Showing posts with label Giáo trình. Show all posts
Showing posts with label Giáo trình. Show all posts
13/03/2015
Tổng hợp bài tập Công pháp quốc tế có đáp án

Lưu ý: Đây là danh sách tổng hợp tất cả bài tập Công pháp quốc tế có đáp án để các bạn tham khảo. Khi yêu cầu download, các bạn chỉ có thể yêu cầu download từng bài lẻ và tối đa 2 bài cho mỗi lần download. Các yêu cầu download tất cả các bài được tổng hợp trong danh sách này, admin xin phép sẽ không hồi đáp nhé!

***

1. Giáo trình, tài liệu, bài giảng Công pháp quốc tế.

Bài giảng Công pháp quốc tế

Đề cương môn Công pháp Quốc tế – ĐH Luật HN – t82012

***

2. Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế có đáp án.

Cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội đồng bảo an thông qua

Xâm phạm chủ quyền quốc gia và vi phạm nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế

Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa hai quốc gia có phải điều ước quốc tế - Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế

Hành vi xâm phạm thềm lục địa của quốc gia ven biển - Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế

Hiệp ước hợp tác chống khủng bố - Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế

Phân tích nội dung và ngoại lệ của một trong bảy nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế - Bài tập cá nhân công pháp quốc tế

Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế - Bình luận về các hành vi do quốc gia Tunyza và Bravia

Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế - Hiệp định phân định vùng đánh bắt cá và khai thác hoạt động du lịch trên sông biến giới Maiki

Bài tập cá nhân Công pháp Quốc tế – Điều ước quốc tế

Bài tập cá nhân Công pháp Quốc tế – Tòa án công lý quốc tế

Bài tập cá nhân 1 Công pháp Quốc tế - Điều ước quốc tế - Thỏa thuận về biên giới lãnh thổ

***

3. Bài tập nhóm Công pháp quốc tế có đáp án.

Phân tích việc áp dụng nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam

Quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là quyền năng phái sinh và hạn chế - Bài tập nhóm Công pháp quốc tế

Hoạt động áp dụng các biện pháp trừng phạt vũ trang của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc - Bài tập nhóm Công pháp quốc tế

Hoạt động áp dụng các biện pháp trừng phạt vũ trang của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc - Bài tập nhóm Công pháp quốc tế

Sự tương thích giũa các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền trong pháp luật Vệt Nam và quy định cuông ước luật biển năm 1982 - Bài tập nhóm Công pháp quốc tế - Khoa Luật ĐH Mở

Bài tập nhóm Công pháp quốc tế - Hợp tác kinh tế thương mại ASEAN

***

4. Bài tập học kì Công pháp quốc tế có đáp án.

Tác động của Luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em

Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc gia - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế

Tác động của Luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm

Cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của Luật quốc tế

Hành vi sử dụng lực lượng vũ trang của Limon có phù hợp với pháp luật quốc tế không - Bài tập cá nhân Công pháp quốc tế

Tác động của Luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm - 8 điểm

Vai trò của tập quán quốc tế trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế

Bài tập học kì Công pháp quốc tế - Phương thức thụ đắc lãnh thổ do chiếm hữu

Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế

Điều 14 Công ước Viên năm 1969 - Bài tập Công pháp quốc tế

Phân tích sự tham gia và vai trò của Việt Nam trong một số khuôn khổ hợp tác khu vực và liên khu vực

Phân tích sự tham gia và vai trò của Việt Nam trong một số khuôn khổ hợp tác khu vực và liên khu vực - Bài tập học kì Công pháp quốc tế

Chứng minh rằng trong cách xác định và quy chế pháp lý của một vùng biển theo quy định của công ước Luật Biển 1982 luôn thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế

Các nguyên tắc được áp dụng trong phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam với các nước - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế

Nguyên tắc được áp dụng trong phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam với các nước - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế

Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế - Chủ thể luật quốc tế

Chủ thể của Luật Quốc tế còn có cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ

Phân tích nội dung hợp tác và vai trò của Việt Nam trong một khuôn khổ hợp tác mang tính liên khu vực (APEC)

Phân tích nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay và sự tham gia của Việt Nam

Bài tập học kỳ Công pháp Quốc tế – Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của Luật quốc tế

Đề bài tập học kỳ Công pháp quốc tế 11/2012

***

5. Đề thi, đề cương ôn tập Công pháp quốc tế.

