Showing posts with label Luật Tài chính. Show all posts
Showing posts with label Luật Tài chính. Show all posts
05/02/2016
Quy định của pháp luật về thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá nhân, những hạn chế trong quản lý và kê khai thuế thu nhập cá nhân - hướng khắc phục
Việt Nam là quốc gia đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nề kinh tế Thế Giới. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn được các quốc gia chú trọng hàng đầu. 

Việt Nam sau khi gia nhập WTO thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là điều không thể tránh khỏi. Vì thế thuế thu nhập cá nhân là điều đáng quan tâm không chỉ đối với Nhà nước ta mà còn đối với mỗi người dân. Bởi vậy, mong muốn được tìm hiều và nghiên cứu sâu sắc hơn về vấn đề này, nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích và làm sáng tỏ quy định của pháp luật về thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá nhân, những hạn chế trong quản lý và kê khai thuế thu nhập cá nhân - hướng khắc phục”.
31/08/2015
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt của năm 2014 và mối quan hệ với Luật sửa đổi bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2014
Bài tập học kỳ Luật Tài chính.

Cùng với sự thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, đến năm 2008 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt thay thế Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 (sửa đổi, bổ sụng năm 2003 và năm 2005), tiếp đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2014. Nhìn chung khung pháp lý về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn các nước khu vực và trên thế giới. Và việc thực thi pháp luậ thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam như thế nào còn là một vấn đề cần được quan tâm. Chính vì vậy em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt của năm 2014 và mối quan hệ với Luật sửa đổi bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2014” để thể hiện quan điểm và sự hiểu biết của mình về vấn đề này.
26/01/2015
Nội dung của nguyên tắc ngân sách toàn diện và sự thể hiện trong Luật Ngân sách nhà nước 2002 - Bài tập cá nhân Luật Tài chính
Nguyên tắc ngân sách toàn diện là một trong những quan niệm cổ điển về ngân sách, được xây dựng đầu tiên ở các nước có nền dân chủ sớm phát triển như Anh, Pháp, Đức… từ thế kỉ XVII, XVIII. Cho đến ngày nay, nguyên tắc này vẫn được giới khoa học đương thời thừa nhận như một quan điểm khoa học có tính lịch sử và đi xa hơn, họ còn luôn tìm cách củng cố, phát triển và đổi mới chúng để cho phù hợp với bối cảnh của nền tài chính công hiện đại.
24/01/2015
Quy định của pháp luật hiện hành và thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh - Bài tập học kỳ Luật Tài chính
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể hiện quyền lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu. Với xu thế nhất thể hóa các khu vực và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói riêng và khu vực nói chung, đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế, tài chính trước những thách thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện. Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ…  Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá Nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Việc ban hành kịp thời Luật này là góp phần thể chế hoá chính sách thuế của Đảng.
Các biện pháp tính thuế giá trị gia tăng và lý giải vì sao có sự khác biệt trong cách tính - Bài tập cá nhân Luật Tài chính

Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ. Điều 2 Luật Thuế GTGT năm 2008 quy định: “Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Thuế GTGT được thu qua mỗi khâu của quá trình sản suất kinh doanh. Pháp luật Việt Nam ghi nhận và quy định tại Điều 9 Luật thuế GTGT 2008 hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
09/01/2015
Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở thực tiễn áp dụng trong năm 2012; ý kiến pháp lí nhằm thực hiện tốt thuế thu nhập doanh nghiệp- Bài tập học kỳ -
Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Về bản chất, thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, là loại quan hệ giữa nhà nước với người nộp thuế. Lí luận và thực tiễn chỉ ra rằng, thuế ra đời và tồn tại là khách quan, là điều kiện vật chất quan trọng để nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo cơ sở pháp lí ổn định và vững chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện mục đích kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ.
08/12/2014
Bình luận quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở thực tiễn áp dụng năm 2012 - Bài tập học kỳ Luật Tài chính
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nói chung. Không chỉ thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo GDP lớn mà họ còn đóng góp rất lớn vào ngân sách nhà nước thông qua hoạt động nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, em xin lựa chọn đề bài số 13: “Bình luận quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở thực tiễn áp dụng năm 2012” làm bài tập học kỳ môn Luật tài chính.


