Showing posts with label Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Show all posts
Showing posts with label Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Show all posts
25/08/2014
Cơ quan bảo hiến của các nước
NGUYỄN ĐỨC LAM

Hiến pháp như đạo luật cơ bản, đạo luật tối cao của mỗi quốc gia đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt về mặt pháp lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ hiến pháp, ngăn ngừa sự vi phạm hiến pháp của công dân và tổ chức cũng như của các cơ quan quyền lực nhà nước. Trên nguyên tắc, bảo vệ hiến pháp là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước và các quan chức có liên quan, được thực hiện thông qua việc áp dụng những phương tiện pháp lý khác nhau trong khuôn khổ thẩm quyền của mình. 

Nhưng ở đại đa số các nước trên thế giới, vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ hiến pháp, giám sát bảo hiến thuộc về các cơ quan bảo hiến khác nhau tuỳ theo từng nước: ở một số nước đó là các toà thẩm quyền chung với đỉnh là toà án tối cao, ở những nước khác – toà án hiến pháp, ở một số nước thứ ba – hội đồng bảo hiến…Vậy những cơ quan đó có lịch sử ra đời, phát triển ra sao? Có vai trò như thế nào? Được tổ chức theo các mô hình nào? Trong bài viết này, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin tham khảo xung quanh những nội dung trên đây.
23/08/2014
Trao đổi về hoạt động giám sát của Quốc hội - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2000
T.S. HOÀNG DUY- HOÀNG MINH HIẾU 
Trung tâm TT-TV&NCKH Văn phòng Quốc hội

Giám sát là một trong những chức năng quan trọng của Quốc hội nước ta. Điều 83, Hiến pháp năm 1992 quy định: "...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Chỉ trên cơ sở hoạt động giám sát, Quốc hội mới có điều kiện nhận biết những quy địnhpháp luật và những quyết địnhcủa mìnhcó đúng đắn và hiện thực hay không; thông qua đó kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ những gì không còn phản ánhđúng thực tiễn khách quan; làm rõ trách nhiệm của các các cơ quan và các quan chức được giao quyền. Tuy nhiên, hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát đang là vấn đề thời sự hiện nay.

Mặc dầu thời gian qua, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã dànhnhiều thời gian và nỗ lực cho hoạt động giám sát, và hoạt động này đã đạt được một số kết quả đượcnhân dân cả nước ghi nhận (đặc biệt là hoạt động chất vấn. Do được truyền hìnhtrực tiếp, nên nội dung và thủ tục chất vấn tại Kỳ họp Quốc hội đang nhanhchóng được các Hội đồng nhân dân áp dụng. Và hiệu quả của hoạt động này vì thế mà đượcnhân lên gấp bội). Đây vẫn là hoạt động "còn yếu, hiệu quả chưa cao, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưađược các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu giải quyết"1[1] .


Giải thích cho thực trạng đáng lo ngại này, một số ý kiến cho rằng các quy địnhcủa luật pháp về quyền giám sát của Quốc hội là chưa thật đầy đủ, và do vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì cần phải có những sửa đổi đối với Hiến pháp và một số đạo luật có liên quan. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên, có lẽ, không nằm trong những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật, mà nằm ở cách hiểu chưa thống nhất và cách thức tổ chức thực hiện chưa thật tốt chức năng này trong thực tế.
Một số suy nghĩ về dự án luật về hoạt động giám sát của Quốc hội - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2000
TRẦN THẾ VƯỢNG
Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội

Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội là một việc rất quan trọng và là một đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra hiện nay nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý và góp phần tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội.

Sau một thời gian chuẩn bị khá công phu, nghiêm tÚc, mặc dù còn phải tiếp tục hoàn thiện nhiều hơn nữa nhưng, về cơ bản, Dự án luật đã thể hiện được một cách tương đối toàn diện các vấn đề về hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó có vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cũng như trách nhiệm của mỗi cơ quan trong quan hệ phối hợp thực hiện quyền giám sát.

