14/11/2014
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa - Bài tập học kỳ - Luật Tố tụng hình sự
MỞ  ĐẦU

Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương 3 Bộ luật tố tụng hình sự  thì người bào 
chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định. 

Nhận thức được tầm quan trọng vai trò của người tham gia bào chữa trong tố tụng hình sự, trên cơ sở giáo trình, tài liệu tham khảo và kiến thức từ  thầy cô, với bài tập lớn học kỳ môn Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, em xin chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa” với mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này. Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của em

NỘI DUNG CHÍNH

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1. Khái niệm người bào chữa trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam

Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác nhau về người bào chữa. Có một số quan điểm cho rằng:: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật” . Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án . Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào chữa là “thầy cãi”…


Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của người bào chữa cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật ra, tuy Bộ luật TTHS năm 2003 không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các điều 56, 57 và 58 Bộ luật TTHS thì có thể hiểu một cách chung nhất: “Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” 

Như vậy, người bị tạm giam, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền lựa chọn, cử người bào chữa và chính họ mới là người có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa, hay nói cách khác người bào chữa được tham gia vào tố tụng hình sự và có được các quyền và nghĩa vụ hay không là phụ thuộc vào ý chí của người có quyền bào chữa. Để đảm bảo sự vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, khoản 2 điều 56 bộ luật TTHS quy định những người sau không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.

2. Phân loại người bào chữa

Theo quy định của pháp luật TTHS thì người bào chữa có thể chia thành 3 loại như quy định tại điều 35 BLTTHS năm 1988 và nay là khoản 1 điều 56 BLTTHS năm 2003 gồm luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.

a. Luật sư bào chữa

Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn luật sư theo quy định của pháp luật. Điều 2 luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)” . Để trở được công nhận là một luật sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện như: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư.(Điều 10 và điều 11 luật Luật sư năm 2006)

Luật sư được lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân (Điều 23 luật Luật sư năm 2006), đây là quy định mới của luật Luật sư năm 2006 so với quy định của pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định này là sự mở rộng diện các luật sư được tham gia bào chữa trong  các vụ án hình sự, qua đó các luật sư không còn bị giới hạn bởi việc phải tham gia vào tổ chức hành nghề luật sư mới có thể thực hiện vai trò người bào chữa trong vụ án hình sự mà có thể thực hiện vai trò này ngay cả khi hoạt động dưới hình thức cá nhân.

b. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Loại chủ thể bào chữa thứ hai là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; pháp luật TTHS không quy định cụ thể ai là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nhưng có thể hiểu dựa trên các quy định khác của luật hôn nhân và gia đình và luật dân sự: người đại diện hợp pháp của người bị tam giữ, bị can, bị cáo là bố, mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, người giám hộ, anh chị em ruột và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.

Điều 305 bộ luật TTHS năm 2003 quy định “người đại diện  hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên và có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo”. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người Việt Nam ở nước ngoài.

c. Bào chữa viên nhân dân:

Loại chủ thể bào chữa này rất ít khi tham gia bào chữa trong TTHS. Trong thực tiễn thì các quy định về bào chữa viên nhân dân chỉ có hiệu lực từ trước khi Pháp lệnh tổ chức luật sư ban hành năm 1987. Sau này, theo quy định tại khoản 3  - mục III thông tư của bộ tư pháp số 313 – TT/LS ngày 15/4/1989 hướng dẫn thực hiện quy chế đoàn luật thì đoàn BCVND gần như không còn hoạt động nữa. 

Đến khi bộ luật tố tụng năm 2003 ra đời mới có một số quy định rõ ràng hơn về BCVND, tại điều 57, khoản 3 đã quy định thủ tục cử BCVND “ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”  và tại điều 305 khi quy định về người bào chữa cho người chưa thành niên cũng quy định: “trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc bị người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa…tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử người người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”, đây là quy định hoàn toàn mới so với  BLTTHS năm 1988 theo đó có thể hiểu BCVND là bất kì bất kì người nào được ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của mặt trận cử như đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…cử để tham gia bào chữa.

