoạt động "còn yếu, hiệu quả chưa cao, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưađược các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu giải quyết"1[1] .


Giải thích cho thực trạng đáng lo ngại này, một số ý kiến cho rằng các quy địnhcủa luật pháp về quyền giám sát của Quốc hội là chưa thật đầy đủ, và do vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì cần phải có những sửa đổi đối với Hiến pháp và một số đạo luật có liên quan. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên, có lẽ, không nằm trong những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật, mà nằm ở cách hiểu chưa thống nhất và cách thức tổ chức thực hiện chưa thật tốt chức năng này trong thực tế.
Một số suy nghĩ về dự án luật về hoạt động giám sát của Quốc hội - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2000
TRẦN THẾ VƯỢNG
Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội

Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội là một việc rất quan trọng và là một đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra hiện nay nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý và góp phần tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội.

Sau một thời gian chuẩn bị khá công phu, nghiêm tÚc, mặc dù còn phải tiếp tục hoàn thiện nhiều hơn nữa nhưng, về cơ bản, Dự án luật đã thể hiện được một cách tương đối toàn diện các vấn đề về hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó có vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cũng như trách nhiệm của mỗi cơ quan trong quan hệ phối hợp thực hiện quyền giám sát.

I. Ý nghĩa quan trọng của việc dự án Luật thể hiện vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.

Qua nghiên cứu dự án Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, chúng tôi thấy dự án Luật về cơ bản đã thể hiện được vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát cũng nh trách nhiệm của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong quan hệ này.Theo chúng tôi, việc Dự án Luật thể hiện các nội dung này là đúng đắn và rất cần thiết bởi những lý do sau:
20/08/2014
Phương án hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ của công dân
1. Nhận thức khái quát về quyền tự do dân chủ của công dân

Trong khoa học pháp lý, các từ “tự do” và “dân chủ” được kết hợp theo các cách khác nhau trong các cụm từ sau đây để thể hiện quyền dân chủ của công dân: “quyền dân chủ tự do” và “quyền tự do dân chủ”. Trường hợp đầu, “dân chủ” là danh từ, còn “tự do” là tính từ và trường hợp sau, “tự do” là danh từ, “dân chủ” là tính từ, cả hai trường hợp cùng đều được dùng để chỉ quyền tự do của công dân trên phương diện dân chủ, như: tự do bầu cử, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do biểu tình...“Dân chủ” ở đây được xem xét gắn với mức độ, tính chất “tự do”. Đối với các chế độ chính trị thật sự dân chủ, người ta luôn gắn “dân chủ” với “tự do”. Bởi vì, chế độ dân chủ phân biệt với chế độ độc tài, chuyên quyền thì đã rõ; nhưng bản thân chế độ dân chủ cũng được chia thành hai loại cơ bản là dân chủ tự do - dân chủ cởi mở, phát triển ở trình độ cao và loại dân chủ hạn chế (ít tự do hoặc giả hiệu). Trên sách báo chính trị, pháp lý hay trong các văn kiện chính trị - pháp lý, còn thấy hiện diện các cụm từ “quyền tự do, dân chủ” và “quyền tự do và dân chủ”. Đây là hai cụm từ tương đương nhau, dùng để chỉ phạm vi rộng lớn các quyền của công dân xét trên phương diện “tự do” và quyền của công dân xét trên phương diện “dân chủ” hay chủ quyền nhân dân. Hai cụm từ này cũng biểu thị các quyền công dân của công dân như trên, nhưng ngoài ra, chúng còn bao gồm cả các quyền tự do khác về dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của họ như: tự do thân thể, tự do kinh doanh, tự do lao động, tự do nghỉ ngơi, tự do cư trú, tự do kết hôn, tự do tôn giáo, tự do nghiên cứu khoa học...