Mặc dù bài yêu cầu số liệu năm 2012 nhưng em cũng cố gắng cập nhật thêm một số số liệu 2013 để đảm bảo tính thời sự của vấn đề. Do đây là một đề bài tương đối mới mẻ, số liệu yêu cầu gần (năm 2012) nên bài làm sẽ không tránh khỏi việc sai sót, ý kiến cá nhân chủ quan nên em rất mong thầy cô trong Bộ môn giúp đỡ hoàn thiện bài tập. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
25/11/2014
Bình luận quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở thực tiễn áp dụng năm 2012 - Bài tập học kỳ Luật Tài chính - 9 điểm
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nói chung. Không chỉ thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo GDP lớn mà họ còn đóng góp rất lớn vào ngân sách nhà nước thông qua hoạt động nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, em xin lựa chọn đề bài số 13: “Bình luận quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở thực tiễn áp dụng năm 2012” làm bài tập học kỳ môn Luật tài chính.


Mặc dù bài yêu cầu số liệu năm 2012 nhưng em cũng cố gắng cập nhật thêm một số số liệu 2013 để đảm bảo tính thời sự của vấn đề. Do đây là một đề bài tương đối mới mẻ, số liệu yêu cầu gần (năm 2012) nên bài làm sẽ không tránh khỏi việc sai sót, ý kiến cá nhân chủ quan nên em rất mong thầy cô trong Bộ môn giúp đỡ hoàn thiện bài tập. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
23/11/2014
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi Pháp luật Thuế nhập khẩu ở nước ta trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực hiện tốt thuế nhập khẩu - Bài tập học kỳ Luật Tài chính - 8,5đ
Hội nhập với thế giới là một một xu hướng chung của bất kì các quốc gia nào trong thời kì hiện nay, một trong những phương thức để hội nhập với kinh tế toàn cầu đó là xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xư hướng chung đó của toàn thế giới, chúng ta cũng không ngừng nỗ lực để phát triển nền kinh tế đất nước. Luật Thuế xuất nhập khẩu  năm 2005 ra đời đã kịp thời điều chỉnh những quan hệ trong quá trình thu và quản lí hàng hóa xuất nhập khẩu. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em xin chọn đề tài “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi Pháp luật Thuế nhập khẩu ở nước ta trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực hiện tốt thuế nhập khẩu”.
21/11/2014
Tìm hiểu nội dung của chế độ chi ngân sách về xây dựng cơ bản, đánh giá thực tiễn áp dụng trong năm 2013 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản ở VN - Bài tập nhóm 9 điểm - môn Luật Tài Chính
MỞ ĐẦU

Ngân sách nhà nước với vai trò của nó được coi là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chức năng kinh tế cũng như chức năng xã hội của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết. Việc chi đầu tư cho phát triển của ngân sách nhà nước nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự phát triển. Nằm trong nội dung của chi đầu tư phát triển cơ bản không thể thiếu là nội dung chi ngân sách về xây dựng cơ bản. Để tìm hiểu rõ hơn về chi xây dựng cơ bản, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung của chế độ chi ngân sách về xây dựng cơ bản, đánh giá thực tiễn áp dụng trong năm 2013 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản ở VN” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình.
13/11/2014
Bài tập học kỳ Luật Tài chính - Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
LỜI NÓI ĐẦU


Ở nước ta, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu không có hệ thống pháp luật thuế thì không thể thì một quốc gia không thể phát triển toàn diện.

Với ý nghĩa đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức nên bài viết còn nhiều thiếu sót, kính mong được sự bổ sung, giúp đỡ của thầy,cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay   

a) Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế

Thuế ra đời gắn liền với sự hình thành của Nhà nước, bởi Nhà nước ra đời, mục đích ban đầu là phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, kéo theo là cơ quan chức năng, cơ quan quyền lực và công cụ thực hiện quyền lực. Các cơ quan này không tạo ra nguồn vật chất cung cấp cho chính sự tồn tại và phát triển của bản thân mà trông chờ vào sự đóng góp của toàn thể công dân. Bằng sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Nhà nước bắt buộc mọi công dân phải chuyển một phần thu nhập của mình vào tay Nhà nước. Những khoản tiền mà công dân đóng góp từ thu nhập của mình chuyển cho Nhà nước nhằm tạo ra nguồn vật chất cung ứng cho mọi hoạt động của Nhà nước gọi là thuế. 

Vậy sự ra đời của thuế chính là sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.Có thể nói, thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như  một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hòa thu nhập.

b) Định nghĩa về thuế

Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng có thể hiểu một cách chung nhất đó là: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.

Như vậy, có thể thấy, bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế.Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau.

c) Đặc điểm của thuế

Thuế bao gồm bốn đặc điểm chính:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước khi có đủ điều kiện. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt Nhà nước thực hiện những hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế.

Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực.Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho Nhà nước.

Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.Nộp thuế là một nghĩa vụ xã hội mà công dân không có quyền trốn tránh và cũng không có quyền đòi hỏi trao đổi ngang giá (đối giá trực tiếp). Số tiền thuế mà các cá nhân và tổ chức kinh tế phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả năng thu thuế. Bất kỳ ai, khi có đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, không phân biệt họ đã nhận được những lợi ích công cộng nào.

Thứ tư, thuế đảm bảo việc chi tiêu cho lợi ích công cộng. Tổng thu nhập từ thuế Nhà nước chỉ chi một phần cho quản lý hành chính, đại bộ phận số thu nhập còn lại được chuyển giao cho dân chúng thông qua các hoạt động sự nghiệp và phúc lợi công cộng như: văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, thông tin, thể thao, bảo vệ môi trường, bảo trợ xã hội… 

2. Pháp luật thuế

Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.

Như vậy, pháp luật thuế chính là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và cư dân dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó, lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh cao.

II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay

Pháp luật thuế không chỉ quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì vậy, pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta.Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, thuế cũng như pháp luật thuế đang có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.

1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng để ổn định nguồn thu, được Nhà nước  sử dụng như một công cụ chủ yếu để tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước

Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của Nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể khi có đủ các điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế. 

Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu thiết yếu của nhà nước. Do đó, sự thay đổi của các quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Như vậy, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước.

Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống còn đối với bất kì quốc gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự ngiệp phát triển kinh tế, xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Chính điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế.

Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng. 

Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật thuế nói chung và thuế nói riêng không chỉ là công cụ quan trọng để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà còn điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội.

Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Với những lý do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải xây dựng hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.

2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước

Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,  chính sách”. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội. 

Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.

Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau thùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp với giai đoạn hiện tại. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.

Không những vậy, thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. 

Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ các nguồn nội lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.

3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội 

Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. 
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng. 

Vấn đề điều tiết thu nhập cũng đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trong trong việc giúp Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy định của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hội.

4. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh

Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy đinh gắn với chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thái kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó, có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng  có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.

5. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất  trong nước

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. 

Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết ở các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.

6. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế

Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật thuế, Nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết lập các “hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc.

Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.

III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1. Các yêu cầu cơ bản để hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo nguồn thungân sách nhà nước không bị biến động lớn.Trong những năm qua, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước (khoản 25% tổng thu ngân sách nhà nước). Vấn đề đặt ra là khi chúng ta thực hiện các cam kết giảm thuế nhập khẩu thì trước mặt nguồn thu của ngân sách Nhà Nước (NSNN) từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi đáng kể kéo theo ảnh hưởng dây truyền tới cân đối ngân sách và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Do đó, yêu cầu đảm bảo nguồn thu ngân sách không bị biến động lớn khi tiến hành hoàn thiện pháp luật thuế hiện hành là xác đáng và cấp thiết.

- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo sự bảo hộ đúng đắn, đúng mức nền sản xuất trong nước.
Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua được xây dựng trên nguyên tắc bảo hộ nền sản xuất trong nước, một nguyên tắc được thừa nhận rộng nhận rộng rãi trong pháp luật quốc tế.Song điều đáng nói ở đây là chính sách bảo hộ đó có nhiều hạn chế, không phù hợp thực tiễn và thông lệ quốc tế.

Điều kiện trước mắt của Việt Nam tiến hành hội nhập khi xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt thì vẫn cần thiết thực hiện bảo hộ phù hợp nền sản xuất trong nước.Tuy vậy, phương hướng bảo hộ cần thay đổi cho phù hợp với các cam kết quốc tế. Tiến hành bảo hộ chọn lọc đối với các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất những mặt hàng có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội nhưng sức cạnh tranh đối với hàng hóa quốc tế còn yếu, chi phí sản xuất còn cao là thực sự cần thiết và phù hợp với nguyên tắc và cam kết hội nhập. 

- Hoàn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo sử dụng thuế như một công cụ quan trọng nhằm khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là yêu cầu và mục tiêu quan trọng được đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.là một công cụ phân phối quan trọng của nhà nước, thuế có tác động rất lớn đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phù hợp và tiến bộ.

Do đó, để tận dụng những thời cơ thuận lợi của quá trình hội nhập, pháp luật thuế cần phải được quy định theo hướng hợp lí nhằm phát huy tốt vai trò to lớn nói trên theo định hướng của nhà nước.
- Hoàn thiện pháp luật thuế phải đảm bảo tạo môi trường pháp lí bình đẳng, công bằng áp dụng thuế thống nhất cho mọi đối tượng nộp thuế. Thuế phải đảm bảo tính trung lập cần thiết của nó, bỏ các quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế để thực hiện các chính sách xã hội, chuyển sang thực hiện các biện pháp tài chính khác…

- Pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập phải có tính hệ thống, đồng bộ, ổn định và đơn giản. cần đẩy mạnh cải cách theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai, dân chủ trong công tác quản lí thuế, bảo đảm dễ hiểu dễ thực hiện, giúp người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, cơ quan thuế thực hiện tốt nhiệm vụ quản lí thuế.

- Cần hoàn thiện pháp luật thuế theo hướng hiện đại hóa, kiện toàn bộ máy quản lí thuế, đẩy mạnh công tác tin học hóa….để hạn chế tới mức thấp nhất các hành vi gian lận thuế, chống thất thu ngân sách, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong quản lí thuế, tiến tới thực hiện cơ chế người nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế….
- Pháp luật thuế hiện hành cần phải phù hợp và tương thích với luật phát, thông lệ quốc tế, các cam kết về thuế mà VN tham gia, kí kết nhưng phải đảm bảo tối đa hóa lợi ích từ các cam kết thuế, tối thiểu hóa các chi phí trong quá trình hội nhập.

- Pháp luật thuế phải phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Đất nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa–hiện đại hóa, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang rất cần một nguồn tài chính đủ mạnh. Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước cần tiền hành với một số nội dung sau: 

a) Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế theo hướng

- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế)
- Xác định lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu là kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.

-Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế. 
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.

- Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.

- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.

b) Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặt khác tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm

- Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
- Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.

- Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến kiến nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khan, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Trong thời gian tới, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế đẻ thu hồi nợ đọng.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế. Từ đó có biện pháp xử lý thu hồi kịp thời tránh tình trạng tahats thoát nguồn thu.

c) Tăng cường công tác bồ dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cư sở hạ tầng ngành thuế

- Những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để dấp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể khi thực hiện nghĩa vụ thuế.

d) Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dâncư về các luật thuế và các văn bản luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. Đây là sức mạnh to lớn để thực hiện chính sách chống trốn thuế, lậu thuế,…










07/11/2014
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế sử dụng đất - Bài tập học kì Luật tài chính
Trong những năm qua thị trường bất động sản đã và đang hình thành, phát triển ở Việt Nam, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, kích thích đầu tư, đáp ứng các yêu cầu về đất đai, nhà ở. Để quản lý và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách trong đó chính sách thuế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong phần bài tập học kì này, em xin đi vào trình bày việc ban hành một trong các chính sách thuế đó: thuế sử dụng đất.
18/10/2014
Những khó khăn, vướng mắc cần khắc phục trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam - Bài tập nhóm - Luật Tài chính
1. Về chính sách:

1.1. Đối tượng chịu thuế:

Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế gián thu điển hình mang tính trung lập cao. Tại mỗi khâu của quá trình sản xuất, khoản thuế phải nộp được chuyển sang khâu tiếp theo cho đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nó không ảnh hưởng gì đến quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên lý thuyết thì như vậy, vì nếu như các khâu này bị đứt đoạn tức là có trường hợp nào đó được liệt vào đối tượng không chịu thuế GTGT thì ưu điểm tránh đánh thuế trùng lắp không còn ý nghĩa nữa. Lúc này doanh nghiệp không phải kê khai nộp thuế đầu ra nhưng cũng không kê khai khấu trừ thuế đầu vào. Điều đó khiến cho việc dự đoán những tác động của thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vì thế các đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ nên giới hạn trong một số ít các trường hợp.

Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó là thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế đối với mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được thông thóang mà còn gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế sử dụng đất - Bài tập học kỳ - Luật Tài chính
A. Mở bài

Trong những năm qua thị trường bất động sản đã và đang hình thành, phát triển ở Việt Nam, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, kích thích đầu tư, đáp ứng các yêu cầu về đất đai, nhà ở. Để quản lý và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách trong đó chính sách thuế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong phần bài tập học kì này, em xin đi vào trình bày việc ban hành một trong các chính sách thuế đó: thuế sử dụng đất.

B. Thân bài

I. Cơ sở lý luận:

1. Giới thiệu về thuế sử dụng đất:

• Thuế sử dụng đất: 

Là loại thế thu ổn định hàng năm, thu trên tổng giá trị đất nhân với thuế suất. Người sở hữu đất (hoặc người được Nhà nước giao đất sử dụng ổn định, lâu dài) có trách nhiệm nộp thuế đất như một loại thuế đánh vào tài sản. Mục đích thu thuế sử dụng đất là tận dụng và thúc đẩy sử dụng đất có hiệu quả, ngăn ngừa lũng đoạn, đầu cơ đất đai. Thuế thu trên tổng giá trị đất, đất đai càng nhiều thì tổng giá trị đất càng cao, và nếu thuế suất lũy tiến thì thuế càng lớn. Chủ sử dụng đất mà sử dụng không hiệu quả thì phải chuyển nhượng cho người khác. Qua đó thúc đẩy việc chuyển dịch đất đai một cách hợp lý, ngăn ngừa đầu cơ đất đai, đồng thời điều tiết cung về đất đai.

Hiện nay, thuế sử dụng đất bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà, đất. Tới ngày 01/01/2012 khi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực thì thuế sử dụng đất sẽ bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
17/10/2014
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong năm 2013 - 9 điểm
Bài tập học kỳ Luật Tài chính có đáp án.

A, MỞ ĐẦU

Đất nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia. Pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập cũng như sự bảo hộ của nhà nước đối với nền kinh tế.Đây không chỉ là chính sách thuế của nhà nước mà còn thể hiện chính sách ngoại giao của nước ta. Thuế nhập khẩu được quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ( Luật TXK, TNK) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong năm 2013, còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, tuy đã có một hệ thống pháp luật tương đối cụ thể nhưng việc thực thi trên thực tế ngoài những thành tựu đạt được thì còn gặp rất nhiều khó khăn.Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần được hoàn thiện để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả hơn nữa. Để đi sâu nghiên cứu vấn đề này, em xin chọn đề tài : “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong năm 2013; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu”. Trong quá trình làm bài, do hiểu biết của em còn hạn chế và vấn đề mang tính thực tiễn cao, nên bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, để hướng nhìn nhận vấn đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
07/10/2014
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế sử dụng đất - Bài tập học kì Luật Tài chính
Đề số 17: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế sử dụng đất

A. Mở bài

Trong những năm qua thị trường bất động sản đã và đang hình thành, phát triển ở Việt Nam, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, kích thích đầu tư, đáp ứng các yêu cầu về đất đai, nhà ở. Để quản lý và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách trong đó chính sách thuế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong phần bài tập học kì này, em xin đi vào trình bày việc ban hành một trong các chính sách thuế đó: thuế sử dụng đất.
20/09/2014
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương VI - Pháp luật về ngân sách của doanh nghiệp. (Phần cuối)
CHƯƠNG VI

PHÁP LUẬT VỀ NGÂN SÁCH CỦA DOANH NGHIỆP


I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGÂN SÁCH CỦA DOANH NGHIỆP:

1. Khái niệm:

Ngân sách doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hóa các nguồn ngân sách trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
Về bản chất, ngân sách doanh nghiệp là một loại quan hệ tạo lập phân phối sử dụng của cải dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với ngân sách của doanh nghiệp.
Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân sách của doanh nghiệp đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
- Xuất phát từ vai trò và vị trí hoạt động ngân sách doanh nghiệp có ảnh hưởng đến sự chuyển dịch một phần của cải xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có cách thức tác động có hiệu quả nhất lên hoạt động này, Pháp luật chính là công cụ có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu đó.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương V - Pháp luật về chi ngân sách nhà nước.
CHƯƠNG V

PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước:

Chi ngân sách nhà nước thể hiện chức năng phân phối tài chính ở khâu ngân sách nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ số tiền từ ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện kinh tế, chi ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia.
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương IV - Pháp luật về thu ngân sách nhà nước
CHƯƠNG IV

PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm thu ngân sách Nhà nước:

Thu ngân sách nhà nước là một loại hoạt động nhà nước, hoạt động của một tổ chức có quyền lực công, luôn gắn liền với yếu tố chính trị của nhà nước. Từ đó, chúng ta có thể hiểu thu ngân sách Nhà nước là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị theo những hình thức và biện pháp phù hợp để hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước. 
Xét về bản chất, thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Đó là việc nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào việc phân chia của cải xã hội được các chủ thể khác nhau trong xã hội tạo ra. Đối tượng của hoạt động thu ngân sách Nhà nước là của cải xã hội biểu hiện dưới hình thức giá trị.

Nội dung vật chất của thu ngân sách nhà nước thể hiện ở việc nhà nước tập trung vào trong tay mình những nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nứơc nhằm đảm bảo chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước là phục vụ lợi ích công cộng và duy trì sự tồn tại của nhà nước. Do đó, thu ngân sách nhà nước là hoạt động có vai trò quan trọng của nhà nước, góp phần tạo ra thu nhập tài chính  để đáp ứng nhu cầu công cộng và nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.

17/09/2014
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương III - Chu trình ngân sách
CHƯƠNG III

CHU TRÌNH NGÂN SÁCH

Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dựng để chỉ tòan bộ họat động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau, đó là: lập ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết tóan ngân sách.  

1. Lập dự toán NSNN

1.1. Mục tiêu của lập dự tóan NSNN

Lập dự tóan NSNN là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách. Lập dự tóan ngân sách thực chất là lập kế họach thu chi của ngân sách trong một năm. Kết quả của khâu này là bản dự toán ngân sách. Bản dự tóan ngân sách phải đảm bảo mục tiêu là dự toán ngân sách sẽ đáp ứng được việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Và việc phân bổ các nguồn lực phù hợp với 
chính sách của nhà nước. 

1.2. Yêu cầu của dự tóan NSNN 

- Dự toán ngân sách nhà nước và dự toán ngân sách các cấp chính quyền phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi và theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.

-. Dự toán ngân sách của các cấp chính quyền, của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng yêu cầu, nội dung, biểu mẫu và thời hạn quy định.

- Dự toán ngân sách phải kèm theo báo cáo thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ tính toán.

- Dự toán ngân sách các cấp phải bảo đảm cân đối theo nguyên tắc sau:

+ Đối với dự toán ngân sách nhà nước: tổng số thu thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên 
và các khoản chi trả nợ; bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển.

+ Đối với dự toán ngân sách cấp tỉnh: phải cân bằng giữa thu và chi trên cơ sở số thu của ngân sách cấp tỉnh gồm: các khoản thu ngân sách cấp tỉnh được hưởng 100%, các khoản thu phân chia cho ngân sách cấp tỉnh theo tỷ lệ phần trăm (%) đã được quy định và số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương (nếu có); số dự 
kiến huy động vốn trong nước để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định 

+ Đối với dự toán ngân sách cấp huyện, và cấp xã phải cân bằng thu, chi.