II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1. Quyền của người bào chữa

Trong bộ luật mới này có những quy định về người bào chữa được kế thừa và phát huy những giá trị pháp luật tố tụng truyền thống của nước ta trên cơ sở nghiên cứu chọn lọc và đúc rút kinh nghiệm trong pháp luật tố tụng của một số nước khác. Chính vì vậy mà bộ luật TTHS năm 2003 tại điều 58 quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm của người bào chữa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Sau đây là những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988:

Thứ nhất, về thời điểm bào chữa, Khoản 1 điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”

Như vây, BLTTHS năm 2003 quy định thêm thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ là một bước phát triển mới trong LTTHS ở nước ta. Đồng thời, tránh sự lạm quyền từ phía cơ quan điều tra, bắt giam, tạm giữ không cần thiết và giúp cho người bào chữa được tiếp súc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lơi hơn cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể bào chữa cho bị can ở giai đoạn sau của quá trình TTHS.
Thứ hai, là quyền của người bào chữa khi lấy lời khai của người bị tạm giữ: Điểm a khoản 2 điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định “người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tam giữ, và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tam giữ, bị can; xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”.

Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.

Thứ ba là quyền đề nghị báo trước về thời gian địa điểm  hỏi cung bị can:  “Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra  báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có măt khi hỏi cung bị can (điểm b khoản 2  điều 58 BLTTHS 2003). Đây cũng là một trong những điểm tiến bộ của BLTTHS 2003 so vơi BLTTHS  1988 trước đó. Quy định quyền này tạo điều kiện để người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện quyền có mặt trong các lần hỏi cung mà mình thấy cần thiết.
    
Thứ tư, người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (điểm c khoản 2 điều 58): Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiêm dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể ảnh hưởng không tốt tới quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
     
Thứ năm là quyền thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác (điểm d khoản 2 điều 58): muốn bào chữa tốt cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ dựa  vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra mà cơ quan điều tra đưa ra hoặc kết luận. Vì vậy người bào chữa phải có quyền tự mình thu thập tài liệu, đồ vật. Đây cũng có thể coi là quyền phục vụ cho các quyền khác của người bào chữa như quyền gặp bị can bị cáo bởi quyền có mặt khị hỏi cung bị can, bị cáo. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp và có quy định hoàn toàn mới so vơi BLTTHS năm 1988 về quyền của người bào chữa ở điểm d, đ khoản 2 điều 58 như trên; đã quy định về phạm vi, cách thức tiến hành thu thập tài liệu, đồ vật tình tiết liên quan đến việc bào chữa của người bào chữa. Nếu những đồ vật, tài liệu mà người bào chữa thu thập được đảm bảo tính khách quan, hợp lí của chứng cứ thì nhất định nó cũng được coi như chứng cứ có giá trị chứng minh trong vụ án.
    
Thứ sáu là quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong qua trình tham gia bào chữ (điểm đ khoản 2 điều 58): người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trong quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. 
     
 Mặc dù nội dung quyền  này không thay đổi nhiều so với quy định của bộ luật tố tụng năm 1988, nhưng bộ luật tố tụng hình sự 2003 tiến bộ hơn năm 1988 khi quy định những đảm bảo cho quyền này của người bào chữa được thực hiện, đó là quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phải trả lời cho người bào chữa biết về việc giải quyết những yêu cầu của người bào chữa (điều 122 BLTTHS 2003).
     
Thứ bảy, người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; bị can, bị cáo đang bị tạm giam (điểm e khoản 2 điều 58): Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện vọng của người bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tinh tiết ghỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho người này. Qua gặp ghỡ, trao đổi, người bào chưa giải thích những vân đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can bị cáo làm cho học có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
      
Thứ tám là quyền được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra (điểm g khoản 2 điều 58):  qua việc  đọc, ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được  nội dung vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tố tụng tại phiên tòa. Bên canh đó, việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án cũng tạo điều kiện cho người bào chữa phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
     
Quy định này đã loại bỏ được quy định chỉ mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước đây của BLTTHS 1988 “có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra (điều 36 BLTTHS 1988)”. Theo cách quy định trên của bộ luật TTHS 1988 thì mỗi cơ quan tiến hành TTHS có một cách hiểu khác nhau: ở giai đoạn xét xử, một số tòa án không cho người bào chữa  photocopy các tài liệu trong hồ sơ vì lấy lí do BLTTHS chỉ cho ghi chép chứ không cho sao chụp tài liệu, nhưng có một số tòa án linh động cho phép sao chụp. Những tồn tại này đã được, đã được BLTTHS năm 2003 sửa đổi, bổ sụng hợp lí hơn rất nhiều. BLTTHS 2003 quy định người bào chữa ngoài quyền đọc, ghi chép còn có quyền sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra làm cho quyền nghiên cứu hồ sơ của người bào chữa thực tế hơn.
      