I. Ý nghĩa quan trọng của việc dự án Luật thể hiện vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.

Qua nghiên cứu dự án Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, chúng tôi thấy dự án Luật về cơ bản đã thể hiện được vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát cũng nh trách nhiệm của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong quan hệ này.Theo chúng tôi, việc Dự án Luật thể hiện các nội dung này là đúng đắn và rất cần thiết bởi những lý do sau:
21/08/2014
Cơ sở lý luận của tố tụng lao động
Tố tụng lao động (TTLĐ) được hiểu là “trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (TCLĐ) tại cơ quan tài phán theo quy định của pháp luật”[1]. Theo cách hiểu này, trọng tài lao động (TTLĐ) bao gồm hai loại: (1) tố tụng trọng tài; và (2) tố tụng tại toà án.

Tố tụng TTLĐ bao gồm các bước: thụ lý vụ việc; xác minh, thu thập chứng cứ; hoà giải; ra quyết định giải quyết TCLĐ (phán quyết trọng tài).

Tố tụng tại toà án bao gồm các bước: thụ lý vụ án; xác minh, thu thập chứng cứ; hoà giải trước phiên toà; xét xử tại phiên toà; các thủ tục sau phiên toà. Cấp xét xử sơ thẩm nhìn chung phải qua hầu hết các thủ tục trên, trừ trường hợp có căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án hoặc các đương sự hoà giải được với nhau. Tại cấp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, tuỳ theo quy định của pháp luật và sự cần thiết mà phải thực hiện tất cả hoặc một số bước trong trình tự trên.

Ở Việt Nam, TTLĐ được quy định tại Bộ luật Lao động (BLLĐ). Theo BLLĐ năm 1994 (sửa đổi năm 2002), tính chất “tố tụng” của TTLĐ mặc dù được thể hiện trong các quy định của BLLĐ (ở chỗ Hội đồng TTLĐ có quyền ra quyết định về vụ tranh chấp trong trường hợp hoà giải không thành), tuy nhiên, tính chất này khá mờ nhạt và hiệu quả không cao. Điều này thể hiện ở chỗ: TTLĐ chỉ sử dụng trong việc giải quyết TCLĐ tập thể (không sử dụng trong việc giải quyết TCLĐ cá nhân); phán quyết TTLĐ không có giá trị chung thẩm (sau khi có phán quyết trọng tài, nếu không đồng ý với quyết định của Hội đồng TTLĐ các bên vẫn có thể khởi kiện ra Toà án yêu cầu giải quyết lại nội dung vụ TCLĐ từ đầu); thủ tục TTLĐ nhìn chung không được áp dụng trên thực tế, mặc dù TCLĐ và đình công xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp…
20/08/2014
Phân tích Tình tiết định tội "Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"
Định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm nào đó trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS).

Định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm nào đó trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Định tội cũng là một hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng - chủ thể định tội thực hiện. Đồng thời, đó cũng là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật hình sự. Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng phải căn cứ vào cấu thành tội phạm (CTTP) được rút ra từ những quy định của BLHS. Nếu tình tiết của một hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của một CTTP cụ thể được quy định trong BLHS, thì hành vi đó được xác định theo tội danh của CTTP đó.


Như vậy, CTTP được xem là cơ sở pháp lý duy nhất để định tội, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Bởi vì, một trong những đặc điểm của tội phạm là được quy định trong BLHS. BLHS quy định tội phạm bằng cách mô tả các dấu hiệu của hành vi phạm tội. Từ cơ sở pháp lý đó, các nhà lý luận khái quát thành các dấu hiệu đặc trưng chung gọi là CTTP. Vì thế, chủ thể định tội cần nhận thức đúng bản chất các dấu hiệu CTTP trong quá trình định tội.
Thẩm quyền khởi tố hình sự của hội đồng xét xử - Luật Tố tụng Hình sự
1. Thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án

Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 về trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện Kiểm sát (VKS), Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định”. Tiếp theo là khoản 1 Điều 104 của BLTTHS về quyết định khởi tố VAHS: “… Hội đồng xét xử (HĐXX) ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố VAHS nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.


Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003, chủ thể có thẩm quyền khởi tố VAHS khá rộng như VKS, CQĐT… trong đó, có Tòa án - thông qua HĐXX bằng hoạt động xét xử tại phiên tòa. Với ý nghĩa nhằm đấu tranh phòng chống, kịp thời phát hiện tội phạm, việc quy định như vậy là đảm bảo tránh việc bỏ sót tội phạm trong quá trình giải quyết vụ án mà CQĐT, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp có thẩm quyền không phát hiện được tội phạm cho đến khi xét xử tại phiên tòa, thông qua việc xét hỏi, tranh tụng… thì HĐXX mới phát hiện được “tội phạm mới” hoặc “người phạm tội mới” và có thẩm quyền khởi tố vụ án. 
Nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa thành niên
1. Đặc điểm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên 

Người chưa thành niên(NCTN) là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự tăng trưởng, phát triển từ độ tuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi trưởng thành - là giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội tiết đã thúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự nhất định.Đây là giai đoạn “quá độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý học xác định quá trình hình thành và phát triển của NCTN phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý, tùy thuộc độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu tâm sinh lý rất khác nhau ở mỗi giới tính[1]; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính cách khác nhau khi bị tác động bởi những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.


Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên khi NCTN thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) thường xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau và do đó, VPPL của NCTN có các đặc điểm, cơ chế khác với hành vi VPPL của người đã thành niên.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá
Pháp luật về chống bán phá giá (CBPG) của Việt Nam được hình thành trong giai đoạn nước ta thực hiện những nỗ lực nước rút để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mục tiêu được đặt ra đối với chế định này là hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam cho phù hợp với quy định của WTO và sẵn sàng cho thời kỳ hội nhập sau khi gia nhập tổ chức này. Trước đó, không có bất kỳ một tiền lệ hay một quy định nào điều chỉnh cụ thể vấn đề này. Trên thực tế, khi soạn thảo các văn bản thuộc chế định này, các cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, các cơ quan thẩm tra, các nhà tư vấn trong và ngoài nước đều dựa trên những quy định về CBPG của WTO và một số nước thành viên WTO. Về cơ bản, tất cả các quy định của pháp luật Việt Nam về CBPG đều tuân thủ các quy định tại Hiệp định ADA[1]. Vì thế, về mặt nguyên tắc, Việt Nam không cần điều chỉnh, sửa đổi các văn bản hiện hành về CBPG để tuân thủ cam kết WTO. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về CBPG của Việt Nam còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật[2], nội dung các quy định này còn mang tính định “khung”, điều chỉnh những vấn đề thuộc về nguyên tắc mà chưa đi sâu vào những vấn đề mang tính chất chi tiết, kỹ thuật[3]. Đặc biệt, quy định cách tính biên độ phá giá hay xác định mức độ thiệt hại theo Điều 2 và Điều 3 của Pháp lệnh Chống bán phá giá (PL CBPG) năm 2004 cũng không thể hiện rõ có cho phép hay cấm sử dụng phương pháp Zeroing để tính biên độ phá giá trong quá trình điều tra. Vì vậy, khi các quy định này được áp dụng vào một vụ việc cụ thể, có thể dẫn tới việc vi phạm các nguyên tắc liên quan của WTO[4]. Do đó, các quy định trong PL CBPG nói chung, quy định về cách tính biên độ phá giá nói riêng cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng bổ sung quy định chi tiết cho những quy định “khung” hiện tại, nhất là quy định về cách tính biên độ phá giá, yếu tố cốt lõi nhất của vấn đề xác định thiệt hại.


Thông qua việc nghiên cứu 04 vụ kiện liên quan trực tiếp đến phương pháp Zeroing mang tính điển hình, có sự tham gia trực tiếp của Việt Nam hoặc của quốc gia có điểm tương đồng với Việt Nam[5], chúng tôinhận thấy những quy định mang tính chất kỹ thuật trong thực tiễn tính biên độ bán phá giá chưa được điều chỉnh bởi các quy định của Hiệp định ADA và PLCBPG của Việt Nam, kinh nghiệm đối phó của các quốc gia khi tham gia các vụ kiện liên quan đến phương pháp Zeroing qua thực tiễn đối phó với các vụ tranh chấp về bán phá giá của Việt Nam trong thời gian qua còn rất hạn chế.
Những bất cập và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật đấu thầu
1. Phạm vi áp dụng chưa rõ ràng, chưa tạo được môi trường pháp lý thống nhất

Khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu[1] quy định: “Luật này quy định về các hoạt động đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp đối với gói thầu thuộc các dự án sau đây: 1. Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển, bao gồm:

a) Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng;
b) Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
c) Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn;
d) Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
đ) Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển”.