Về vấn đề dân chủ, trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý cũng như thực tiễn lịch sử xã hội loài người, “nhân dân” là phạm trù, thế lực luôn giữ vị trí trung tâm. Vai trò của nhân dân đối với đời sống xã hội nói chung, đối với nhà nước, quyền lực nhà nước nói riêng được thể hiện bằng các cụm từ, cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ khác nhau: chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ, nhân dân làm chủ...nhưng đều thống nhất ở điểm quan trọng: người dân là chủ nhân của xã hội, là lực lượng quyết định tối cao các đối với các vấn đề của đời sống xã hội, đời sống nhà nước. Vấn đề dân chủ được đặc biệt được coi trọng trong lý luận và thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng pháp quyền. Theo đó, dân chủ là một đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước pháp quyền. Xét về nguồn gốc, lý luận về nhà nước pháp quyền hình thành là nhằm phản kháng, đối kháng với các nhà nước chuyên chế cảnh sát trong mục đích giải phóng con người, bảo đảm quyền con người, chống lại quyền lực nhà nước vô hạn độ. Nhưng nói đến quyền con người đồng thời cũng ngụ ý nói đến dân chủ và nói đến dân chủ cũng hàm ý quyền con người. Bởi vì, dân chủ chính là tổ hợp của các quyền con người. Không có các quyền của công dân: quyền bầu cử, quyền lập hội, quyền hội họp, quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận...thì không thể nói gì về dân chủ.
27/07/2014
Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan thì Tòa án cần phải thực sự độc lập trong hoạt động xét xử. Đã có rất nhiều các quy định pháp luật đã được ban hành trong thời gian qua nhằm giúp cho Tòa án thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của mình Tòa án vẫn còn phải chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, từ sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan khác đến những bất cập trong quy định của pháp luật khiến cho Tòa án đôi khi không thực sự khách quan khi xét xử.

1  ĐẶT VẤN ĐỀ

Một trong những tiêu chí hàng đầu được đặt ra trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) là phải luôn đảm bảo tính khách quan, sự công minh của người cầm cân nảy mực. Và để đạt được tiêu chí này thì đòi hỏi trong hoạt động của mình TAND phải độc lập. Có thực sự độc lập, không lệ thuộc vào các cơ quan khác thì TAND mới thực sự khách quan trong việc phán xét các vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND thì nguyên tắc độc lập luôn được đặt lên hàng đầu. Đây là nguyên tắc Hiến định và được cụ thể hóa trong tất cả các văn bản luật có liên quan đến TAND.[2] Ngoài nguyên tắc này thì cũng có rất nhiều những quy định khác được đặt ra nhằm đảm bảo sự độc lập của TAND. Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn tồn tại những hạn chế trong cả tổ chức và hoạt động của TAND, mà những hạn chế này ít nhiều khiến cho TAND không thực sự khách quan trong hoạt động xét xử. Để phân tích những bất cập trong tổ chức và hoạt động của TAND liên quan đến tính độc lập người viết sẽ trình bày một số nội dung chính sau đây. Thứ nhất, người viết sẽ xem xét nội dung của các quy định có liên quan đến nguyên tắc độc lập và những đảm bảo cho sự độc lập của TAND. Trên cơ sở đó, nội dung của nguyên tắc độc lập trong xét xử của TAND sẽ được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Cuối cùng, bài viết sẽ phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập trong hoạt động xét xử của TAND.
Giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của chính quyền địa phương
Hệ thống CQĐP có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Trong nhiều năm qua, vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của CQĐP đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, một số chủ trương lớn đã được đặt ra và tổ chức thực hiện như: chủ trương cải cách hành chính (về cả 4 nội dung: thể chế; thủ tục hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức; tài chính công); phân cấp mạnh cho CQĐP trên một số lĩnh vực; thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường… đã đạt một số kết quả nhất định, nhưng cũng đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, đưa ra phương hướng, giải pháp hợp lý.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của CQĐP để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cần tập trung vào hai nội dung cơ bản sau:

Một là: Sớm tiến hành tổng kết việc thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường. Hiện nay, vẫn tồn tại song song hai quan điểm trái ngược nhau về chủ trương này. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức CQĐP không nhất thiết phải tính đến việc bỏ HĐND huyện, quận, phường mà cần tăng cường năng lực (cả về mặt pháp lý và các điều kiện bảo đảm hoạt động) để HĐND các cấp phát huy tốt nhất vị trí, vai trò của cơ quan đại diện ở địa phương, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ chế dân chủ đại diện. Loại ý kiến thứ hai thì nhất trí với chủ trương này nhằm cải cách bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, bảo đảm thực quyền, phát huy được vai trò, hiệu lực, hiệu quả thực tế. Vì vậy, việc tổng kết thí điểm cần tiến hành sớm, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn để có cơ sở sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật về CQĐP.
Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay
CQĐP (bao gồm HĐND và UBND) ở nước ta hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 được sửa đổi, bổ sung năm 2003, thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