Thứ chín, người bào chữa có quyền tham gia hỏi và tranh luận dân chủ tại phiên tòa trong giai đoạn xét xử (điểm h điều 58): Tại phiên tòa xét xử, vai trò của người bòa chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. 
           
 Như vậy, quyền tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa đã được bộ luật TTHS năm 2003 kế thừa và phát triển hơn so với BLTTHS năm 1988 nhờ những thay đổi trong các điều luật về tranh luận, xét hỏi, đối đáp tại phiên tòa; tăng cường tranh luận dân chủ giữa hai bên: buộc tội (viện kiểm sát) và gỡ tội (người bào chữa). Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp, vẫn theo kiểu xét hỏi nhưng tăng cường thêm yếu tố tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tính khách quan, dân chủ và minh bạch trong việc xác minh chứng cứ tại phiên tòa.
    
Thứ mười, người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm I khoản 2 điều 58): quy định người bào chữa có quyền này đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện, không thể thiếu được sự giám sát, kiểm tra đối với các quyết định cũng như hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Những quy định về quyền khiếu nại của người bào chữa trước đây trong bộ luật TTHS năm 1988 còn rất tản mạn không đủ cơ chế để thực hiện. Trong bộ luật TTHS năm 2003 quy định về quyền khiếu nại nói chung và quyền khiếu nại của người bào chữa nói riêng được quy định cụ thế hơn, nó dẫn chiếu tới một trương mới để quy định điều này, đó là trương XXV về quyền khiếu nại trong tố  cáo trong tố tụng hình sự. 
      
Cuối cùng là quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 điều 57 của Bộ luật tố tụng hình sự (điểm k khoản 2 điều 58). Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải có lợi cho bị cáo. 

2. Nghĩa vụ của người bào chữa 

Cùng với việc quy định về quyền của người bào chữa, nghĩa vụ của người bào chữa cũng được quy định tại khoản 3 khoản 4 điều 58 bộ luật tố tụng hình sự 2003, theo đó người bào chữa có các nghĩa vụ sau:
 Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định  để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự của bị can, bị cáo. 

Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, Viện kiểm sát, tòa án những đồ vật tài liệu liên quan đến vụ án, việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập thành biên bản theo quy định của BLTTHS. 

Người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bi can, bị cáo mà mình đã đảm nhận nếu không có lí do chính đáng. Có thể nói khi đã được mời hoặc yêu cầu bào chữa cho bị can, bị cáo, thì giữa người bào chữa và bị can, bị cáo đã hình thành một mối quan hệ tương đối khăng khít, vì vậy người bào chữa phải có trách nhiệm đối với bị can, bị cáo cho đến khi mà họ không có yêu cầu nữa, nếu như giữa họ có hợp đồng thuê người bào chữa thì người bào chữa có trách nhiệm thực hiện hợp đồng đến khi hoàn thành công việc theo hợp đồng thì thôi. 

Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi dục người khác khai báo dan dối, cung cấp tài liệu sai sự thật: người bào chữa tham gia bào chữa cho thân chủ của mình  nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trong sự thật, tránh trường hợp người bào chữa chỉ có mục đích duy nhất là bảo vệ cho thân chủ của họ, để làm nhẹ tội cho thân chủ nên tìm mọi biện pháp kể cả hợp pháp và không hợp pháp: như mua chuộc người làm chứng, tạo chứng cớ giả, xúi dục người khác khai báo dan dối có lợi cho thân chủ của mình mà không chú ý tới việc bảo vệ pháp chế, và nếu người bào chữa sử dụng biện pháp đúng luật thì không sao, nếu vượt qua thì phải chịu trách nhiệm. 

Người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án: đây là quy định mới của bộ luât tố tụng hình sự năm 2003. Một khi đã nhận tham gia TTHS để bào chữa cho thân chủ, người bào chữa phải thấy được tham dự phiên tòa của mình vừa là trách nhiệm vừa là quyền để qua đó mình thể hiện khả năng kiến thức chuyên môn của mình, đồng thời chứng tỏ vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo. Tránh tình trạng trong một số trường hợp tòa án cứ phải hoãn phiên tòa do văng mặt của người bào chữa như quy định tại khoản 2 điều 190 BLTTHS năm 2003. Hơn nữa, quy định về quyền này của người bào chữa cũng giúp đảm bảo đảm hơn quyền của bị can, bị cáo. Nếu người bào chữa không đến dự phiên tòa mà chỉ gửi bản bản bào chữa dựa trên những chứng cứ của hồ sơ vụ án thì hiệu quả công voeecj bào chữa sẽ không cao.