Nhưng vấn đề đặt ra là, Luật chưa định nghĩa rõ ràng, chưa xác định thế nào là “dự án đầu tư phát triển”. Bên cạnh đó, điểm đ khoản 1 lại sử dụng cụm từ “Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển”. Đây là một cụm từ rộng và không thể xác định được cụ thể phạm vi áp dụng, nó mâu thuẫn trong chính nội tại của văn bản pháp luật, dẫn đến việc thực thi lúng túng, thiếu thống nhất trong thực tiễn. Thực chất về “vốn nhà nước” cũng không được pháp luật định nghĩa rõ ràng, thậm chí cho phép hiểu là nó quá rộng, bao gồm một số nguồn vốn cụ thể và “các vốn khác do Nhà nước quản lý”[2]. Trong các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không ghi rõ thế nào là “các vốn khác do Nhà nước quản lý” và do vậy, rất khó để xác định một số nguồn vốn cụ thể có được coi là vốn do Nhà nước quản lý hay không. Ví dụ, một dự án được cấp vốn vay bởi các ngân hàng quốc doanh thì có bị coi là sử dụng vốn nhà nước hay không?  
Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện Luật Phá sản 2004
Theo Thông báo của Tòa án nhân dân tối cao, từ khi Luật PS có hiệu lực đến hết quý II/2012, cả nước có hơn 600.000 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, nhưng có rất ít doanh nghiệp trong số đó nộp đơn xin phá sản theo Luật PS (chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng số các doanh nghiệp ngừng hoạt động). Tình trạng trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, các quy định của Luật PS quá phức tạp về mặt thủ tục, các thông tư dưới luật hướng dẫn cũng không cụ thể và rõ ràng. Chẳng hạn như theo quy định của Luật PS, thì quyết định mở thủ tục phá sản và quyết định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản được ban hành đồng thời. Trong khi đó Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm thán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật PS lại không hướng dẫn cụ thể thời hạn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật PS đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản lại quy định: khi quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán chỉ gửi văn bản đề nghị cử người tham gia tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, quyết định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ ban hành sau. Hướng dẫn của hai văn bản trên là mâu thuẫn với quy định của Luật PS. Ngoài ra, chi phí được sử dụng để mở thủ tục phá sản được quy định tại Điều 21 Luật PS cũng chưa rõ ràng, làm cho Tòa án các địa phương lúng túng trong việc áp dụng quy định về phí phá sản và tạm ứng phí phá sản để mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã.
Phương án hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ của công dân
1. Nhận thức khái quát về quyền tự do dân chủ của công dân

Trong khoa học pháp lý, các từ “tự do” và “dân chủ” được kết hợp theo các cách khác nhau trong các cụm từ sau đây để thể hiện quyền dân chủ của công dân: “quyền dân chủ tự do” và “quyền tự do dân chủ”. Trường hợp đầu, “dân chủ” là danh từ, còn “tự do” là tính từ và trường hợp sau, “tự do” là danh từ, “dân chủ” là tính từ, cả hai trường hợp cùng đều được dùng để chỉ quyền tự do của công dân trên phương diện dân chủ, như: tự do bầu cử, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do biểu tình...“Dân chủ” ở đây được xem xét gắn với mức độ, tính chất “tự do”. Đối với các chế độ chính trị thật sự dân chủ, người ta luôn gắn “dân chủ” với “tự do”. Bởi vì, chế độ dân chủ phân biệt với chế độ độc tài, chuyên quyền thì đã rõ; nhưng bản thân chế độ dân chủ cũng được chia thành hai loại cơ bản là dân chủ tự do - dân chủ cởi mở, phát triển ở trình độ cao và loại dân chủ hạn chế (ít tự do hoặc giả hiệu). Trên sách báo chính trị, pháp lý hay trong các văn kiện chính trị - pháp lý, còn thấy hiện diện các cụm từ “quyền tự do, dân chủ” và “quyền tự do và dân chủ”. Đây là hai cụm từ tương đương nhau, dùng để chỉ phạm vi rộng lớn các quyền của công dân xét trên phương diện “tự do” và quyền của công dân xét trên phương diện “dân chủ” hay chủ quyền nhân dân. Hai cụm từ này cũng biểu thị các quyền công dân của công dân như trên, nhưng ngoài ra, chúng còn bao gồm cả các quyền tự do khác về dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của họ như: tự do thân thể, tự do kinh doanh, tự do lao động, tự do nghỉ ngơi, tự do cư trú, tự do kết hôn, tự do tôn giáo, tự do nghiên cứu khoa học...