CQĐP ở nước ta được tổ chức ở ba cấp tỉnh, huyện, xã (tính đến ngày 15.6.2011, cả nước có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh; 698 đơn vị cấp huyện và 11.112 đơn vị cấp xã). Bộ máy CQĐP gồm HĐND và UBND được thành lập đầy đủ ở cả 3 cấp. HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Tổ chức của HĐND được kiện toàn một bước. Ở cấp tỉnh, huyện, HĐND có Thường trực HĐND và các ban của HĐND. Cấp xã có Thường trực HĐND, nhưng không tổ chức các ban chuyên môn. Các quyền hạn, nhiệm vụ của HĐND đã được quy định lại trên tinh thần cố gắng phân định nhiệm vụ, quyền hạn theo từng lĩnh vực ở từng cấp nhằm phát huy tính chủ động của địa phương. Bộ máy UBND cũng được đổi mới, tổ chức lại theo hướng thành lập các cơ quan quyên môn quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chủ trương cải cách hành chính nhà nước thu được những kết quả nhất định. Quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch UBND có phần được đề cao và tách bạch với quyền hạn, nhiệm vụ của tập thể UBND. Chủ trương phân cấp được triển khai theo hướng “Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với trung ương” nên CQĐP đã từng bước phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Sự hình thành, phát triển của chính quyền địa phương Việt Nam qua các thời kỳ
Lịch sử hình thành và phát triển của CQĐP ở nước ta có thể phân thành 4 gian đoạn, mỗi giai đoạn có những nét đặc thù riêng.

Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1960. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình xây dựng chính quyền sau khi nước ta giành độc lập. Trong giai đoạn này, đã có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị; cấp huyện là cấp trung gian, không có HĐND; vai trò của UBHC được đề cao; cơ cấu tổ chức gọn nhẹ.

Giai đoạn thứ hai: Từ 1960 đến 1980, là giai đoạn có khá nhiều nét đặc biệt trong tổ chức và hoạt động của CQĐP để bảo đảm song song hai nhiệm vụ: vừa xây dựng kinh tế, xây dựng nhà nước XHCN ở miền Bắc, vừa thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Tổ chức và hoạt động của chính quyền thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền XHCN; pháp luật đề cao vai trò của HĐND; cơ cấu tổ chức có xu hướng tăng mạnh so với trước đây; không có sự phân biệt chính quyền đô thị và nông thôn, nhưng ở các khu vực miền núi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống được thành lập các khu tự trị.
Lý luận và thực tiễn về pháp luật về Đại biểu quốc hội
1. Pháp luật về ĐBQH

Pháp luật về ĐBQH có thể được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Nhưng hiểu một cách chung nhất đó là hệ thống các quy định về bầu cử và bãi nhiệm ĐBQH, địa vị pháp lý, quyền hạn, nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác, liên hệ với cử tri, các bảo đảm về pháp lý và điều kiện hoạt động của ĐBQH…

Trên thế giới, có hai xu hướng xây dựng pháp luật về ĐBQH. Xu hướng thứ nhất, các quy định pháp luật về ĐBQH được ghi nhận trong Hiến pháp, luật của Quốc hội và cả những văn bản dưới luật. Các quy định về Quốc hội và ĐBQH trở thành một bộ phận trong hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Xu hướng thứ hai, ở các nước có truyền thống nghị viện lâu đời, Quốc hội có vị trí độc lập đối với các nhánh quyền lực khác, hoạt động của ĐBQH được coi là vấn đề nội bộ nên thường do Quốc hội tự quyết định bằng các văn bản dưới luật, có tính nội bộ, thủ tục đơn giản, không có sự tác động của các nhánh quyền lực khác (như việc ban hành các đạo luật thông thường).Do phạm vi hoạt động của ĐBQH rất rộng, nên cho dù việc ban hành pháp luật về ĐBQH theo hướng nào thì nhìn chung hệ thống các quy định này rất phức tạp, nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, ít khi tập trung trong một văn bản cụ thể. Ngoài các luật thành văn, các quy định này còn dưới dạng bất thành văn.

 “Cứ sau mỗi kỳ bầu cử, một loạt các ĐBQH mới sẽ bước chân vào nghị trường. cho du họ có thiên tài đến đâu thì chắc chắn họ sẽ cảm thấy mất phương hướng bởi vì Quốc hội là một thiết chế được điều chỉnh bởi các tập quán và các quy định chủ yếu dưới dạng bất thành văn và thường rất khó hiểu” (Marc Van de Hulst (2000), The Parliamentary Mandated, IPU)
Tiêu chí tổng kết việc thi hành Hiến pháp
Tiêu chí tổng kết việc thi hành Hiến pháp là cơ sở để xác định hiệu quả điều chỉnh của Hiến pháp, mức độ đạt được của Hiến pháp với tính cách là sự biểu thị đặc điểm của các quan hệ xã hội, mức độ phù hợp của nó trong việc ghi nhận, phản ánh và định hướng phát triển các quan hệ xã hội đó. Đồng thời, tiêu chí tổng kết Hiến pháp còn là những đặc trưng, các dấu hiệu của Hiến pháp với tính cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước, văn bản có vị trí pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật.