Bộ câu hỏi đề thi vấn đáp - Công pháp quốc tế

Tổng hợp câu hỏi vấn đáp Công pháp quốc tế - Kì 2 năm học 2013 - 2014 ĐH Luật Hà Nội

Đề cương 37 câu hỏi ôn thi vấn đáp Công pháp quốc tế - có đáp án

Tổng hợp đề thi vấn đáp Công pháp quốc tế - K31 - K34

Đề cương ôn tập Công pháp Quốc tế – Bài 1 Lý luận chung về Luật Quốc tế

***

6. Bài nghiên cứu / Tài liệu tham khảo môn Công pháp quốc tế

CÁ NHÂN – CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ? - Bài nghiên cứu Luật - Công pháp quốc tế

Tổng quan về ASEAN - Tài liệu môn Công Pháp Quốc Tế

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ BIỂN: NHÌN TỪ THỰC TIỄN MỘT SỐ VỤ VI PHẠM CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 TRONG VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM

Vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ trong luật pháp quốc tế

Khủng bố hàng không quốc tế là một loại hình của khủng bố quốc tế

Khái niệm khủng bố từ các Công ước quốc tế

27/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XXIII (chương cuối) - Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XXIII

HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1. Khái niệm hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hệ thống là khái niệm được dùng để chỉ những chỉnh thể (sự vật, hiện tượng) có kết cấu thống nhất, được tạo thành từ các thành tố có mối liên hệ chặt chẽ, có sự tác động qua lại với nhau và được tập hợp theo những trật tự nhất định. Trong khoa học pháp lí, khái niệm hệ thống pháp luật có thể được xem xét ở nhiều phương diện và cấp độ khác nhau.
Trước hết, dưới góc độ cấu trúc thì pháp luật của các nhà nước hiện đại không phải là tập hợp giản đơn các quy định pháp luật mà là hệ thống (hệ thống cấu trúc của pháp luật). Hệ thống cấu trúc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chỉnh thể gồm tất cả các quy định pháp luật có sự liên kết và thống nhất nội tại với nhau, được phân định thành những bộ phận nhỏ hơn, phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh.

Hệ thống cấu trúc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất phức tạp, nội bộ của nó gồm rất nhiều thành tố bộ phận, trong đó có các thành tố cơ bản là quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật. Ngoài ra còn có những thành tố khác như phân ngành luật (lớn hơn chế định pháp luật nhưng nhỏ hơn ngành luật), tổ hợp các ngành luật (lớn hơn ngành luật nhưng nhỏ hơn hệ thống cấu trúc của pháp luật quốc gia...)
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XXII - Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XXII

PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

1. Sự ra đời và bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Khi tiến hành cách mạng, nhân dân Việt Nam đã xoá bỏ pháp luật thực dân, phong kiến, cùng với việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới phù hợp với tình hình và điều kiện của đất nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phát triển và hoàn hiện cùng với sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt về số lượng và chất, từng bước đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Như các pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục nhất định; được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau; là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội; mang tính bắt buộc chung; được thể hiện dưới những hình thức nhất định... nhưng được hình thành và phát triển trên cơ sở chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội và tư tưởng mới , do vậy, bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XXI - Nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XXI

NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề quan trọng nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà lí luận về nhà nước và pháp luật nghiên cứu. Việc nghiên cứu vấn đề này vừa có giá trị lí luận sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng, vừa góp phần bổ sung vào hệ thống các quan điểm khoa học về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cải cách, đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Về thực tiễn, việc nghiên cứu vấn đề nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở lí luận và thực tiễn để đề xuất các quan điểm khoa học và những giải pháp khả thi nhằm giải quyết hàng loạt vấn đề thực tiễn cấp bách liên quan đến hệ thống chính trị đang đặt ra trong các nước xã hội chủ nghĩa để đảng phát huy được vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và cả hệ thống chính trị, còn nhà nước phát huy được vị trí trung tâm và vai trò chủ đạo đối với quản lí xã hội trong hệ thống chính trị; phân định rõ nhiệm vụ, chức năng giữa đảng cộng sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa và giữa các tổ chức cơ sở đảng với các cơ quan nhà nước tương ứng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa để đảng vẫn lãnh đạo được nhà nước nhưng không làm thay nhà nước, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp quản lí xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa để nhà nước phát huy hết hiệu lực của mình nhưng vẫn tuân theo đường lối, chính sách của đảng cộng sản; đổi mới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với các tổ chức xã hội để đảng vẫn lãnh đạo được các tổ chức xã hội và nhà nước vẫn quản lí được các tổ chức xã hội nhưng không can thiệp quá mức cần thiết vào tổ chức và hoạt động của họ;
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XX - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XX
NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶT TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do miền Nam chưa được hoàn toàn giải phóng nên nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để thống nhất đất nước đồng thời chuyển dần sang thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Năm 1975 miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện trên phạm vi cả nước.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như V.I. Lenin đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.