Về vấn đề dân chủ, trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý cũng như thực tiễn lịch sử xã hội loài người, “nhân dân” là phạm trù, thế lực luôn giữ vị trí trung tâm. Vai trò của nhân dân đối với đời sống xã hội nói chung, đối với nhà nước, quyền lực nhà nước nói riêng được thể hiện bằng các cụm từ, cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ khác nhau: chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ, nhân dân làm chủ...nhưng đều thống nhất ở điểm quan trọng: người dân là chủ nhân của xã hội, là lực lượng quyết định tối cao các đối với các vấn đề của đời sống xã hội, đời sống nhà nước. Vấn đề dân chủ được đặc biệt được coi trọng trong lý luận và thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng pháp quyền. Theo đó, dân chủ là một đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước pháp quyền. Xét về nguồn gốc, lý luận về nhà nước pháp quyền hình thành là nhằm phản kháng, đối kháng với các nhà nước chuyên chế cảnh sát trong mục đích giải phóng con người, bảo đảm quyền con người, chống lại quyền lực nhà nước vô hạn độ. Nhưng nói đến quyền con người đồng thời cũng ngụ ý nói đến dân chủ và nói đến dân chủ cũng hàm ý quyền con người. Bởi vì, dân chủ chính là tổ hợp của các quyền con người. Không có các quyền của công dân: quyền bầu cử, quyền lập hội, quyền hội họp, quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận...thì không thể nói gì về dân chủ.
Lý luận và thực tiễn việc hoàn thiện chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay
Hoàn thiện chế định sở hữu đất đai và hệ thống pháp luật có liên quan đến sở hữu đất đai là một trong những nội dung rất được quan tâm trong quá trình sửa đổi Luật đất đai lần này. Đề tài NCKH cấp bộ “Chế định sở hữu đất đai và việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do TS. Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện NCLP làm Chủ nhiệm đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sở hữu đất đai, phân tích thực tiễn thực hiện chế định sở hữu toàn dân về đất đai và kiến nghị hoàn thiện chế định sở hữu toàn dân về đất đai. Đề tài được nghiệm thu, đánh giá đạt kết quả xuất sắc.

1. Sở hữu đất đai phù hợp với yêu cầu của thực tiễn

Ở Việt Nam, đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay([1]).
Hoàn thiện các quy định của pháp luật đất đai về quy hoạch sử dụng đất
1. Pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về quy hoạch sử dụng đất

Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất hợp lý, hiệu quả thông qua việc bố trí, phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng và định hướng tổ chức sử dụng đất trong các đơn vị hành chính lãnh thổ, các ngành, tổ chức đơn vị và người sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái, bền vững trong từng thời kỳ.

Các quy định về quy hoạch sử dụng đất là một bộ phận quan trọng của ngành luật đất đai, là công cụ pháp lý quan trọng để quản lý và sử dụng đất có hiệu quả. Từ khi có Luật đất đai năm 1987 đến nay, chế định về quy hoạch sử dụng đất ngày càng hoàn thiện hơn, đã thể hiện rõ các căn cứ, cơ sở, nội dung và các vấn đề cụ thể của quy hoạch sử dụng đất. Công tác quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất đai đi vào nề nếp hơn. Quy hoạch sử dụng đất đã được lập trên quy mô cả nước, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã giúp cho công tác quản lý đất đai hiệu quả hơn, việc sử dụng đất hợp lý, khoa học và tiết kiệm.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về người bị tình nghi
1.1. Các quy định gián tiếp về quyền im lặng và nghĩa vụ khai báo của người bị tình nghi

Người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của bị can thể hiện sự tiến bộ của về mặt lập pháp để chứng tỏ rằng, quyền bào chữa có từ khi một người bị tạm giữ - Ảnh: S.T

Thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện thái độ của Nhà nước đối với quyền của công dân. Dù với tư cách là bị can, bị cáo nhưng họ cũng cần phải được đối xử một cách công bằng, nhân đạo như một con người, trong đó, nghĩa vụ chứng minh một người có tội hay không thuộc về Nhà nước. Điều luật quy định về “quyền” chứng minh vô tội cho bị can, bị cáo mà không là nghĩa vụ đã thể hiện sự tôn trọng quyền con người và đây là biểu hiện của quyền im lặng tồn tại trong chuẩn mực pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quốc tế (BLTTHS 2003 chưa quy định chính thức quyền im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Tuy nhiên, nguyên tắc tại Điều 10 lại không đặt ra đối với người bị tình nghi (thường được coi là người bị bắt và bị tạm giữ). Sau khi bắt và tạm giữ người, cơ quan điều tra củng cố tài liệu, chứng cứ buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can và trình Viện kiểm sát phê chuẩn. 


