06/06/2015
Vấn đề tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội - Thực trạng và giải pháp
Bài tập học kỳ Luật Hiến pháp.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của toàn dân. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn và đổi mới. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống hoạt động của Quốc hội còn có những hạn chế. Đặc biệt đó là hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội là vấn đề còn nhiều thiếu xót. Hạn chế này không chỉ bắt nguồn từ cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội mà còn có nguyên nhân nội tại từ chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội. Chính vì lẽ đó mà em mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội- Thực trạng và giải pháp” để đi sâu vào tìm hiểu.

NỘI DUNG

I. Cơ sở lí luận của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội

1. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Là cơ quan duy nhất ở trung ương do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc bầu cử. Thể hiện vị trí qua cơ cấu và thành phần đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội đại diện cho tất cả các tầng lớp, giai cấp trong xã hội thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở là liên minh công nông và các tầng lớp trí thức. Trong cơ quan nhà nước không một cơ quan nào thể hiện rõ nét tính đại diện như Quốc hội.

Vị trí tính chất của Quốc hội còn được thể hiện thông qua các hoạt động của Quốc hội. Quốc hội thể hiện quyền lực nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tất cả những vấn đề quan trọng của đất nước phải được thực hiện tại kì họp Quốc hội.

Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri là đại biểu Quốc hội là đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Chính vì vậy đại biểu quốc hội chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhân dân, nắm vững tâm tư nguyện vọng của quần chúng đồng thời hoạt động dưới sự giám sát của quần chúng nhân dân.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Vì xuất phát từ bản chất của nhà nước quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện qua Điều 2 Hiến pháp 2013. Nhân dân không thể thực hiện quyền lực nhà nước nên quốc hội đại diện cho nhân dân thực hiện quyền lực của nhà nước, thực hiện nguyên tắc tập chung dân chủ.

3. Tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong những việc thể hiện các chức năng của Quốc hội.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất thực hiện ba chức năng là lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Với chức năng lập pháp, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đồng thời xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát, Quôc hội giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với các quy định của pháp luật. Đối với chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội là cơ quan quyết định về chính sách ngoại giao, các vấn đề chiến tranh và hòa bình, những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đông đảo người dân trong xã hội. Để thực hiện tốt các chức năng này, Quốc hội, các cơ quan của quốc hội và đại biểu Quốc hội cần rất nhiều thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau và nguồn thông tin trực tiếp từ cử tri là nguồn thông tin không thể thiếu, giúp cho các quyết định của Quốc hội mới có ý nghĩa thực tiễn.

4. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.

Quá trình hình thành và hoàn thiện những quy định về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành và hoàn thiện của bộ máy nhà nước, đặc biệt gắn với sự ra đời của năm bản hiến pháp.

Hiến pháp năm 1946 ghi nhận “ Nghị viện không chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân” ( Điều 25- Hiến pháp 1946). Năm 1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp thay thế Hiến pháp 1946. Năm 1960 Quốc hội ban hành Luật tổ chức Quốc hội, trong đó cụ thể hóa quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội “ Phải trung thành với chế độ dân chủ, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” ( Luật tổ chức Quốc hội 1960). Đến Hiến pháp 1980, quy định rõ hơn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội và được Luật tổ chức Quốc hôi năm 1981 cụ thể hóa. Hiến pháp 1992 ra đời một lần nữa khẳng định rõ bản chất nhà nước. Đoạn 1 Điều 97 Hiến pháp 1992 quy định “ Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước”. Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 
1992 về việc đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, ngoài việc quy định trách nhiệm tiếp xúc cử tri thường xuyên còn nêu rõ đại biểu Quốc hội phai thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Hiến pháp 2013, các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 và đã được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2001.

II. Thực trạng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nước ta hiện nay

1. Tổng quan về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong giai đoạn hiện nay

a. Hình thức tiếp xúc cử tri

Hiện nay có hai hình thức tiếp xúc cử tri, bao gồm: hội nghị tiếp xúc cử tri và gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri

Hội nghị tiếp xúc cử tri gồm có hội nghị tiếp xuc cử tri trước và sau kì họp Quốc hội, hội nghị tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú, hội nghị tiếp xúc cử tri ở nơi làm viêc và hội nghị tiếp xúc cử tri theo chuyên đề và lĩnh vực. Qua báo cáo tình hình cho thấy hình thức hội nghị tiếp xúc cử tri là khá phổ biến mà chủ yếu là tiếp xúc định kì trước và sau kì họp. Việc này diễn ra khá nề nếp, mỗi kì họp chúng ta lại thu được hàng nghìn ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo lên kì họp. Theo số liệu thống kê được của 59/63 Đoàn đại biểu Quốc hội, trong 4 năm (2004 - 2008), Đại biểu Quốc hội đã thực hiện được 14.599 cuộc tiếp xúc với tổng số 1.423.282 lượt cử tri, chủ yếu là tiếp xúc cử tri theo hình thức hội nghị (chiếm 98,23% số cuộc và 99,78% số lượt cử tri), trong đó tiếp xúc cử tri trước và sau Kỳ họp chiếm 93% số cuộc và 97,37% số lượt cử tri. 

Như vậy việc tiếp xúc cử tri trước và sau kì họp Quốc hội khá tốt. Tuy nhiên còn gặp rất nhiều khó khăn. Do phụ thuộc vào thời gian dự kiến chương trình, nội dung kì họp, việc thu thập thông tin còn hạn chế,cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu tiếp xúc rộng rãi của cử tri. Đối với việc tiếp xúc cử tri sau kì họp Quốc hội cũng có những kiến nghị trái ngược nhau về việc có nên duy trì hình thức này hay không.

Việc tiếp xúc cử tri ở nơi làm việc hoặc nơi cư trú có ý nghĩa quan trọng vì đây là những nơi đại biểu dành nhiều thời gian gắn bó với các hoạt động của bản thân mình. Việc tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú thu được những thành quả nhất định. Tuy nhiên hình thức này còn hết sức hạn chế cụ thể: Tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú chỉ chiếm 1,7% số cuộc và 0,83% số lượt cử tri (thống kê ở 25 Đoàn đại biểu QH), tiếp xúc cử tri ở nơi làm việc chỉ chiếm 0,87% số cuộc và 0,35% số lượt cử tri (thống kê ở 18 Đoàn đại biểu QH), tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực chỉ chiếm 2,63% số cuộc và 1,22% số lượt cử tri (thống kê ở 32 Đoàn đại biểu QH)

Về gặp gỡ tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri.Đây là hình thức ít được đại biểu Quốc hội triển khai và tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể là: Tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri chiếm 1,77% số cuộc và 0,22% số lượt cử tri (báo cáo của 9 Đoàn đại biểu QH). 

b. Nội dung tiếp xúc cử tri

Các quy định của pháp luật về nội dung tiếp xúc cử tri đã bước đầu tạo cơ sở để đại biểu Quốc hội thông qua, trao đổi với cử tri, nhưng trên thực tế nội dung tiếp xúc cử tri trong thời gian qua còn quá bất cập. Theo kết quả phiếu xin ý kiến 300 Đại biểu Quốc hội, chỉ có 9% đánh giá là được giải quyết dứt điểm, nhanh chóng, 80% cho rằng giải quyết không triệt để, kéo dài. Kết quả điều tra xã hội học trong tổng số 2.000 cử tri, chỉ có 23% đánh giá là được giải quyết thỏa đáng, 65% cho rằng giải quyết chưa thỏa đáng, 12% khó trả lời.

Nhiều cử tri đã nhận thức được mục đích, ý nghĩa của hoạt động tiếp xúc cử tri, tích cực đóng góp nhiều ý kiến xác đáng với Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, còn một bộ phận cử tri chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội. Bởi vậy, số lượng cử tri quan tâm và tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri của các Đại biểu Quốc hội còn chiếm tỷ lệ thấp. Bình quân hàng năm chỉ có khoảng 356.000 lượt cử tri tham gia tiếp xúc với Đại biểu Quốc hội. Phần đông cử tri, nhất là cử tri ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện quan tâm đến các vấn đề thuộc nội dung, chương trình Kỳ họp Quốc hội, tham gia đóng góp xây dựng luật, mà thường đề cập đến những vấn đề cụ thể, thiết thực liên quan đến đời sống xã hội tại địa phương, như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm), chế độ chính sách an sinh xã hội… Một số cử tri chỉ phản ánh những nội dung về khiếu nại, tố cáo liên quan đến cá nhân mình. 

c. Việc tổng hợp, tập hợp và chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri.

Việc tổng hợp, tập hợp và chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri thuộc trách nhiệm của đoàn đại biểu Quốc hội. Nhìn chung trong những năm qua, công tác tập hợp, tổng hợp và xử lí các ý kiến có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả ban đầu quan trọng song vẫn còn những hạn chế nhất định. Công tác tập hợp Các Đoàn ĐBQH đã phối hợp triển khai việc tập hợp, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri và kịp thời báo cáo theo quy định của pháp luật

Công tác tập hợp, tổng hợp, chuyển các ý kiến, kiến nghị của cử tri có lúc, có nơi chưa kịp thời và chưa thường xuyên, một số trường hợp còn trùng lặp trong việc chuyển cùng một ý kiến, kiến nghị của cử tri đến cùng một cơ quan, tổ chức. Theo đánh giá của một số Bộ, ngành trung ương, việc phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri để chuyển đến cơ quan có thẩm quyền có lúc, có nơi chưa chính xác nên có những kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức ở địa phương lại chuyển đến cơ quan, tổ chức ở trung ương. Một số ý kiến, kiến nghị chưa cụ thể, thông tin chưa chính xác, chất lượng thấp.

4. Đánh giá hoạt động tiếp xúc cử tri

a.Mặt đạt được 

Trong những năm vừa qua, công tác TXCT của ĐBQH đã dành được sự quan tâm từ nhiều phía, đã cải tiến và bước đầu đã khắc phục được tính hình thức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội và được nhân dân ghi nhận. Từ hoạt động TXCT, ĐBQH đã bổ sung được nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu để tham gia quyết định các vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự của Quốc hội. Nhiều vấn đề cử tri nêu lên đã được Quốc hội đưa ra bàn thảo công khai trước diễn đàn và được nhiều cử tri đồng tình, ủng hộ. Vị thế và uy tín của ĐBQH nói riêng và của Quốc hội nói chung ngày càng được khẳng định và nâng lên. 

Qua hoạt động TXCT, ĐBQH đã phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri, đóng góp tích cực vào hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước ở trung ương và địa phương. Hoạt động TXCT của ĐBQH trong những năm gần đây đã góp phần tạo được không khí dân chủ trong xã hội, tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri, giữa chính quyền với nhân dân và giữa nhân dân với Quốc hội, nâng cao năng lực đại diện cho các vị đại biểu dân cử, tạo điều kiện để cử tri tham gia quản lý nhà nước, góp phần làm sâu sắc thêm bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

b. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TXCT những năm qua còn nhiều bất cập, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của cử tri. Về hình thức còn đơn điệu, nội dung thì bó hẹp chưa thật sự sâu sắc. Còn diễn ra các tình trạng “ cử tri chuyên nghiệp”. Chưa phản ánh được hết tâm tư nguyện vọng của nhân dân.Thời gian mỗi đại biểu dành cho TXCT là quá ít. Mỗi năm Quốc hội có 2 kỳ họp. Mỗi ĐBQH do đó có 4 kỳ TXCT. Mỗi kỳ như vậy tối đa được 2 ngày (khoảng 4 buổi). Vậy, một năm mỗi đại biểu chỉ có 8 ngày với cử tri. ĐBQH chưa giải quyết được hết yêu cầu thỏa đáng của nhân dân. Đại biểu kiêm nhiệm còn nhiều, chưa làm tròn nghĩa vụ của mình. Mặt khác cơ sở vật chất còn hạn chế. Các luật về vấn đề tiếp xúc cử tri còn nhiều hạn chế và bất cập. Bên cạnh đó còn rất nhiều bất cập đã nêu cụ thể ở phần thực trạng

III. Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tiếp xúc cử tri

Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp xúc cử tri, cần hoàn thiện các quy định pháp luật, trên cơ sở tổng kết các văn bản hiện hành, trình Quốc hội ban hành Quy chế về công tác tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội và sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan đến công tác tiếp xúc cử tri.

Nâng cao công tác tuyên truyền, kiến thức về việc tiếp xúc cử tri tới toàn thể nhân dân. Đặc biệt là cử tri ở vùng xâu vùng xa. Cử tri phải có nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân để làm tốt vai trò của mình. Cần quan tâm tới những vấn đề lớn hơn chứ không chỉ nghĩ tới thắc mắc hết sức cá nhân. 

ĐBQH cần tự trách nhiệm hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Cần có kiến thức đầy đủ để trách khỏi những lúng túng trong khi TXCT. Cần đi sâu xuống cơ sở để gần gũi với cử tri hơn. Trách việc làm qua loa đại khái.

Công tác tổng hợp, giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri cần thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng có trách nhiệm. Bổ sung quy định điều chỉnh một số hoạt động lien quan tới công tác tiếp xúc cử tri. Việc thực hiện, tập howowpjys kiến, kiến nghị của cử tri để trình ra kì họp Quốc hội. Quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục để đoàn Đại biểu Quốc hội có cơ sở thực hiện việc giải quyết giám sát các công việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền. Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và trách nhiệm của các cơ quan phối hợp để tổ chức tiếp xúc cử tri khi Đại biểu yêu cầu. Nhằm không gây lung túng khó khăn cho Đại biểu Quốc hội.

Cần hệ thống hóa lại quy định của pháp luật về hoạt động theo dõi đôn đốc và giám sát của các cơ quan Quốc hội về việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Cụ thể cần quy định trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động, giám sát của Quốc hội. Sửa đổi về thời hạn tiếp xúc cử tri, thời hạn giữ báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri sao cho phù hợp với yêu cầu.

No comments:

Post a Comment