Tổng kết việc thi hành Hiến pháp cần phải thực hiện cả về nội dung và cách thức thể hiện Hiến pháp nên ý kiến chung tại hội thảo là phải xây dựng những tiêu chí cơ bản để đánh giá từng vấn đề.


Các tiêu chí về hình thức thể hiện Hiến pháp bao gồm: (1) tính chặt chẽ, cô đọng, rõ ràng trong từng quy định của Hiến pháp; (2) tính thống nhất trong quan hệ nền tảng giữa Hiến pháp và các ngành luật trong hệ thống pháp luật; (3) tính  lô gíc, thứ bậc giữa các chương, mục, điều, khoản, điểm của Hiến pháp; (4) các quy định của Hiến pháp phải bảo đảm tính hợp lý; mang tính nguyên tắc để có thể tồn tại lâu dài; tránh quy định cụ thể.
28/06/2014
40 câu hỏi ôn thi vấn đáp Luật Hiến pháp - K38 ĐH Luật Hà Nội
Đề thi vấn đáp Luật Hiến pháp.

1. Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp Việt Nam.

2. Đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu của khoa học Luật Hiến pháp Việt Nam.

3. Nguồn của ngành Luật Hiến pháp Việt Nam.

4. Sự ra đời của Hiến pháp; định nghĩa Hiến pháp và đặc điểm của Hiến pháp; phân loại Hiến pháp.

5. Lịch sử lập hiến Việt Nam (hoàn cảnh ra đời, tính chất, nhiệm vụ của các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992).

6. Nội dung, ý nghĩa của quyền dân tộc cơ bản theo Hiến pháp hiện hành.

7. Vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

8. Chính sách kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo pháp luật hiện hành.

9. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

10. Các nguyên tắc của chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

11. Phân tích nội dung, ý nghĩa của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

12. Các nguyên tắc bầu cử.

13. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

14. Vấn đề bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu.

15. Khái niệm cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước (định nghĩa, đặc điểm, phân loại cơ quan nhà nước).

16. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước

17. Vị trí, tính chất của Quốc hội theo pháp luật hiện hành

18. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo pháp luật hiện hành

19. Chức năng của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.

20. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành

. 21. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành

22. Các hình thức hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành

23. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1949. 1980, 1992 (so sánh, phân tích).

24. Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ theo pháp luật hiện hành.

25. Cơ cấu tổ chức, trật tự hình thành của Chính phủ theo pháp luật hiện hành.

26. Các hình thức hoạt động của Chính phủ theo pháp luật hiện hành.

27. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chủ tịch nước; Quốc hội với Chính phủ; Quốc hội với Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

Chủ tịch nước với Chính phủ; Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo pháp luật hiện hành;

28. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.

29. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.

30. Các hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.

31. Vị trí, tính chất, chức năng, trật tự hình thành của Uỷ ban nhân dân theo pháp luật hiện hành

32. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân theo pháp luật hiện hành.

33. Các hình thức hoạt động của Ủy ban nhân dân theo pháp luật hiện hành.

34. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân cùng cấp theo pháp luật hiện hành

35. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp theo pháp luật hiện hành.

36. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.

37. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.

38. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành.

39. Tiêu chuẩn của Thẩm phán Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.

40. Tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành.

Bộ môn Luật Hiến pháp Việt Nam Trường Đại Học Luật Hà Nội
17/06/2014
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân theo pháp luật hiện hành - Bài tập nhóm Luật Hiến pháp
Bất kì một chính thể nào cũng luôn quan tâm đến việc tổ chức và thiết lập quyền lực ở cả Trung ương và địa phương. Trong đó, chính quyền địa phương được thành lập đặt dưới sự lãnh đạo và phục tùng tuyệt đối chính quyền trung ương. Chính quyền địa phương ở nước ta được tổ chức thành ba cấp (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn) ở mỗi cấp đều có Uỷ ban nhân dân. Thực tế hiện nay cho thấy trước yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì vai trò của ủy ban nhân dân ngày càng phải được nâng cao trong đó có việc tăng cường sức mạnh của chính quyền ở địa phương để giải quyết đòi hỏi do thực tế địa phương đặt ra là rất quan trọng. Chính vì vậy mà nhóm chúng em đã chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân theo pháp luật hiện hành”

NỘI DUNG

1. Khái quát chung về ủy ban nhân dân

1.1.Vị trí, tính chất và chức năng của Ủy ban nhân dân. 

Vị trí, tính chất và chức năng của ủy ban nhân dân (UBND) được quy định tại Điều 121 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa tại Điều 2 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003: “UBND do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương…”, được thể hiện ở hai phương diện. Thứ nhất, UBND là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Thứ hai, UBND là cơ quan thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp cũng như những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.