23/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XIX - Pháp chế xã hội chủ nghĩa
CHƯƠNG XIX

PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề quan trọng nhất của pháp luật xã hội chủ nghĩa mà lí luận về nhà nước và pháp luật nghiên cứu. Việc nghiên cứu pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa có giá trị lí luận sâu sắc, vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Về lí luận, nó giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện, đầy đủ, sâu sắc hơn những yếu tố hợp thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó góp phần hình thành, củng cố, vận dụng, phát triển tư duy chính trị-pháp lí mới trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật nhằm phục vụ công cuộc cải cách, đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa. Về thực tiễn, nghiên cứu pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ tạo tiền đề lí luận và thực tiễn để đề xuất các quan điểm khoa học và những giải pháp khả thi về tăng cường sự tôn trọng và thực hiện pháp luật trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội, nhằm xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

I. KHÁI NIỆM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Trong khoa học pháp lí nước ta, pháp chế xã hội chủ nghĩa được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau cho nên có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, điều đó càng làm giàu thêm nhận thức của chúng ta về nội dung và hình thức biểu hiện của pháp chế xã hội chủ nghĩa – một trong những hiện tượng phức tạp nhất của đời sống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, qua những kết quả nghiên cứu đó có thể thấy dù được định nghĩa như thế nào đi nữa thì bản chất và nội dung (hay hạt nhân, cốt lõi) của pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng chỉ có một – đó là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật xã hội chủ nghĩa một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là ở đâu và khi nào pháp luật xã hội chủ nghĩa được tôn trọng và thực hiện một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất thì ở đó , khi ấy có pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngược lại thì không có pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XVIII - Pháp luật xã hội chủ nghĩa
CHƯƠNG XVIII

PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


1. Sự ra đời và tồn tại của pháp luật xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan

Để giải phóng mình khỏi mọi sự áp bức, bóc lột nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng đạp tan bộ máy nhà nước cũ đồng thời cũng phải từng bước hủy bỏ pháp luật cũ, phải xây dựng hệ thống pháp luật mới để ghi nhận, củng cố, bảo vệ và phát triển những thay đổi cơ bản của xã hội về kinh tế, chính trị-xã hội từ phương diện pháp lí. Những quan điểm, tư tưởng cho rằng có thể xóa bỏ nhà nước và pháp luật ngay hoặc sau thời gian ngắn để chỉ thực hiện các nguyên tắc dân chủ thuần túy khi mà quyền lực đã thuộc về nhân dân lao động là số đông trong xã hội đều không có cơ sở lí luận và thực tiễn.

Sự ra đời và tồn tại của pháp luật trong xã hội xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan vì những lí do cơ bản sau: Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa được thoát thai từ chính xã hội cũ do đó về mọi phương diện như kinh tế, đạo đức và tinh thần… vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ mà từ đó nó đã sinh ra nên vẫn cần pháp luật để hạn chế, loại bỏ những hình thức kinh tế tư hữu, tác động làm xuất hiện và phát triển những hình thức kinh tế mới, chuyển đổi, cải tạo xã hội cũ, xây dựng, phát triển xã hội mới tốt đẹp hơn…; thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội có giai cấp nên vẫn cần phải được quản lí bằng pháp luật, cần phải dùng pháp luật để giữ gìn trật tự xã hội, giải quyết những xung đột, tranh chấp trong xã hội…
20/09/2014
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương VI - Pháp luật về ngân sách của doanh nghiệp. (Phần cuối)
CHƯƠNG VI

PHÁP LUẬT VỀ NGÂN SÁCH CỦA DOANH NGHIỆP


I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGÂN SÁCH CỦA DOANH NGHIỆP:

1. Khái niệm:

Ngân sách doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hóa các nguồn ngân sách trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
Về bản chất, ngân sách doanh nghiệp là một loại quan hệ tạo lập phân phối sử dụng của cải dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với ngân sách của doanh nghiệp.
Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân sách của doanh nghiệp đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
- Xuất phát từ vai trò và vị trí hoạt động ngân sách doanh nghiệp có ảnh hưởng đến sự chuyển dịch một phần của cải xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có cách thức tác động có hiệu quả nhất lên hoạt động này, Pháp luật chính là công cụ có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu đó.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương V - Pháp luật về chi ngân sách nhà nước.
CHƯƠNG V

PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước:

Chi ngân sách nhà nước thể hiện chức năng phân phối tài chính ở khâu ngân sách nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ số tiền từ ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện kinh tế, chi ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương IV - Pháp luật về thu ngân sách nhà nước
CHƯƠNG IV

PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm thu ngân sách Nhà nước:

Thu ngân sách nhà nước là một loại hoạt động nhà nước, hoạt động của một tổ chức có quyền lực công, luôn gắn liền với yếu tố chính trị của nhà nước. Từ đó, chúng ta có thể hiểu thu ngân sách Nhà nước là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị theo những hình thức và biện pháp phù hợp để hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước. 
Xét về bản chất, thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Đó là việc nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào việc phân chia của cải xã hội được các chủ thể khác nhau trong xã hội tạo ra. Đối tượng của hoạt động thu ngân sách Nhà nước là của cải xã hội biểu hiện dưới hình thức giá trị.

Nội dung vật chất của thu ngân sách nhà nước thể hiện ở việc nhà nước tập trung vào trong tay mình những nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nứơc nhằm đảm bảo chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước là phục vụ lợi ích công cộng và duy trì sự tồn tại của nhà nước. Do đó, thu ngân sách nhà nước là hoạt động có vai trò quan trọng của nhà nước, góp phần tạo ra thu nhập tài chính  để đáp ứng nhu cầu công cộng và nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.

17/09/2014
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương III - Chu trình ngân sách
CHƯƠNG III

CHU TRÌNH NGÂN SÁCH

Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dựng để chỉ tòan bộ họat động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau, đó là: lập ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết tóan ngân sách.  

1. Lập dự toán NSNN

1.1. Mục tiêu của lập dự tóan NSNN

Lập dự tóan NSNN là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách. Lập dự tóan ngân sách thực chất là lập kế họach thu chi của ngân sách trong một năm. Kết quả của khâu này là bản dự toán ngân sách. Bản dự tóan ngân sách phải đảm bảo mục tiêu là dự toán ngân sách sẽ đáp ứng được việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Và việc phân bổ các nguồn lực phù hợp với 
chính sách của nhà nước. 

1.2. Yêu cầu của dự tóan NSNN 

- Dự toán ngân sách nhà nước và dự toán ngân sách các cấp chính quyền phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi và theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.

-. Dự toán ngân sách của các cấp chính quyền, của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng yêu cầu, nội dung, biểu mẫu và thời hạn quy định.

- Dự toán ngân sách phải kèm theo báo cáo thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ tính toán.

- Dự toán ngân sách các cấp phải bảo đảm cân đối theo nguyên tắc sau:

+ Đối với dự toán ngân sách nhà nước: tổng số thu thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên 
và các khoản chi trả nợ; bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển.

+ Đối với dự toán ngân sách cấp tỉnh: phải cân bằng giữa thu và chi trên cơ sở số thu của ngân sách cấp tỉnh gồm: các khoản thu ngân sách cấp tỉnh được hưởng 100%, các khoản thu phân chia cho ngân sách cấp tỉnh theo tỷ lệ phần trăm (%) đã được quy định và số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương (nếu có); số dự 
kiến huy động vốn trong nước để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định 

+ Đối với dự toán ngân sách cấp huyện, và cấp xã phải cân bằng thu, chi.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương II - Ngân sách nhà nước và Luật ngân sách nhà nước
CHƯƠNG II

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính. Hiện tượng ngân sách ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát triển của nhà nước. 

Các nhà khoa học về lịch sử và kinh tế đã chứng minh rằng chính sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn tới sự ra đời tiền tệ. Sau 3 lần phân công lao động xã hội đóng vai trị quan trọng trong sự phân hóa các giai cấp trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết quả là sự ra đời của giai cấp thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời dẫn đến các quan hệ trao đổi mua bán cũng phát triển mạnh mẽ, cùng với nó là sự xuất hiện của tiền tệ.

