Lịch sử Việt Nam là một lịch sử đẫm máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc. Nước ta trước đây đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế. Ngoài mục đích cướp đoạt chủ quyền quốc gia, các thế lực ấy còn muốn tước đi quyền con người của người dân Việt Nam, biến chúng ta thành nô lệ phục vụ cho chúng. Nhưng chưa một lần nào nhân dân ta từ bỏ; bao lần đất nước lâm nguy là bấy nhiêu lần con dân đất Việt đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, đòi lại quyền của chính bản thân họ. Con người sinh ra, ai cũng khát khao được tự do, được sống một cuộc sống an lành. Ngày nay, khi điều kiện sống ngày càng phát triển, những mong muốn đó không còn là của riêng ai; mà nó đã nâng lên thành nhu cầu, điều kiện tối thiểu cần được đáp ứng cho cuộc sống thường ngày của cả xã hội. Vì vậy, việc “quyền con người” phải được thừa nhận, bảo vệ bởi nhà nước, pháp luật là rất chính đáng và cấp thiết.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, nền tảng của hệ thống luật của quốc gia đó. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của đời sống xã hội, chính trị. Do tính chất đặc thù của việc lập, sửa đổi hiến pháp nên có thể coi hiến pháp là cơ sở pháp lý vững chắc nhất trong việc thực hiện, bảo vệ các vấn đề ấy. Như vậy, việc Hiến pháp 2013 ghi nhận, khẳng định “quyền con người” đã xác lập nên các thiết chế, các điều kiện để đảm bảo, bảo vệ “quyền con người”; định hướng cho việc thực hiện rộng rãi chúng trong cuộc sống. Trong lần sửa đổi này, “quyền con người” là một điểm sáng, thu hút được nhiều sự quan tâm không chỉ của dư luận trong nước mà còn cả quốc tế. Việt Nam chúng ta đã ký rất nhiều Công ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (24-9-1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em (20-2-1992),… Nhưng chỉ đến Hiến pháp 2013, “quyền con người” mới được tách riêng khỏi “quyền công dân”; không những vậy, chương này còn được đưa thành chương II, thể hiện sự quan tâm, chú trọng của nhà nước ta đối với vấn đề này. Hiến pháp 2013 có hiệu lực chưa lâu, việc phổ biến, truyền tải nội dung Hiến pháp nói chung, “quyền con người” ghi nhận trong hiến pháp nói riêng là rất cần thiết. Vì vậy, nhóm 24-A1 chúng em mạnh dạn chọn đề tài “Quyền con người theo Hiến pháp 2013” nhằm giúp mọi người có thêm cái nhìn đối với vấn đề “cổ” mà không “cũ” này.
NỘI DUNG
I. Khái quát về quyền con người
1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (hay nhân quyền) là quyền tự nhiên, thiêng liêng của con người, không bị tước đoạt bởi bất cứ ai và bất cứ tổ chức nào.
2. Phân loại quyền con người, đặc trưng cơ bản của quyền con người
- Theo Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, con người có ba nhóm quyền cơ bản bao gồm quyền dân sự, quyền chính trị và quyền kinh tế, xã hội - văn hóa.
- Quyền con người có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ là quyền vốn có, thiên bẩm của con người, là quyền được thừa nhận chung cho tất cả mọi người trên trái đất, không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, quốc tịch, địa vị xã hội.
+ Tính không thể chuyển nhượng: Tính không thể chuyển nhượng của quyền con người thể hiện ở các quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này gắn liền với cá nhân mỗi một con người và không thể chuyển nhượng cho bất kỳ người nào khác.
+ Tính không thể phân chia: Tính không thể phân chia của quyền con người thể hiện ở chỗ các quyền con người gắn kết chặt chẽ với nhau, tương hỗ lẫn nhau, việc tách biệt, tước bỏ hay hạn chế bất kì quyền nào đều tác dụng tiêu cực đến giá trị nhân phẩm và sự phát triển của con người.
+ Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
3. Ghi nhận của thế giới về quyền con người
Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Những thành tựu pháp lý quốc tế về quyền con người hiện nay là sản phẩm của cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, gian khổ của toàn thể nhân loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, xây dựng cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Quyền con người không chỉ là khái niệm chính trị - pháp lý mà còn là giá trị nhân văn cao quý nhất, với nguồn gốc sâu xa từ những giá trị cổ xưa nhất và trong các loại kinh thánh thuộc các tôn giáo lớn như Kinh Vệ Đà (Đạo Hin - Đu), Kinh Phật, Khổng giáo… và được ghi nhận bằng nhiều văn bản pháp lý.
a/ Quyền con người trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Hiến chương Liên hợp quốc được Liên hợp quốc thông qua ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945. Đây là văn bản quốc tế rất quan trọng, là văn bản quốc tế đầu tiên trải qua hơn 60 năm thử thách vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý và các ý nghĩa xã hội, trong đó có các điều khoản về bảo vệ và thực hiện “quyền con người cho tất cả mọi người”. Hiến chương đã đặt nền móng đầu tiên cho việc thiết lập một cơ chế pháp lý quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thế giới.
Lời mở đầu của Hiến chương khẳng định: “Tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, vào quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ”. Điều 3 kêu gọi các quốc gia “thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Hiến chương kêu gọi tất cả các nước hành động phối hợp với Liên hợp quốc để đạt được việc tôn trọng và thực hiện quyền con người trên toàn thế giới.
b/ Tuyên ngôn của thế giới về quyền con người.
Ngày 10-12-1948, 48 trong số 58 nước thành viên đầu tiên của Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển xã hội loài người. Đây là lần đầu tiên mà các quyền cơ bản và tự do kể trên của con người được cộng đồng quốc tế công nhận và được đảm bảo bằng một văn kiện pháp lý chính thức.
Tuyên ngôn, gồm Lời nói đầu và 30 điều ghi nhận thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài vì phẩm giá và các quyền của con người với nội dung đã quán triệt ý tưởng cao đẹp được khẳng định trong Lời nói đầu của Hiến chương Liên hợp quốc. Phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần trong một đời người gây cho nhân loại đau thương khôn xiết, tuyên bố một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa các nước lớn và nhỏ. Quyền con người là một giá trị - một giá trị chung của toàn thể loài người và của mỗi dân tộc, là chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia phấn đấu thực hiện”. Hai điều đầu tiên của Tuyên ngôn khẳng định rằng: Tất cả mọi người, không phân biệt, sinh ra đều tự do, bình đẳng về phẩm giá và các quyền và nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản của sự bình đẳng, không phân biệt trong việc hưởng các quyền và tự do cơ bản. 19 điều tiếp theo (từ Điều 3 đến Điều 21) quy định các quyền dân sự và chính trị mà con người phải được hưởng. 7 điều cuối (từ Điều 22 đến 28) của Tuyên ngôn đề cập đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
c/ Quyền con người trong các bản hiến pháp tiến bộ.
Nếu quyền con người trong Hiến chương và tuyên ngôn nhân quyền thế giới là những quyền cơ bản nhất chung cho cả loài người thì tất cả những quyền đó được cũng được thừa nhận và phát triển trong nhiều bản tuyên ngôn tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.
- Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Mỹ: Xét chung trong diễn biến lịch sử thì Hoa Kỳ cũng có vai trò nhất định trong việc phát triển và ủng hộ các ý tưởng và thực tiễn về nhân quyền. Thế giới lần đầu tiên chứng kiến thử nghiệm trên thực tế việc xây dựng một chính phủ mà sự vận hành của nó được đánh giá dựa trên mức độ tôn trọng và bảo vệ các quyền của người dân . Do vậy, nhân quyền được người Mỹ coi là một đặc điểm trong di sản quốc gia của họ và được nhiều nước sử dụng trong tuyên ngôn độc lập của mình.
- Tuyên ngôn dân quyền của Pháp: Tuyên ngôn Nhân quyền và Quyền của công dân là văn kiện quan trọng trong đại Cách mạng Pháp .Toàn văn, ngoài lời nói đầu ra còn có 14 điều, sơ lược liệt kê cương lĩnh chính trị và nguyên tắc hiến pháp của giai cấp tư sản. Được quốc hội quốc dân thông qua vào ngày 20 – 26/8/1789 : “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” .
Như vậy quyền con người tuy được ghi nhận ở trên thế giới theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu chung lại đều thể hiện được các quyền con người cơ bản, thiêng liêng nhất, mang tính chính trị sâu sắc nhưng cũng thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Ngoài những tuyên ngôn hiện đại trên, quyền con người cũng đã được nhận thức, ghi nhận trong nhiều các tác phẩm - văn bản khác như: Bộ luật Hammurabi, Trụ Cyrus, Hiến chương Magna Carta, các tài liệu tôn giáo,…
II. Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013.
1. Các quyền con người ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của chế định quyền con người, quyền công dân trong tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã dành 21 điều quy định về quyền con người. Điều đó cho thấy quyền con người có vai trò quan trọng trong bản Hiến pháp này.
- Thứ nhất, các quyền con người về chính trị, dân sự:
Khoản 1 - Điều 16: Mọi người có quyền bình đẳng trước pháp luật.
Khoản 2 - Điều 16: Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Điều 19: Mọi người có quyền sống của con người. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật.
Khoản 1 - Điều 20: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Khoản 2 - Điều 20: Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
Khoản 3 - Điều 20: Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.
Khoản 1 - Điều 21: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Khoản 2 - Điều 21: Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Khoản 2 - Điều 22: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.
Khoản 1 - Điều 24: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật
Khoản 1 – Điều 30: Quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều 31: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
- Thứ hai, các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa:
Điều 32: Quyền sở hữu của mọi người.
Điều 33: Mọi người có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Khoản 2 - Điều 35: Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.
Điều 36: Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.
Điều 37: Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 38: Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế
Điều 40: Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.
Điều 41: Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.
Điều 43: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
Điều 47: Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định.
2. Điểm mới về cơ cấu và cách thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.
- Khác với những bản hiến pháp trước đó, Hiến pháp 2013 đã đưa quyền con người vào chương II, ngay sau chương chế độ chính trị. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục mà là sự thay đổi về quan điểm, nhận thức của nhà nước, nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người.
- Tiêu đề chương II không chỉ có quyền của công dân mà quyền con người đã tách riêng, đứng trước quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này cho thấy chúng ta đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, vị trí của quyền con người.
- Khoản 1 - Điều 14 : “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người trong hiến pháp, vì hiến pháp 1992 chỉ ghi nhận các quyền con người chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân.
- Trong điều 15 và điều 16, Hiến pháp 2013 đã xác lập các nguyên tắc ghi nhận và thực hiện quyền con người như: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”; “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”…
- Chủ thể có các quyền và nghĩa vụ ngoài “công dân” còn có “mọi người”. “Mọi người” ở đây là con người và công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với Hiến pháp năm 2013, phần lớn các quyền, chuyển đổi đại từ nhân xưng chỉ chủ thể quyền từ “công dân” sang “mọi người” (hoặc “không ai”). Điều này phù hợp với bản chất của các quyền liên quan và tạo điều kiện để thực thi các quyền đó trên thực tế. Quyền con người không còn bị giới hạn trong quyền công dân nữa, mà bao trùm lên cả quyền công dân. Ví dụ như trong hiến pháp 1992 quy định “công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” (Điều 70) thì trong Hiến pháp 2013 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” (Điều 22).
- Thay vì quy định theo kiểu ban phát, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền con người theo cách “mọi người có quyền”. Điều này chứng tỏ rằng quyền con người là quyền tự nhiên vốn có, không do ai cho phép hoặc tước đoạt, không phải là sự ban phát, trao quyền của nhà nước. Trong hiến pháp 1992, cách ghi nhận quyền con người còn nhiều hạn chế, như: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57) khiến cho mọi người hiểu rằng quyền này là do nhà nước trao cho. Còn Hiến pháp năm 2013 lại ghi nhận theo cách khác: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 3). Chứng minh rằng, quyền là của con người, hiến pháp công nhận và ghi nhận. Nhà nước ban hành hiến pháp, luật để con người có điều kiện thuận lợi thực hiện tốt các quyền này chứ không phải để cản trở hay cướp đoạt quyền chính đáng của con người.
- Bỏ quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp, luật” (Điều 50) trong Hiến pháp năm 1992. Bởi quyền con người bao hàm quyền công dân, quyền công dân phụ thuộc vào quốc tịch còn quyền con người là tự nhiên vốn có nên không thể đồng nhất quyền con người với quyền công dân.
3. Một số quyền con người mới trong Hiến pháp 2013
- Hiến pháp năm 2013 ghi nhận nguyên tắc hạn chế quyền con người:
Khoản 2 - Điều 14: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Quyền này chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp mà hiến pháp đã quy định như trên. Các bản hiến pháp trước đó chưa quy định điều này. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm loại trừ khả năng các cơ quan nhà nước có thể bằng các loại văn bản quy phạm pháp luật, dưới luật làm vô hiệu hóa hoặc hạn chế quyền con người và quyền công dân. Nó bảo đảm sự cân bằng lợi ích trong mối quan hệ nhà nước với con người, cá nhân, công dân và sự minh bạch của các mối quan hệ này.
- Hiến pháp bổ sung thêm một số điều mới về quyền con người.
Điều 19: “Mọi người đều có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Quyền sống là quyền cơ bản của con người, không có quyền này sẽ không có tất cả các quyền còn lại. Quyền sống được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế và ở cả trong Tuyên ngôn độc lập của nước ta năm 1945. Những nước hình phạt chưa được xóa bỏ thì chỉ được thi hành với những tội phạm nghiêm trọng nhất, trên cơ sở đã có hiệu lực pháp luật, do tòa án có thẩm quyền phán quyết. Không thi hành án với người dưới 18 tuổi và phụ nữ đang mang thai. Quy định này khái quát nhất về cơ chế bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của con người bằng cách quy định những điều “cấm” và quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền sống của con người.
Khoản 1 - Điều 36: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp đầu tiên quy định về việc ai có quyền kết hôn. Bởi vì, cho tới tận bản Hiến pháp 1992 thì vẫn không có điều khoản nào quy định về việc ai có quyền kết hôn. Thậm chí, Hiến pháp 1959 không có quy định về nguyên tắc “một vợ, một chồng” và trên thực tế, trước năm 1959 đa hôn vẫn không bị cấm trong quy định cuat pháp luật. Thứ hai, hôn nhân giữa hai người đồng tính đáp ứng được quy định này bởi lẽ Hiến pháp năm 2013 không hề quy định “hôn nhân là giữa một nam và một nữ” mà là “nam, nữ có quyền kết hôn”. Quy định về quyền kết hôn của “nam, nữ” không ảnh hưởng hay ngăn cản quyền kết hôn của người đống tính. Mặt khác, nguyên tắc “một vợ một chồng” mà Hiến pháp năm 2013 nhắc đến được hiểu là “đơn hôn”, tức là: “không ai được kết hôn với người khác khi đang ở trong tình trạng hôn nhân với một người”. Nguyên tắc này cũng không có nghĩa rằng hôn nhân phải là giữa một nam và một nữ. Vì vậy, người đồng tính nam là nam giới và người đồng tính nữ là nữ giới thì họ cũng có quyền kết hôn theo quy định hiện hành của Hiến pháp năm 2013.
Điều 43: “Mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Môi trường là nơi con người sinh sống nhưng hiện nay, môi trường đang bị suy thoái nghiêm trọng, ô nhiễm đất, nước,…xảy ra ở nhiều nơi. Đảng và nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường với mục tiêu năm 2020 tiến tới một xã hội có môi trường xanh, sạch, đẹp, phát triển kinh tế - xã hội luôn lấy con người làm trung tâm và dựa trên cơ sở bảo tồn, cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người được sống trong moi trường trong lành. Bên cạnh đó, cần sự chung tay, quyết tâm của toàn xã hội. Mỗi chúng ta phải tự có ý thức bảo vệ môi trường, tuyên truyền cho mọi người xung quanh tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường để ta được hưởng chính cái quyền đó.
Điều 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Văn hóa là điều không thế thiếu đối với con người. Đây là một nội dung sâu sắc, dành riêng cho văn hóa, khẳng định những quyền cơ bản về văn hóa của con người bao gồm: sáng tạo, hưởng thụ, tiếp cận, tham gia, sử dụng các sản phẩm, công trình, cơ sở văn hóa. Thiếu nó không thể hoàn thiện những yêu cầu về đảm bảo quyền con người trong xã hội hiện đại.
4. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong hiến pháp năm 2013.
Chương I, Khoản 3, Điều 2 đã ghi rõ hiến định việc kiểm soát quyền lực giữa các quan nhà nước đã tạo ra cơ chế ngăn ngừa chuyên quyền, lộng quyển làm tổn hại đến quyền con người. Và Điều 3 đã ghi nhận Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Vì vậy, tất cả mọi chủ thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Các cơ quan nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, như Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người (Khoản 14 - Điều 70); Chính phủ có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân (Khoản 6 - Điều 96); tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân cũng có nhiệm vụ như vậy, thể hiện ở điểu 102 và điểu 107. Hiến pháp nước ta lần đầu tiên đặt ra nhiệm vụ bảo vệ quyền con người đối với các cơ quan này, tạo nên một cơ chế bảo đảm, bảo vệ vững chắc.
Ở khoản 2 điều 119, Hiến pháp năm 2013 quy định cơ chế bảo đảm hiến pháp do luật định. Bởi Hiến pháp năm 2013 là đạo luật tôn trọng, công nhận, bảo đảm quyền con người, bảo đảm hiến pháp là bảo đảm quyền con người được thực thi một cách tốt nhất.
Trên đây là một số nội dung liên quan đến quyền con người được đưa vào các chương của hiến pháp để tạo thành cơ chế vững chắc giữ gìn, bảo vệ quyền chính đáng của con người.
5. Một số hạn chế về quy định quyền con người trong hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 là hiến pháp tiến bộ nhất của nước ta tính đến thời điểm hiện nay, các quyền con người được quy định trong hiến pháp rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, mang nhiều ưu điểm mà các bản hiến pháp trước không có được. Tuy nhiên, nó vẫn có một số hạn chế như sau:
- Về chủ thể quyền thì nhiều quyền chủ thể đã chuyển từ “công dân” sang “con người” thể hiện sự tiến bộ vượt bậc, nhưng một số quyền con người đã được thế giới công nhận, ví dụ như: quyền tự do đi lại, cư trú (Điều 23); quyền tự do ngôn luận (Điều 25); quyền học tập (Điều 39)… nhưng ở Hiến pháp năm 2013 thì nó vẫn là quyền công dân.
- Việt Nam là thành viên của 2 công ước: Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR) từ đầu thập kỷ 1980, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ “những chuẩn mực nhân quyền quốc tế tối thiểu” được ghi nhận trong 2 công ước này, mà đầu tiên là phải đưa vào hiến pháp. Mặc dù vậy, Hiến pháp năm 2013 vẫn thiếu vắng một số quyền và tự do quan trọng được nhấn mạnh trong công ước đã nêu, bao gồm:
+ Quyền không bị bắt làm nô lệ và nô dịch (Điều 8 – ICCPR); Quyền được giữ quan điểm riêng mà không bị can thiệp (Điều 19.1 - ICCPR)
+ Quyền đình công (Điều 8.1 - ICESCR).
Những quyền quan trọng trong công ước đã nêu chưa được đưa vào trong Hiến pháp năm 2013 vì đất nước còn đang trong quá trình xây dựng và phát triển thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong tương lai không xa những quyền này sẽ có trong Hiến pháp bởi đó là quyền chính đáng của con người.
KẾT LUẬN
Trên đây là một số nhận định của chúng em về vấn đề “quyền con người” trong Hiến pháp 2013. Những chế định về quyền con người trong bản Hiến pháp năm 2013 đã tiến một bước phát triển dài trên con đường hoàn thiện và phát triển. Điều đó sẽ tạo nền tảng pháp lý cao nhất để đảm bảo quyền con người được thực hiện hóa đầy đủ trong thực tiễn tạo mục tiêu, động lực mới cho sự phát triển một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh.
Mong rằng, qua bài viết này, nhóm đã giúp mọi người hiểu rõ phần nào các quyền con người trong Hiến pháp năm 2013. Từ đó, tự chúng ta biết được chúng ta có những quyền nào và được nhà nước đảm bảo quyền đó ra sao. Sự hiểu biết của nhóm vẫn còn nhiều hạn chế, rất mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài làm thêm phong phú, hoàn chỉnh hơn.
No comments:
Post a Comment