Quy định nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra và trách nhiệm của người bào chữa khi làm trái pháp luật: Theo quy định tại khoản 4 và điểm c khoản  khoản 3 điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa không được tiết lộ bí mật điều tra ma mình biết được khi thực hiện bào chữa; không sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chứ và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bao chữa, xử lí kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của bộ luật hình sự. 

III. THỰC TIỄN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

1. Những thành tựu đạt được.

Hoạt động của người bào chữa nói chung đã góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo; thể hiện tính dân chủ; đồng thời góp phần bảo vệ và tăng cường pháp chế XHCH. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:

Số vụ án có người bào chữa tham gia do bị can, bị cáo hoặc người đại diện của họ mời ngày càng tăng so với những năm trước đây. Cùng với sự phát triển về số lượng và chất lượng của đội ngũ luật sư trong những năm gần đây, số vụ án có người bào chữa tham gia mặc dù còn là con số khiêm tốn nhưng so với trước đây thì ngày càng tăng. 
  
Các vụ việc có luật sư tham gia tố tụng đã phát huy tốt sự công khai, dân chủ, minh bạch, thấu tình đạt lý, mang lại nhiều hiệu quả. Những sai sót cả những vi phạm quy định tố tụng, áp dụng không đúng các điều luật, quyết định mức án không tương xứng với những hành vi phạm tội… được các luật sư phát hiện, kịp thời đề nghị những người có trách nhiệm, cơ quan có thẩm quyền chỉnh sửa, bổ sung, không để gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nhờ vậy, công tác điều tra, bắt giam, khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện đúng pháp luật. Nhiều đề nghị của luật sư trong rất nhiều vụ án đã được CQTHTT chấp nhận như: đề nghị giảm mức hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành hình phạt, tuyên bố vô tội…Sự tham gia của người bào chữa đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và giúp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
     
Thực tiễn những năm qua cho thấy có nhiều vụ án đưa ra xét xử thu hút mạnh mẽ sự quan tâm đánh giá của dư luận như: vụ án Tân Trường Sanh với sự tham gia của 47 Luật sư bào chữa cho các bị cáo; vụ án Minh Phụng – EPCO với 58 Luật sư bào chữa; vụ án Năm Cam với 80 Luật sư tham gia bào chữa cho các bị cáo. Trong số các vụ án có người bào chữa tham gia phần lớn đã đạt được những hiệu quả đáng kế ở một mức độ nhất định. Nhờ có luật sư phát hiện các chứng cứ buộc tội không bảo đảm tính chân thực và tính pháp lý, một số bị can, bị cáo đã được tuyên vô tội hoặc hủy án để điều tra lại, sau đình chỉ vụ án. Một số trường hợp luật sư phát hiện những tình tiết giảm nhẹ chưa được xem xét đánh giá đầy đủ, được hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Có trường hợp án tử hình đã được giảm xuống chung thân hoặc tù có thời hạn. Điển hình như vụ Luật sư VPLS Dũng Đức và cộng sự bào chữa cho bị can Lê Đình Chinh về hành vi vận chuyển 6 bánh heroin đã phát hiện chứng cứ không rõ ràng, Lê Đình Chinh đã được tha.

2. Những tồn tại, hạn chế.
   
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy CQTHTT đã tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi nhất định để người bào chữa thực hiện các quyền của mình. Tuy nhiên thực tiễn thi hành vẫn còn gặp những tồn tại, hạn chế nhất định cần được khắc phục:

Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS 2003 phân loại người bào chữa gồm 3 chủ thể: luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trên thực tế bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo rất ít khi tham gia bào chữa trong TTHS và không được thống kê rõ, tham gia vào TTHS để bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư bào chữa. Tuy nhiên trên thực tế số lượng luật sư thường ít, lại phân bố không đều chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Theo số lượng thống kê tính đến năm 2009 hiện cả nước có hơn 5.500 luật sư, tức là cứ trên 16.000 dân mới có 1 luật sư. Những trường hợp bị can, bị cáo tự bào chữa thì chất lượng lại không cao, thậm chí có trường hợp bị kết tội oan nhưng họ vẫn cam chịu mà không biết phải làm thế nào để có thể minh oan. Như vụ án Trần Văn Chiến – người nông dân nghèo chịu 16 năm tù oan ở Tiền Giang là một trong những điển hình về tình trạng này .