 Điều 209 BLTTHS 2003 nêu rõ, nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án. Quy phạm này gián tiếp quy định quyền im lặng của người bị buộc tội tại phiên tòa, và nó có logic với quy định không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội (Điều 72) và việc xem xét, giải thích mọi vấn đề phải có lợi cho người bị buộc tội (nguyên tắc suy đoán vô tội).
Hậu quả của việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự
1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự

Ở nước ta, khái niệm miễn TNHS chưa được giải thích trong các văn bản pháp luật thực định. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài cũng còn nhiều quan điểm không thống nhất về nội dung và nội hàm khái niệm này1. Chúng tôi cho rằng, dưới góc độ khoa học luật hình sự, miễn TNHS được hiểu là việc không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội.

Dưới góc độ pháp lý - xã hội, miễn TNHS có đặc điểm2:

- Cũng như TNHS, miễn TNHS thể hiện sự phản ứng (lên án) đối với người có hành vi phạm tội từ phía Nhà nước và xã hội.

- Miễn TNHS phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Chính sách phân hóa này “cũng là một cách hiệu nghiệm của việc thực hiện tốt nguyên tắc không để lọt tội phạm và người phạm tội... việc quy định chế định miễn TNHS... chứng tỏ rằng, con đường cơ bản, hậu quả cơ bản của tội phạm là TNHS, hình phạt và chấp hành hình phạt, còn tha miễn chỉ là trường hợp cá biệt, cụ thể, khi hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi...”3.

- Miễn TNHS thể hiện nội dung nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”. 


- Miễn TNHS có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với TNHS, nhiều nội dung về miễn TNHS được xuất phát từ TNHS. Ngoài ra, cũng như TNHS, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS), nhưng họ lại có những điều kiện nhất định để được miễn TNHS.
Một số vấn đề khi quy định về độ tuổi người lao động dưới 18 tuổi trong các luật, bộ luật
Trong các văn bản pháp luật hiện hành, người dưới 18 tuổi được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ luật Dân sự - BLDS (Điều 18), Bộ luật Hình sự - BLHS (Điều 68), Bộ luật Lao động - BLLĐ (Điều 119), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - Luật BVCSVGDTE (Điều 1)… Nhưng trong mỗi văn bản lại có cách quy định khác nhau về nhóm đối tượng này

Trong các văn bản pháp luật hiện hành, người dưới 18 tuổi được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ luật Dân sự - BLDS (Điều 18), Bộ luật Hình sự - BLHS (Điều 68), Bộ luật Lao động - BLLĐ (Điều 119), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - Luật BVCSVGDTE (Điều 1)… Nhưng trong mỗi văn bản lại có cách quy định khác nhau về nhóm đối tượng này. Khác với người đã trưởng thành, là người đã phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, có thể tham gia đầy đủ các quan hệ xã hội do luật  định, người dưới 18 tuổi chưa thể tham gia đầy đủ các quan hệ xã hội do họ có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và thể chất. Từ những đặc điểm riêng của nhóm người dưới 18 tuổi và để phù hợp với phạm vi, đối tượng điều chỉnh, các văn bản luật khác nhau lại có cách gọi khác nhau về nhóm người dưới 18 tuổi. 


1. BLDS và BLHS quy định nhóm người dưới 18 tuổi là “người chưa thành niên”, nhưng giới hạn về độ tuổi của người chưa thành niên lại khác nhau. Điều 18, BLDS quy định: Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên. Như vậy, BLDS coi tất cả những người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên.
Vai trò và trách nhiệm của đại lý bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1. Đặt vấn đề

Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường bảo hiểm, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự lớn mạnh của ngành bảo hiểm, Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) được Quốc hội thông qua đã tạo một nền tảng pháp lý cho hoạt động bảo hiểm phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn cả nước đã có 29 doanh nghiệp và hơn 30 văn phòng đại diện nước ngoài hoạt động trong tất cả các lĩnh vực bảo hiểm với các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH): công ty bảo hiểm nhà nước, DNBH cổ phần và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và tham gia trong nhiều lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm. Với doanh thu của các loại hình bảo hiểm trên địa bàn cả nước hằng năm đã đạt 900 triệu USD, tốc độ tăng trưởng khoảng 30%/năm, Việt Nam đang được coi là mảnh đất màu mỡ của các tập đoàn KDBH nước ngoài. Bên cạnh sự ra đời và thành công của DNBH không thể không tính đến vai trò của đại lý bảo hiểm (ĐLBH).


Các công ty bảo hiểm muốn kinh doanh hiệu quả, tăng doanh thu, phí bảo hiểm, tăng số lượng hợp đồng khai thác mới, tăng số lượng khách hàng thì phải có một hệ thống đại lý hoạt động hiệu quả, chuyên nghiệp và có tinh thần trách nhiệm cao; đồng thời, tạo niềm tin và sự quảng bá để tăng cường khách hàng tham gia và có điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ bảo hiểm thì hoạt động của các đại lý phải đảm bảo niềm tin cho khách hàng và gắn kết trách nhiệm của đại lý với hoạt động kinh doanh của đại lý và xiết chặt cơ chế quản lý đối với ĐLBH. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến vai trò và trách nhiệm của đại lý trong hoạt động bảo hiểm của DNBH, trên cơ sở đó, đề xuất ý kiến nhằm tăng cường trách nhiệm của ĐLBH góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KDBH, tạo động lực để hoạt động bảo hiểm trở thành một kênh tài chính hữu hiệu cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước. 
Pháp luật về kinh doanh bất động sản ở Việt Nam dưới góc độ hoạt động đầu tư nước ngoài
1. Pháp luật Việt Nam về kinh doanh bất động sản 

Ở Việt Nam trong một thời gian dài, hoạt động kinh doanh BĐS (BĐS) dường như ít được pháp luật đề cập. Đó là thời kỳ mà nền kinh tế được quản lý bởi cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong cơ chế đó, Nhà nước trở thành một trung tâm chỉ huy trực tiếp quản lý, điều hành mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như phân phối sản phẩm xã hội. Doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, không được tự chủ về xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh. Mọi công đoạn của quá trình sản xuất - kinh doanh đều thực hiện theo “cây gậy” chỉ huy của Nhà nước.

Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế nước ta đã mở ra một hiện thực hoạt động khác cho mọi loại hình doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hoạt động đầu tư, kinh doanh BĐS. Hệ thống pháp luật đã có gần đủ các văn bản quy phạm pháp luật cho mọi hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh, trong đó có kinh doanh BĐS.


Nói đến BĐS, trước hết phải đề cập đến đất đai và nhà ở, bởi đây là hai loại BĐS chủ yếu và quan trọng nhất. Trong lĩnh vực đất đai, trước đây, do việc “xã hội hóa” đất đai một cách tuyệt đối: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý (Điều 19 Hiến pháp 1980), nên pháp luật “đóng khung” quan hệ đất đai thông qua hành vi Nhà nước cấp đất (không thu tiền sử dụng đất) cho người dân và thu hồi đất khi họ không còn nhu cầu sử dụng. Các giao dịch về đất đai bị pháp luật nghiêm cấm. Điều 5 Luật Đất đai năm 1987 quy định “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại đất đai”. Còn trong lĩnh vực nhà ở, có hai hình thức sở hữu chủ yếu: sở hữu nhà nước và sở hữu của từng cá nhân. Trong thời kỳ này, giao dịch về BĐS là nhà ở chủ yếu là các giao dịch về thuê lại hoặc chuyển nhượng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; hay các giao dịch về mua bán nhà ở thuộc sở hữu tư nhân.
27/07/2014
Nghị quyết của Quốc hội là văn bản Luật hay văn bản dưới luật
TS. PHAN TRUNG HIỀN
PHÓ TRƯỜNG KHOA LUẬT- ĐHCT

Theo quy định của pháp luật, Quốc hội có thẩm quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là Hiến pháp, luật và nghị quyết. Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lập hiến, luật là văn bản thể hiện quyền lập pháp của Quốc hội, thì nghị quyết không được xác định rõ là văn bản luật hay văn bản dưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng để quy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế1, song cũng có nghị quyết dùng để bổ sung, sửa đổi Hiến pháp2. Thực tế này, cùng với những quy định thiếu chi tiết của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (Luật BHVBQPPL) có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhau trong giới nghiên cứu pháp luật và cả trong thực tiễn áp dụng pháp luật. 1. Quan niệm về lập hiến, lập pháp và lập quy.

1. Quan niệm về lập hiến, lập pháp và lập quy

Theo nghĩa đơn giản nhất, lập hiến là “làm Hiến pháp”, lập pháp là “làm luật”, còn lập quy là ban hành văn bản dưới luật, nhằm thi hành Hiến pháp và luật. Ở nước ta, quyền lập quy được xác định theo hướng loại trừ3 vì ngoài những vấn đề cơ bản thuộc quyền lập pháp, việc cụ thể hóa những nội dung từ quyền lập pháp hoặc những nội dung còn lại đều thuộc quyền lập quy. Vì vậy, quyền lập quy phải tuân thủ quyền lập pháp và các nội dung lập quy không được trái, không được tự ý thu hẹp hay mở rộng quyền lập pháp. Tuy nhiên, quyền lập quy có thể được giao về cho UBND cấp tỉnh trong những trường hợp thuộc quyền tự chủ của địa phương4. Vì lẽ đó, các nhà nghiên cứu thường ít khi dùng khái niệm “quyền lập quy” để chỉ hoạt động ban hành văn bản dưới luật của cơ quan nhà nước khác ở trung ương, ngoại trừ việc dùng cho cơ quan hành chính nhà nước là Chính phủ. Thay vào đó, ta có thể dùng khái niệm “thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật”. Theo quy định của pháp luật, Quốc hội Việt Nam là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp5. Đây là thẩm quyền đặc thù của Quốc hội mà các cơ quan khác như Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao… không có. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Quốc hội bị giới hạn ở quyền ban hành văn bản dưới luật bởi ngoài thẩm quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội còn rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn khác được quy định từ Khoản 2 đến Khoản 14 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001. Vì vậy, có thể nói, trong hoạt động ban hành VBQPPL, Quốc hội Việt Nam có ba tư cách: Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp và Quốc hội ban hành văn bản dưới luật.
Cơ sở hiến định về thu hồi đất vì mục đích công cộng ở Việt Nam
Để phục vụ cho mục đích công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế -xã hội, thời gian qua, Nhà nước ta đã tiến hành thu hồi có đền bù một số tài sản của cá nhân, tổ chức, trong đó có đất đai. Việc thu hồi này dựa trên cơ sở pháp lý cao nhất là quy định tại Điều 23 của Hiến pháp năm 1992 về trưng mua, trưng dụng tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Riêng đối với tài sản là đất đai, thì những nguyên tắc hiến định về sở hữu và quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân tại Điều 17, Điều 18 của Hiến pháp năm 1992 phải được nhắc tới. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ kỹ thuật lập hiến và lập pháp, tác giả cho rằng, có một số vấn đề cần bàn thêm về các quy định này cũng như về việc giải thích, hướng dẫn và vận dụng trong thực tế nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác thu hồi đất vì mục đích công cộng[1].

1. Nguyên tắc hiến định cơ bản và các quy phạm hiến định chi tiết

Thông qua việc tìm hiểu các quy định trong Hiến pháp 1992, ta nhận thấy các quy phạm trong Hiến pháp không hoàn toàn giống nhau. Một số quy phạm chứa đựng nguyên tắc; còn các quy phạm khác (quy phạm hiến định chi tiết) chỉ làm công việc quy định chi tiết các nguyên tắc đó để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cụ thể hóa và áp dụng trong các ngành luật.

Quy phạm chứa đựng nguyên tắc (nguyên tắc hiến định cơ bản) là các quy phạm thể hiện bản chất chế độ và tạo cơ sở nền tảng để quy định chi tiết các điều khác. Các điều chứa đựng quy phạm nguyên tắc thường tập trung ở những điều đầu tiên của Hiến pháp, nhưng cũng có thể nằm rải rác trong toàn bộ nội dung Hiến pháp. Ví dụ, ở nước ta, trong Hiến pháp năm 1992: nguyên tắc nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 2); nguyên tắc Đảng lãnh đạo và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (Điều 4); nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý (Điều 17, 18) v.v.. là các nguyên tắc cơ bản. Còn lại, nhiều điều lại quy định chi tiết các nguyên tắc cơ bản nên phải tuân thủ các điều có tính nguyên tắc.