LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu không có hệ thống pháp luật thuế thì không thể thì một quốc gia không thể phát triển toàn diện.
Với ý nghĩa đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức nên bài viết còn nhiều thiếu sót, kính mong được sự bổ sung, giúp đỡ của thầy,cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay
a) Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế
Thuế ra đời gắn liền với sự hình thành của Nhà nước, bởi Nhà nước ra đời, mục đích ban đầu là phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, kéo theo là cơ quan chức năng, cơ quan quyền lực và công cụ thực hiện quyền lực. Các cơ quan này không tạo ra nguồn vật chất cung cấp cho chính sự tồn tại và phát triển của bản thân mà trông chờ vào sự đóng góp của toàn thể công dân. Bằng sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Nhà nước bắt buộc mọi công dân phải chuyển một phần thu nhập của mình vào tay Nhà nước. Những khoản tiền mà công dân đóng góp từ thu nhập của mình chuyển cho Nhà nước nhằm tạo ra nguồn vật chất cung ứng cho mọi hoạt động của Nhà nước gọi là thuế.
Vậy sự ra đời của thuế chính là sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.Có thể nói, thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hòa thu nhập.
b) Định nghĩa về thuế
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng có thể hiểu một cách chung nhất đó là: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.
Như vậy, có thể thấy, bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế.Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau.
c) Đặc điểm của thuế
Thuế bao gồm bốn đặc điểm chính:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước khi có đủ điều kiện. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt Nhà nước thực hiện những hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế.
Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực.Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho Nhà nước.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.Nộp thuế là một nghĩa vụ xã hội mà công dân không có quyền trốn tránh và cũng không có quyền đòi hỏi trao đổi ngang giá (đối giá trực tiếp). Số tiền thuế mà các cá nhân và tổ chức kinh tế phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả năng thu thuế. Bất kỳ ai, khi có đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, không phân biệt họ đã nhận được những lợi ích công cộng nào.
Thứ tư, thuế đảm bảo việc chi tiêu cho lợi ích công cộng. Tổng thu nhập từ thuế Nhà nước chỉ chi một phần cho quản lý hành chính, đại bộ phận số thu nhập còn lại được chuyển giao cho dân chúng thông qua các hoạt động sự nghiệp và phúc lợi công cộng như: văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, thông tin, thể thao, bảo vệ môi trường, bảo trợ xã hội…
2. Pháp luật thuế
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Như vậy, pháp luật thuế chính là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và cư dân dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó, lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh cao.
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
Pháp luật thuế không chỉ quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì vậy, pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta.Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, thuế cũng như pháp luật thuế đang có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng để ổn định nguồn thu, được Nhà nước sử dụng như một công cụ chủ yếu để tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của Nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể khi có đủ các điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu thiết yếu của nhà nước. Do đó, sự thay đổi của các quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Như vậy, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước.
Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống còn đối với bất kì quốc gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự ngiệp phát triển kinh tế, xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Chính điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật thuế nói chung và thuế nói riêng không chỉ là công cụ quan trọng để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà còn điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội.
Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Với những lý do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải xây dựng hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau thùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp với giai đoạn hiện tại. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Không những vậy, thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ các nguồn nội lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vấn đề điều tiết thu nhập cũng đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trong trong việc giúp Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy định của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hội.
4. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy đinh gắn với chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thái kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó, có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
5. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết ở các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
6. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế
Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật thuế, Nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết lập các “hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc.
Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.
III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1. Các yêu cầu cơ bản để hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo nguồn thungân sách nhà nước không bị biến động lớn.Trong những năm qua, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước (khoản 25% tổng thu ngân sách nhà nước). Vấn đề đặt ra là khi chúng ta thực hiện các cam kết giảm thuế nhập khẩu thì trước mặt nguồn thu của ngân sách Nhà Nước (NSNN) từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi đáng kể kéo theo ảnh hưởng dây truyền tới cân đối ngân sách và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Do đó, yêu cầu đảm bảo nguồn thu ngân sách không bị biến động lớn khi tiến hành hoàn thiện pháp luật thuế hiện hành là xác đáng và cấp thiết.
- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo sự bảo hộ đúng đắn, đúng mức nền sản xuất trong nước.
Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua được xây dựng trên nguyên tắc bảo hộ nền sản xuất trong nước, một nguyên tắc được thừa nhận rộng nhận rộng rãi trong pháp luật quốc tế.Song điều đáng nói ở đây là chính sách bảo hộ đó có nhiều hạn chế, không phù hợp thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Điều kiện trước mắt của Việt Nam tiến hành hội nhập khi xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt thì vẫn cần thiết thực hiện bảo hộ phù hợp nền sản xuất trong nước.Tuy vậy, phương hướng bảo hộ cần thay đổi cho phù hợp với các cam kết quốc tế. Tiến hành bảo hộ chọn lọc đối với các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất những mặt hàng có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội nhưng sức cạnh tranh đối với hàng hóa quốc tế còn yếu, chi phí sản xuất còn cao là thực sự cần thiết và phù hợp với nguyên tắc và cam kết hội nhập.
- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo sử dụng thuế như một công cụ quan trọng nhằm khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là yêu cầu và mục tiêu quan trọng được đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.là một công cụ phân phối quan trọng của nhà nước, thuế có tác động rất lớn đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phù hợp và tiến bộ.
Do đó, để tận dụng những thời cơ thuận lợi của quá trình hội nhập, pháp luật thuế cần phải được quy định theo hướng hợp lí nhằm phát huy tốt vai trò to lớn nói trên theo định hướng của nhà nước.
- Hoàn thiện pháp luật thuế phải đảm bảo tạo môi trường pháp lí bình đẳng, công bằng áp dụng thuế thống nhất cho mọi đối tượng nộp thuế. Thuế phải đảm bảo tính trung lập cần thiết của nó, bỏ các quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế để thực hiện các chính sách xã hội, chuyển sang thực hiện các biện pháp tài chính khác…
- Pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập phải có tính hệ thống, đồng bộ, ổn định và đơn giản. cần đẩy mạnh cải cách theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai, dân chủ trong công tác quản lí thuế, bảo đảm dễ hiểu dễ thực hiện, giúp người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, cơ quan thuế thực hiện tốt nhiệm vụ quản lí thuế.
- Cần hoàn thiện pháp luật thuế theo hướng hiện đại hóa, kiện toàn bộ máy quản lí thuế, đẩy mạnh công tác tin học hóa….để hạn chế tới mức thấp nhất các hành vi gian lận thuế, chống thất thu ngân sách, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong quản lí thuế, tiến tới thực hiện cơ chế người nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế….
- Pháp luật thuế hiện hành cần phải phù hợp và tương thích với luật phát, thông lệ quốc tế, các cam kết về thuế mà VN tham gia, kí kết nhưng phải đảm bảo tối đa hóa lợi ích từ các cam kết thuế, tối thiểu hóa các chi phí trong quá trình hội nhập.
- Pháp luật thuế phải phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
Đất nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa–hiện đại hóa, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang rất cần một nguồn tài chính đủ mạnh. Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước cần tiền hành với một số nội dung sau:
a) Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế theo hướng
- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế)
- Xác định lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu là kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
-Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế.
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.
- Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.
- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
b) Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặt khác tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm
- Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
- Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
- Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến kiến nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khan, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Trong thời gian tới, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế đẻ thu hồi nợ đọng.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế. Từ đó có biện pháp xử lý thu hồi kịp thời tránh tình trạng tahats thoát nguồn thu.
c) Tăng cường công tác bồ dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cư sở hạ tầng ngành thuế
- Những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để dấp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
d) Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dâncư về các luật thuế và các văn bản luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. Đây là sức mạnh to lớn để thực hiện chính sách chống trốn thuế, lậu thuế,…