Theo quy định của BLTTHS thì người bào chữa được tham gia ngay từ giai đoạn tạm giam, nhưng trên thực tế có thể nói rằng người bào chữa rất ít khi được tham gia và thậm chí có trường hợp là không được tham gia từ giai đoạn khởi tố chứ chưa nói gì đến việc họ được tham gia từ giai đoạn tạm giam. Thực tế hiện nay, người bào chữa vẫn chưa được các CQTHTT coi trọng và tạo điều kiện tham gia ngay từ khi được bị can, bị cáo hoặc người thân của họ mời mà thường kéo dài thời gian. Hiện nay nếu người bào chữa có mối quan hệ quen biết với cơ quan điều tra thì được cấp giấy chứng nhận bào chữa dễ dàng, nếu không cơ quan điều tra lại làm khó dễ khiến cho người bào chữa phải đi lại nhiều lần. Có khi cơ quan điều tra còn đòi hỏi phải có đơn yêu cầu mời luật sư của bị can, bị cáo mới cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư tham gia. 

Cũng theo quy định của BLTTHS thì người bào chữa có quyền đề nghị CQTHTT thông báo trước về thời  gian và địa điểm hỏi cung bị can để người bào chữa chủ động có mặt. Nhưng trên thực tế cho thấy không phải mọi cuộc hỏi cung bị can nào người bào chữa đều được có mặt, bởi nhiều trường hợp Điều tra viên không muốn người bào chữa tham dự khi hỏi cung bị can. Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy chế nào buộc điều tra viên phải thông báo thời gian lấy lời khai của bị can khi hỏi cung cho người bào chữa. Vì vậy mà quyền này của người bào chữa ít khi được thực hiện.

Theo quy định của BLTTHS thì người bào chữa còn có quyền gặp Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên thực tiễn đa số các trường hợp khi gặp bị can, bị cáo trong trại giam đều có giám thị ngồi bên cạnh nên việc gặp này thường không có hiệu quả cao.Trong quá trình gặp Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sự có mặt hay sự giám sát của Điều tra viên, giám thị có thể gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự khai báo của Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ không muốn nói ra những thông tin có liên quan đến vụ án, đến bản thân họ. người bào chữa muốn gặp riêng để trao đổi với Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng không có quyền yêu cầu giám thị ra ngoài được.

Thực tiễn cho thấy quyền của người bào chữa cũng như phương tiện, cách thức khi thu thập thông tin, tài liệu bị hạn chế hơn rất nhiều so với các CQTHTT. Điểm nữa là khi tham gia tranh luận tại phiên tòa, nhiều khi những ý kiến luận điểm có căn cứ và hợp lí của người bào chữa đưa ra tranh luận với phía buộc tội nhưng không được phía CQTHTT chấp nhận, và việc không chấp nhận này cũng không được giải thích rõ ràng thỏa đáng, chỉ kết luận chung chung như “Ý kiến của người bào chữa là không có căn cứ”. Trong một số phiên tòa việc tranh luận giữa người bào chữa và người tiến hành tố tụng chưa được tôn trọng, thời gian dành cho tranh luận không được nhiều, diễn biến phiên tòa chủ yếu theo sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, vai trò của người bào chữa rất mờ nhạt, nhiều quyền không được thực hiện do vậy người bào chữa thường không làm tròn được trách nhiệm với thân chủ. 

Tuy nhiên công bằng mà nói cũng phải thừa nhận rằng trong thực tế có không ít các trường hợp người bào chữa năng lực kém, không chịu đầu tư công sức vào việc nghiên cứu, tìm kiếm, điều tra thu thập những tình tiết để chứng minh mà chỉ chú tâm đưa nhưng tình tiết giảm nhẹ như hoàn cảnh gia đình, nhân thân thân chủ để bào chữa theo dạng “năn nỉ” rất thiếu hiệu quả. Nhiều người bào chữa còn thiếu trách nhiệm trong công việc, đặc biệt là bào chữa chỉ định, họ thường thực hiện việc bào chữa một cách rất hình thức. Có những trường hợp do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định nên người bào chữa đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa. Có trường hợp người bào chữa không làm sáng tỏ được những tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo mà lại vô tình buộc tội bị can, bị cáo. Ngược lại có những luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện pháp mà pháp luật cấm để biện bạch, cố tình đổi trắng thành đen vì những khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu. Có những luật sư bày cách xui bị cáo vờ ốm để trì hoãn phiên tòa…..

IV. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

1. Hoàn thiện các quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự:
          
Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và bào chữa viên nhân dân. Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong TTHS. Tuy nhiên, trong thực tiễn TTHS ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định cụ thể, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn khi xem xét và cấp giấy chứng nhận bào chữa cho các đối tượng này, việc cấp hay không cấp giấy chứng nhận bào chữa cũng gây rất nhiều tranh cãi. Mặt khác, tuy có một số người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân và có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận tổ quốc, nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật và kĩ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự. Như vậy theo ý kiến của tôi trong thời gian tới cần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về người bào chữa theo hướng:

- Thư nhất, cần xây dựng các quy định pháp luật cụ thể để hướng dẫn việc thi hành điểm b khoản 1 điều 56 BLTTHS theo hướng quy định các trường hợp nào thì người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, nguyên tắc và trình tự thủ tục thực hiện quyền bào chữa của đối tượng này.

- Thứ hai, nên bỏ quy định tại điểm c khoản 1 điều 56 BLTTHS bởi  hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006, Liên đoàn luật sư Việt Nam ra đời đã khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của đội ngũ luật sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp. Trong khi đó đội ngũ bào chữa viên nhân dân thì yếu kém, thiếu sự chuyên nghiệp và thiếu hiểu biết pháp luật và ít được công nhận khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, do vậy theo tôi nên bỏ quy định về bào chữa viên nhân dân để việc tham gia tố tụng của người bào chữa trở nên chuyên nghiệp hơn..

- Thứ ba, Vấn đề từ chối người bào chữa được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như vậy còn có bất cập, không hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không? 
          
Song song với việc hoàn thiện pháp luật, việc đào tạo nâng cao trình độ của người bào chữa cũng rất cần thiết, cần tăng cường đào tạo đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng, có năng lực và đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt hơn vai trò là người bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc tham gia của người bào chữa trong quá trình tố tụng vụ án hình sự
          
Điều 58 BLTTHS quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại điều 81 và điều 82 BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên quy định này lại chưa đề cập tới thời điểm kết thúc vai trò của người bào chữa trong vụ án hình sự, do vậy theo tôi nên bổ xung khoản 1 điều 58 BLTTHS thành: “1.Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và kết thúc khi người bị tạm giam , bị can, bị cáo không còn yêu cầu luật sư cho họ. Trong trường hợpbắt người theo quy định tại điều 81 và điều 82 của Bộ luật này thì luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
          
- Các quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều 48,49, 50 BLTTHS), cần quy định cụ thể về quyền của họ được giải thích quyền có luật sư ngay khi bị bắt và có quyền im lặng khi không có sự tham gia của luật sư bào chữa. Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Để khắc phục, tôi cho rằng BLTTHS cần quy định chi tiết theo hướng:

+ Ngoài điểm điều luật đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung. 

+ Bổ sung điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo tinh thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.

+ Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến.

- Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ. Mặt khác theo quy định của BLTTHS thì luật sư có quyền thu thập, sử dụng và đánh giá tài liệu, chứng cứ nhưng luật lại quy định luật sư phải có trách nhiệm giao các tài liệu, chứng cứ này cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. 

- Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh hơn, tôi cho rằng cần bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa” nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. 

KẾT LUẬN

Từ các phân tích trên, nhận thấy BLTTHS 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa nhưng những quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết nên việc bổ xung và hoàn thiện các quy định của BLTTHS là một yêu cầu tất yếu, bởi người bào chữa có vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự, họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế giám sát hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người giúp cho chế độ dân chủ trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trên đây là toàn bộ nội dung chính trong bài tập học kỳ của em với đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa” của em. Vì khuôn khổ bài tập học kì có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
                                                                        
Em xin chân thành cảm ơn!                                                                                                                                                 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 1988, 2003
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB. CAND, Hà Nội 2011.
3. Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn -  Luận văn thạc sĩ luật học / Đỗ Đình Nghĩa;2004
4. Tham luận quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự - Luật sự Nguyễn Văn Chiến phó chủ nhiệm đoàn luật sự Hà Nội
5. Người bào chữa trong Tố tụng Hình sự, Trần Văn Bảy – Thạc sỹ khoa Luật Hành chính, Đại học Luật TPHCM, tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2001

No comments:

Post a Comment