Tiền tệ ra đời giữ vai trò là vật ngang giá chung, trung gian trong việc trao đổi hàng hóa.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương I - Luật Tài chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG I

LUẬT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM


I. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH

1.Khái niệm tài chính, hệ thống tài chính:

1.1 Khái niệm tài chính:

Tài chính là một phạm trù kinh tế, tồn tại khách quan và mang tính lịch sử. Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những điều kiện kinh tế xã hội này là những tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển của tài chính. Những tiền đề đó là nền kinh tế hàng hóa-tiền tệ và nhà nước.

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng, vào thời kỳ cuối của chế độ công xã nguyên thủy, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, sự ra đời của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Hàng hoá sản xuất ra không chỉ nhằm mục đích tự cấp mà còn được đem trao đổi nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau trong tiêu dùng. Lúc đầu là hàng đổi hàng, sau đó, do yêu cầu trao đổi và phạm vi trao đổi được mở rộng, tiền tệ xuất hiện đóng vai trị như một loại hàng hoá đặc biệt mang tính chất là vật ngang giá chung. Thông qua đồng tiền, các thành viên trong xã hội có thể sử dụng để đổi lấy bất kỳ loại hàng hóa theo nhu cầu. Những hình thái đầu tiên của tiền tệ có thể được quy ước là vỏ sò, lông thú, kim loại...
16/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XVII - Nhà nước xã hội chủ nghĩa
CHƯƠNG XVII - NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I. SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Ý tưởng về xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng xã hội dân chủ, trong đó những giá trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát triển với tất cả mọi năng lực của mình.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách quan của xã hội, đã đưa ra lí thuyết khoa học về xã hội xã hội chủ nghĩa với lí tưởng dân chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - CHương XVI - Pháp luật tư sản
CHƯƠNG XVI - PHÁP LUẬT TƯ SẢN

I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TƯ SẢN.

1. Sự ra đời của pháp luật tư sản.

Pháp luật tư sản là kiểu pháp luật thứ ba trong lịch sử xã hội loài người, ra đời gắn liền với sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cách mạng dân chủ tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản.

Các văn bản pháp luật tư sản quan trọng đầu tiên ra đời là Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, Tuyên ngôn nhân quyền và quyền công dân của Pháp năm 178, Hiến pháp của Pháp năm 1791, Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, Bộ luật thương mại năm 1807, Bộ luật hình sự năm 1810 của Pháp… Pháp luật tư sản là sản phẩm của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, trong đó hàng vạn người đã hi sinh để đấu tranh lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế - chế độ mà quyền lực nhà nước đã đè nát các quyền công dân và quyền con người. Các cuộc cách mạng dân chủ tư sản thắng lợi đã thiết lập và bảo vệ các quyền con người, gồm các quyền tự nhiên thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền sở hữu tư nhân…
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XV - Nhà nước tư sản
CHƯƠNG XV - NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

1. Sự ra đời và bản chất của nhà nước tư sản

Sau hơn một nghìn năm tồn tại, chế độ phong kiến các nước Tây Âu bắt đầu lâm vào sự khủng hoảng toàn diện. Nhà nước phong kiến với chế độ quân chủ chuyên chế chỉ phù hợp với phương thức sản xuất phong kiến – phương thức sản xuất có đặc điểm cơ bản là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội. Từ thế kỉ XIV – XV, ở các nước phương Tây, nền kinh tế hàng hóa – thị trường bắt đầu phát triển. Sang thế kỉ XVI – XVII, kinh tế hàng hóa – thị trường làm cho các khu đô thị hình thành nhanh chóng, từ các công trường thủ công dần dần các trung tâm công nghiệp với các phương tiện sản xuất bằng máy móc hiện đại lần lượt ra đời. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền bình đẳng, quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hội nhập, tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, được đảm bảo quyền tư hữu tài sản. Tuy nhiên, chế độ phong kiến hà khắc đã cản trở sự hình thành và phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản mới ra đời, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản tiếp đó nổ ra, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Các nhà nước tư sản đầu tiên ra đời sau cách mạng dân chủ tư sản là Hà Lan (cuối thế kỉ XVI), Anh (sau cách mạng 1641 – 1649), Pháp (sau cách mạng năm 1789).
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XIV - Nhà nước và pháp luật phong kiến
CHƯƠNG XIV - NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIẾN

I. SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN

1. Sự ra đời của nhà nước phong kiến

Sự xuất hiện của nhà nước phong kiến ở các khu vực khác nhau trên thế giới không hoàn toàn giống nhau, điều này là do điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước quy định. Ở một số nơi, nhà nước phong kiến ra đời thay thế cho nhà nước chủ nô mà nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất xã hội. Ở một số nơi khác, nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước đầu tiên mà cư dân ở đó xác lập nên khi họ vượt qua xã hội nguyên thủy. Ở phương Đông, sự ra đời của nhà nước phong kiến có nhiều khác biệt và không có mốc thời gian chung cho sự mở đầu của các nhà nước phong kiến ở khu vực này. Quá trình phong kiến hóa xã hội cổ đại ở phương Đông diễn ra hết sức chậm chạp, ranh giới giữa chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến không rõ ràng, bởi vì ở đây không có sự khác biệt về bản chất của phương thức sản xuất giữa hai thời kì, thậm chí ở một số nước không có gì khác nhau.Chính vì vậy, quan niệm về sự ra đời các nhà nước phong kiến phương Đông chỉ mang tính ước lệ; dựa vào những sự kiện đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của mỗi quốc gia.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XIII - Nhà nước và pháp luật chủ nô
CHƯƠNG XIII - NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHỦ NÔ

I. SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ

1. Sự ra đời của nhà nước chủ nô

Sự xuất hiện của các nhà nước chủ nô rất đa dạng và phức tạp. Do điều kiện kinh tế, xã hội, điều kiện địa lí, cùng với yếu tố tác động từ bên ngoài... khác nhau nên ở khu vực khác nhau, sự xuất hiện của nhà nước có sự khác nhau.

Các nhà nước phương Đông xuất hiện sớm hơn rất nhiều so với các nhà nước phương Tây, dưới tác động trực tiếp và chủ yếu bởi yếu tố tự nhiên, chống ngoại xâm và làm thủy lợi. Trong điều kiện lực lượng sản xuất còn tương đối thấp kém, quá trình hình thành các giai cấp diễn ra rất chậm chạp, chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển rất yếu ớt, vì vậy, quá trình hình thành nhà nước cũng hết sức chậm chạp và kéo dài. Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn (công xã láng giềng) – tàn tích của chế độ xã hội thị tộc vẫn còn tồn tại. Trong thời gian dài, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn điều kiện để phát triển khá vững chắc với chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm.
13/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XII - Điều chỉnh pháp luật
CHƯƠNG XII

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

Nghiên cứu điều chỉnh pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận đối với việc tiếp cận, xem xét các hiện tượng pháp lí trong thể thống nhất dưới góc độ hệ thống; từ đó làm rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng bộ phận trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, tìm ra những ưu điểm, hạn chế của từng bộ phận, từng khâu để có những biện pháp kịp thời xử lí phù hợp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

I. KHÁI NIỆM ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

Tính chất cộng đồng của đời sống con người dẫn đến nhu cầu phải điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra sự trật tự, kỉ cương cần thiết bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển. Nếu không có sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, dưới sự tác động của con người, các quan hệ xã hội có thể phát triển lộn xộn, đi lệch quy luật, làm cho xã hội khó phát triển, thậm chí có thể dẫn đến suy vong. Chẳng hạn, vấn đề hôn nhân và gia đình có nên cho phép sự chung sống cùng giới (hôn nhân đồng tính) hay không; có nên quy định hôn nhân bắt buộc hay không; các gia đình sinh bao nhiêu con thì phù hợp… Để thiết lập được trật tự trong lĩnh vực nói trên cần phải dựa vào những công cụ điều chỉnh nhất định như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo, quy định của các tổ chức xã hội và quan trọng hơn cả là pháp luật.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XI - Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
CHƯƠNG XI

VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÍ

I. VI PHẠM PHÁP LUẬT

1. Những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật là hiện tượng xã hội, tệ nạn trong xã hội, là những hành vi phản ứng tiêu cực của một số cá nhân hoặc tổ chức đi ngược lại với ý chí nhà nước được quy định trong pháp luật. Những hành vi có tính chất tiêu cực đó luôn gây hại cho nhà nước, xã hội và nhân dân, do vậy chúng luôn bị nhà nước, xã hội và nhân dân lên án, đấu tranh đòi hỏi phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Để xóa bỏ hiện tượng vi phạm pháp luật trước hết cần tìm hiểu bản chất, những đặc điểm (dấu hiệu) của chúng, tìm cách loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện đã sinh ra chúng. Do vậy, nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội.