Showing posts with label Bài nghiên cứu Luật. Show all posts
Showing posts with label Bài nghiên cứu Luật. Show all posts
12/08/2015
QUYỀN MIỄN TRỪ QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM
THS. BÀNH QUỐC TUẤN – Khoa Kinh tế , ĐHQG TP. Hồ Chí Minh

Tư pháp quốc tế là một lĩnh vực pháp luật có hệ thống chủ thể riêng của mình bao gồm thể nhân, pháp nhân và quốc gia. Trong đó, quốc gia được xác định là chủ thể đặc biệt của Tư pháp quốc tế. Vấn đề là khi quốc gia tham gia vào các mối quan hệ này, quyền và nghĩa vụ chủ thể của quốc gia hay nói cách khác, quy chế pháp lý của quốc gia được xác định như thế nào. Đối với Việt Nam, khi mà Tư pháp quốc tế chưa phát triển cả về lý luận lẫn thực tiễn, thì việc tiếp tục nghiên cứu và phát triển cả về lý luận lẫn quy định của pháp luật về quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào quan hệ dân sự quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần đưa Tư pháp quốc tế Việt Nam tiến gần hơn các chuẩn mực pháp lý chung của thế giới.
25/01/2015
CÁ NHÂN – CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ? - Bài nghiên cứu Luật - Công pháp quốc tế
CÁ NHÂN – CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ? 
NGUYỄN ĐỨC LAM

Từ khi mới xuất hiện đến nay chức năng chính của Luật quốc tế là điều chỉnh các mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau, bởi vậy chủ thể chính của luật quốc tế trong lịch sử phát triển của nó là các quốc gia. Nhưng từ những năm 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai trong khuôn khổ của luật quốc tế xuất hiện một ngành mới là luật về quyền con người. Quyền con người không còn là đối tượng điều chỉnh của hệ thống luật của từng quốc gia nữa đã làm nảy sinh ra vấn đề: cá nhân con người có phải là chủ thể của luật quốc tế hay không?
20/01/2015
Chế định ly hôn trong tư pháp quốc tế của Việt Nam
CHẾ ĐỊNH LY HÔN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1.   Xác định luật áp dụng


Văn bản áp dụng: Xung đột pháp luật trong lĩnh vực ly hôn được giải quyết tại Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.
Một số kiến nghị hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để giải quyết vụ án - TS. Phan Thị Thanh Mai Khoa Luật Hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội

Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự được áp dụng để giải quyết những vụ án hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, chứng cứ rõ ràng, người thực hiện hành vi phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Thủ tục này có sự rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nhanh chóng, hiệu quả; đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
30/08/2014
Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

I.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)

Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại


Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại
28/08/2014
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ BIỂN: NHÌN TỪ THỰC TIỄN MỘT SỐ VỤ VI PHẠM CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 TRONG VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
Th.S Nguyễn Ngọc Lâm
Trưởng khoa Luật quốc tế 
Trường Đại học Luật TP. HCM

Với mục đích của Hội thảo đề ra, trong phạm vi bài viết chúng tôi chỉ đề cập đến cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế về biển theo quy định của pháp luật quốc tế và một số kiến nghị của cá nhân, góp tiếng nói nhằm bảo vệ chủ quyền của về biển đảo của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

1. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia – cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp quốc tế.

Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc, lãnh thổ là biểu hiện của nền độc lập dân tộc và bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Bảo vệ biên giới, lãnh thổ chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Quyền này đã được pháp luật quốc tế công nhận. Vì vậy, khi giải quyết bất kỳ vấn đề gì liên quan đến biên giới và lãnh thổ chúng ta phải biết kết hợp các hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp đối với từng vụ việc phát sinh trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế; bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; giữ gìn quan hệ hữu nghị với các nước trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, góp phần gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
26/08/2014
Một số quan niệm về hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể người có liên quan đến vấn đề luật mô tạng tại Việt Nam hiện nay
1.1. Quan niệm về Vấn đề hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể người. để phục vụ y học và nghiên cứu tại Việt Nam

Hiện nay đã có rất nhiều nước trên thế giới đã có Luật qui định vấn đề “Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác nhân đạo. Chính vì thế mà ngành y học của họ rất phát triển do được sự hỗ trợ tốt về  hành lang pháp lý thuận lợi, chặt chẽ và cần thiết. Còn ở Việt Nam thì đây là một vấn đề “nóng” đã và đang thu hút sự chú ý quan tâm, tranh luận của rất nhiều cấp bộ ngành. Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn hết sức quan trọng vì nó liên quan, và chịu sự ràng buộc bởi rất nhiều yếu tố vấn đề khác nhau như: quyền được sống, quyền tự quyết, giá trị tinh thần gắn với đạo đức tín ngưỡng… cùng vô số những quan điểm lý lẽ đan xen nhau. Nhưng khi đi vào phân tích theo 3 quan điểm của một vấn đề có tầm ảnh hưởng lớn tới Chính trị và liên quan tới đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta, có gắn với sự cần thiết để có ngành Y học phát triển trong một xã hội “hiện đại” thì có thể thấy rằng vấn đề hiến “xác”, hiến mô tạng, hiến bộ phận cơ thể người là một việc nên đưa vào cuộc sống. Bản thân của vấn đề này không làm ảnh hưởng tới “đời sống tinh thần” sau khi chết, mà còn thuận lòng người vì nghĩa cử cao đẹp, đáp ứng được nhu cầu thực tế của tất cả những người đang sống và vì sự phát triển của khoa học y học. Khi đi vào cuộc sống thì khi ấy sẽ được người dân chấp thuận, chắc chắn nó sẽ không vi phạm văn hoá dân tộc như trước đây mọi người trong xã hội vẫn lầm tưởng. Cho dù trong thời gian gần đây Đảng, Nhà nước, các cấp bộ ngành, tập thể và các cá nhân đã dần nhận ra rằng đây chính là một việc nên làm, bởi vì nó gắn với giá trị đạo đức, có giá trị nhân đạo và nhân văn sâu sắc, đồng thời nó làm tái hiện sự sống, niềm vui từ những bộ phận trên cơ thể người chết. Tuy vậy, cần thiết phải có sự quản lý nhà nước về vấn đề này một cách chặt chẽ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của  người thân, gia đình các cá nhân tự nguyện hiến xác hoặc mô tạng. Đồng thời đáp ứng được nguyện vọng, tâm niệm của cá nhân người hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của mình sau khi chết. Chính vì điều này mà cần phải có sự cân nhắc, với các nguyên tắc trong việc hiến và nhận các bộ phận cơ thể đúng luật định như: tự nguyện với người hiến, người được ghép; vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học; không được nhằm mục đích thương mại…
25/08/2014
Sự tương đồng và khác biệt giữa nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự
Trong khoa học pháp luật dân sự, chúng ta gặp nhiều thuật ngữ khác nhau như: Nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.


Tất cả các thuật ngữ trên đều được dùng để chỉ về một loại quan hệ pháp luật dân sự có nội dung là một bên phải thực hiện hay không được thực hiện một công việc hoặc một số công việc nhất định để vì lợi ích của bên kia. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật trên được gọi bằng thuật ngữ nào lại phụ thuộc vào cách thức điều chỉnh và phương thức áp dụng luật đối với chúng. Hiện nay, chưa có tiêu chí cụ thể để phân biệt rạch ròi các thuật ngữ nói nên còn có sự lẫn lộn khi dùng các thuật ngữ đó. Vì thế, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi phân tích quy định của bộ luật dân sự (BLDS) về các vấn đề đã nêu trên, xác định sự giống và khác nhau giữa chúng, từ có sở đó đưa ra quan điểm của mình về tiêu chí khi sử dụng các thuật ngữ trên.
Cơ quan bảo hiến của các nước
NGUYỄN ĐỨC LAM

Hiến pháp như đạo luật cơ bản, đạo luật tối cao của mỗi quốc gia đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt về mặt pháp lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ hiến pháp, ngăn ngừa sự vi phạm hiến pháp của công dân và tổ chức cũng như của các cơ quan quyền lực nhà nước. Trên nguyên tắc, bảo vệ hiến pháp là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước và các quan chức có liên quan, được thực hiện thông qua việc áp dụng những phương tiện pháp lý khác nhau trong khuôn khổ thẩm quyền của mình. 

Nhưng ở đại đa số các nước trên thế giới, vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ hiến pháp, giám sát bảo hiến thuộc về các cơ quan bảo hiến khác nhau tuỳ theo từng nước: ở một số nước đó là các toà thẩm quyền chung với đỉnh là toà án tối cao, ở những nước khác – toà án hiến pháp, ở một số nước thứ ba – hội đồng bảo hiến…Vậy những cơ quan đó có lịch sử ra đời, phát triển ra sao? Có vai trò như thế nào? Được tổ chức theo các mô hình nào? Trong bài viết này, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin tham khảo xung quanh những nội dung trên đây.
23/08/2014
Vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ trong luật pháp quốc tế
1.1. VẤN ĐỀ THỤ ĐẮC LÃNH THỔ TRONG LUẬT PHÁP QUỐC TẾ

1.1.1. Vấn đề chủ quyền lãnh thổ

Trong quá trình phát triển lâu dài của nhân loại, cùng với sự xuất hiện của các quốc gia, Luật pháp quốc tế đã dần dần hình thành và phát triển.

Luật pháp quốc tế là hệ thống những nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể của luật pháp quốc tế (trước hết và chủ yếu là giữa các quốc gia). Quốc gia là một thực thể được cấu thành bởi 3 yếu tố: dân xư, lãnh thổ và chính quyền có chủ quyền. Nói đến quốc gia là nói đến chủ quyền quốc gia tức là nói đến quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Lãnh thổ quốc gia - một trong những yếu tố cấu thành không thể thiếu được của quốc gia cho phép xác định một quốc gia có phải là chủ thể của quan hệ quốc tế và của luật pháp quốc tế hay không. “Lãnh thổ quốc gia được hiểu là một phần trái đất, bao gồm vung đất, vùng nước, vùng trời trên chúng và lòng đất dưới chúng thuộc về chủ quyền một quốc gia nhất định. Trong phạm vi này quốc gia thực hiện chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của mình” [17, tr. 1141]. Nói một cách cụ thể hơn: Lãnh thổ quốc gia là một phần trái đất bao gồm đất liền, hải đảo, vùng nước nội địa, vùng nội thuỷ, lãnh hải và vùng trời trên chúng cũng như lòng đất dưới chúng thuộc về chủ quyền một quốc gia nhất định.
Trách nhiệm dân sự - so sánh và phê phán
TS. NGÔ HUY CƯƠNG
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát…

I. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự


Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Trách nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật (1). Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp lý giữa trái chủ và người thụ trái xác định, tại đó người thụ trái bị pháp luật cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ được xem như vi phạm pháp luật. Về điểm này, Bộ luật Dân sự Pháp qui định “hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết” (Điều 1134), tức là nghĩa vụ hợp đồng cũng có giá trị như luật. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự - một loại trách nhiệm pháp lý mà, theo nghiên cứu của học giả Lê Văn Cảm, có các đặc điểm: (1) Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm; (2) Luôn luôn được thực hiện trong phạm vi quan hệ giữa Nhà nước và bên vi phạm; (3) Được xác định bằng trình tự đặc biệt do pháp luật quy định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (4) Được thực hiện trong phạm vi văn bản đã có hiệu lực pháp luật đối với người vi phạm; (5) Có thể áp dụng đối với cả pháp nhân đối với vi phạm ngoài luật hình sự (2).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dưới góc nhìn so sánh
Mỗi một hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vi phạm. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều trường hợp hoặc là không thể chứng minh lỗi của người gây thiệt hại đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật , hoặc người này vốn dĩ không có lỗi – không hề có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại , nhưng thiệt hại vẫn xảy ra vì nhiều lý do khác nhau : ví dụ như cây cối đổ đè lên người đi đường, công trình xây dựng bị sụp lún đè lên làm sập nhà bên cạnh, chó cắn người qua đường…và nếu cứ đòi hỏi yếu tố lỗi làm căn cứ phát sinh trách nhiệm thì sẽ là rào cản cho việc bảo vệ quyền lợi những người bị thiệt hại. Thực tế ấy đòi hỏi một hướng giải quyết mới so với trách nhiệm BTTHNHĐ do hành vi gây ra mà bắt buộc phải chứng minh được lỗi của chủ thể vi phạm.

Trong trường hợp này, pháp luật nhiều quốc gia đều chung quan điểm về hướng giải quyết là áp đặt nghĩa vụ bồi thường thiệt hại lên những người có trách nhiệm ràng buộc với tài sản đó như chủ sở hữu , người quản lý hay nắm giữ tài sản đã gây ra thiệt hại nhằm mục đích khắc phục những hậu quả , khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại.Tuy nhiên mỗi quốc gia có những lập luận riêng về vấn đề này mà ảnh hưởng đến cấu trúc – nội dung chế định Bồi thường thiệt hại do tài sản trong pháp luật các quốc gia đó.
Lược sử quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại
TS. PHẠM KIM ANH – Đại học Luật TPHCM

Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết hoặc do luật định thì phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần. Nguyên tắc được coi là có tính tất yếu để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và tổ chức đồng thời nhằm mục đích duy trì trật tự lưu thông dân sự trong xã hội. Tuy vậy, nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ lại là kết quả của một quá trình diễn biến rất lâu dài trong lịch sử.


Trong thời kỳ cổ xưa khi xã hội chưa có nhiều định chế để giải quyết các vụ tranh chấp giữa các cá nhân với nhau nên mỗi khi quyền lợi của cá nhân bị xâm phạm, các cá nhân được tự ý trừng phạt lẫn nhau hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay tước đoạt tài sản của họ. Đây là chế độ tư nhân phục cừu. Dấu ấn của chế độ này còn lưu lại trong một số điều của hai Bộ Luật Hồng Đức và Luật Gia Long. Theo Điều 591 Bộ Luật Hồng Đức thì: “Người đòi nợ không trình quan mà tự ý bắt đồ đạc, của cải của người mắc nợ, nếu quá số tiền trong văn tự thì xử phạt 80 trượng, tính những của cải ấy trả cho người có nợ, còn thừa thì trả cho người mắc nợ”. Như vậy Bộ Luật Hồng Đức cho phép bắt đồ đạc để trừ nợ nếu việc trừ nợ không quá số tiền cho vay. Hạn chế này của Bộ Luật Hồng Đức nhằm loại trừ sự tự tiện của chủ nợ trong việc chiếm đoạt tài sản của con nợ để bù vào số tiền cho vay.
Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra
THS. BÙI THỊ MỪNG – Khoa Pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội

1. Khái quát chung về tài sản và quyền sở hữu tài sản của vợ chồng

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, tài sản của vợ, chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Căn cứ để phân định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là dựa vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý về thời kỳ hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp luật. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trong các trường hợp mà pháp luật quy định. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với mỗi loại tài sản cũng được ghi nhận cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền tài sản cho các bên vợ chồng. Chính vì vậy, các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản này có ý nghĩa lý luận thực và tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, tài sản của vợ chồng không chỉ liên quan đến quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng mà trong nhiều trường hợp còn liên quan đến lợi ích của người thứ ba. Vì vậy, xác định trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong những trường hợp cụ thể liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng nhằm ổn định quan hệ hôn nhân, gia đình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người thứ ba.
Một số vấn đề về thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
TS. TRẦN ANH TUẤN – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội

Việc bồi thường thiệt hại đối với người bị thiệt hại trong các quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trong quan hệ về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nói riêng là nhằm khắc phục thiệt hại, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra là một trách nhiệm có nguồn gốc đạo lý và pháp lý :

Về phương diện đạo lý, việc bồi thường thiệt hại là bổn phận đạo đức của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản. Về phương diện pháp lý, bồi thường thiệt hại là một nghĩa vụ phải làm một công việc (bồi thường) của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản được nhà lập pháp ấn định trong luật và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Trong xã hội văn minh ngày nay, người bị thiệt hại không có quyền tự xử bằng sức mạnh để đạt được sự bồi thường các thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Họ chỉ có thể sử dụng các phương tiện hợp pháp được nhà lập pháp trao cho để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình : Thoả thuận với người gây thiệt hại về việc bồi thường thiệt hại bằng con đường thương lượng dân sự hoặc cầu viện tới công lý để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Việc khởi kiện trước Toà án (1) và yêu cầu cơ quan thi hành án nhà nước cưỡng chế thi hành phán quyết (2) là một phương thức quan trọng để người bị thiệt hại bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra theo qui định của pháp luật việt nam và một số nước
TS. NGUYỄN MINH TUẤN – Khoa Pháp luật Dân sự

Bồi thường thiệt hại là một chế định dân sự tồn tại song hành với chế định sở hữu, vì thế hai chế định này phát triển rất sớm trong hệ thống các qui định của pháp luật mỗi quốc gia. Khi ra đời, để củng cố và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp bóc lột, nhà nước ban hành pháp luật, qui định những tài sản nào là của nhà nước, tài sản nào thuộc về cá nhân và đặc biệt qui định các chế tài có tính nghiêm khắc áp dụng đối với những ai có hành vi trái luật xâm phạm tài sản của người khác.

Ở nước ta, các bộ luật của nhà nước phong kiến như Luật Hồng Đức, Luật Gia Long có qui định về trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử do tình hình chính trị – kinh tế – xã hội khác nhau nên mỗi bộ luật qui định không giống nhau về nội dung các chế định đó.

Trong Luật Hồng Đức, tại chương tạp luật có các qui định về bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, như: trộm cắp, đánh người và các qui định về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra. Điều 568 Luật Hồng Đức qui định:
15/08/2014
So sánh Bộ luật hình sự Sing-ga-po với Bộ luật hình sự Việt Nam
Thứ nhất, về khái niệm tội phạm

Trong Bộ luật hình sự Việt Nam, khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 với nội dung như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 

Khác với cách quy định của Việt Nam, Bộ luật hình sự Singapo quy định khái niệm tội phạm tại Điều 40 với nội dung:  

“1. Trừ trường hợp theo chương này và theo các điều được quy định tại khoản 2 và 3, tội phạm có nghĩa là hành vi bị trừng phạt theo quy định của Bộ luật này. 


2. Trong chương IV và chương VA và các điều 71, 109, 110, 112, 114, 115, 116, 117, 187, 194, 195, 203, 211, 213, 214, 221, 222, 223, 224, 225, 327, 328, 329, 330, 331, 347, 348, 388, 389, 445, tội phạm có nghĩa là hành vi bị trừng phạt theo quy định của Bộ luật này hoặc các đạo luật khác đang có hiệu lực. 
27/07/2014
Nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan thì Tòa án cần phải thực sự độc lập trong hoạt động xét xử. Đã có rất nhiều các quy định pháp luật đã được ban hành trong thời gian qua nhằm giúp cho Tòa án thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của mình Tòa án vẫn còn phải chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, từ sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan khác đến những bất cập trong quy định của pháp luật khiến cho Tòa án đôi khi không thực sự khách quan khi xét xử.

1  ĐẶT VẤN ĐỀ

Một trong những tiêu chí hàng đầu được đặt ra trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) là phải luôn đảm bảo tính khách quan, sự công minh của người cầm cân nảy mực. Và để đạt được tiêu chí này thì đòi hỏi trong hoạt động của mình TAND phải độc lập. Có thực sự độc lập, không lệ thuộc vào các cơ quan khác thì TAND mới thực sự khách quan trong việc phán xét các vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND thì nguyên tắc độc lập luôn được đặt lên hàng đầu. Đây là nguyên tắc Hiến định và được cụ thể hóa trong tất cả các văn bản luật có liên quan đến TAND.[2] Ngoài nguyên tắc này thì cũng có rất nhiều những quy định khác được đặt ra nhằm đảm bảo sự độc lập của TAND. Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn tồn tại những hạn chế trong cả tổ chức và hoạt động của TAND, mà những hạn chế này ít nhiều khiến cho TAND không thực sự khách quan trong hoạt động xét xử. Để phân tích những bất cập trong tổ chức và hoạt động của TAND liên quan đến tính độc lập người viết sẽ trình bày một số nội dung chính sau đây. Thứ nhất, người viết sẽ xem xét nội dung của các quy định có liên quan đến nguyên tắc độc lập và những đảm bảo cho sự độc lập của TAND. Trên cơ sở đó, nội dung của nguyên tắc độc lập trong xét xử của TAND sẽ được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Cuối cùng, bài viết sẽ phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập trong hoạt động xét xử của TAND.
Hoàn thiện khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, để thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời phát triển lành mạnh và ổn định mọi quốc gia đều phải phấn đấu đạt tới các điều kiện: ổn định kinh tế, chính trị và có đầy đủ điều kiện pháp lý...

Đối với Việt Nam, TTCK là một lĩnh vực hết sức mới mẻ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm và thực tế, trong khi khung pháp luật về TTCK lại chưa hoàn chỉnh, có nhiều điểm chưa thống nhất và vẫn còn bất cập trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, để TTCK hoạt động ổn định và phát triển, đồng thời để tạo niềm tin cho nhà đầu tư, chúng ta cần phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật, đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng và cấp bách hiện nay.

Cho đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về chứng khoán (CK) và TTCK có thể kể tới vài ba chục..., văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau (Luật, Pháp lệnh, Nghị định, quyết định, Thông tư). Tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình phát hành, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị pháp lý dưới Luật, trong đó có văn bản điều chỉnh trực tiếp và quan trọng và có hiệu lực cao nhất là Nghị định 48 CP ngày 11 - 7 - 1998 của Chính phủ điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực quan trọng về CK và TTCK.
Chế định sở hữu đất đai và việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn
Hoàn thiện chế định sở hữu đất đai và hệ thống pháp luật có liên quan đến sở hữu đất đai là một trong những nội dung rất được quan tâm trong quá trình sửa đổi Luật đất đai lần này. Đề tài NCKH cấp bộ “Chế định sở hữu đất đai và việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do TS. Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện NCLP làm Chủ nhiệm đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sở hữu đất đai, phân tích thực tiễn thực hiện chế định sở hữu toàn dân về đất đai và kiến nghị hoàn thiện chế định sở hữu toàn dân về đất đai. Đề tài được nghiệm thu, đánh giá đạt kết quả xuất sắc.

1. Sở hữu đất đai phù hợp với yêu cầu của thực tiễn

Ở Việt Nam, đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay([1]).


Thực tiễn lịch sử cho thấy, sở hữu ruộng đất trong các giai đoạn phát triển luôn là vấn đề quan trọng. Từ năm 1945 đến nay, chế độ sở hữu đất đai có những bước phát triển phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Hiện nay, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào thực tiễn của Việt Nam, nhằm bảo đảm lợi ích toàn cục, lâu dài, Hiến pháp đã quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai để làm điểm xuất phát khi xác lập và xử lý các quan hệ đất đai trong tổng thể các quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Sau đó, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã được thể chế cụ thể trong hệ thống pháp luật về đất đai qua các giai đoạn và trong các văn bản quy phạm pháp luật.