27/07/2014
Lý luận và thực tiễn về pháp luật về Đại biểu quốc hội
1. Pháp luật về ĐBQH

Pháp luật về ĐBQH có thể được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Nhưng hiểu một cách chung nhất đó là hệ thống các quy định về bầu cử và bãi nhiệm ĐBQH, địa vị pháp lý, quyền hạn, nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác, liên hệ với cử tri, các bảo đảm về pháp lý và điều kiện hoạt động của ĐBQH…

Trên thế giới, có hai xu hướng xây dựng pháp luật về ĐBQH. Xu hướng thứ nhất, các quy định pháp luật về ĐBQH được ghi nhận trong Hiến pháp, luật của Quốc hội và cả những văn bản dưới luật. Các quy định về Quốc hội và ĐBQH trở thành một bộ phận trong hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Xu hướng thứ hai, ở các nước có truyền thống nghị viện lâu đời, Quốc hội có vị trí độc lập đối với các nhánh quyền lực khác, hoạt động của ĐBQH được coi là vấn đề nội bộ nên thường do Quốc hội tự quyết định bằng các văn bản dưới luật, có tính nội bộ, thủ tục đơn giản, không có sự tác động của các nhánh quyền lực khác (như việc ban hành các đạo luật thông thường).Do phạm vi hoạt động của ĐBQH rất rộng, nên cho dù việc ban hành pháp luật về ĐBQH theo hướng nào thì nhìn chung hệ thống các quy định này rất phức tạp, nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, ít khi tập trung trong một văn bản cụ thể. Ngoài các luật thành văn, các quy định này còn dưới dạng bất thành văn.

 “Cứ sau mỗi kỳ bầu cử, một loạt các ĐBQH mới sẽ bước chân vào nghị trường. cho du họ có thiên tài đến đâu thì chắc chắn họ sẽ cảm thấy mất phương hướng bởi vì Quốc hội là một thiết chế được điều chỉnh bởi các tập quán và các quy định chủ yếu dưới dạng bất thành văn và thường rất khó hiểu” (Marc Van de Hulst (2000), The Parliamentary Mandated, IPU)

Có thể phân chia các quy định về ĐBQH thành 5  nhóm cơ bản: (1) Quy định về bầu cử và bãi nhiệm ĐBQH; (2) Quy định về vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của ĐBQH; (3) Quy định về trình tự, thủ tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH; (4) Quy định về mối quan hệ của ĐBQH với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cử tri trong quá trình thực thi nhiệm vụ; (5) Quy định về đảm bảo an ninh cá nhân và các điều kiện hoạt động của ĐBQH.

2. Thực trạng pháp luật về ĐBQH ở nước ta

Pháp luật về ĐBQH ở nước ta được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như: Hiến pháp 1992; Luật bầu cử ĐBQH; Luật tổ chức Quốc hội; Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; Luật hoạt động giám sát của Quốc hội; Nội quy kỳ họp Quốc hội; các quy chế hoạt động của UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH; Nghị quyết liên tịch. Ngoài ra, các quy định về ĐBQH còn nằm trong nhiều văn bản dưới luật khác có liên quan.

Trong nhiều năm qua, hệ thống các quy định pháp luật về ĐBQH không ngừng được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và ĐBQH, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đánh giá một cách tổng thể, nhiều ý kiến, tham luận phát biểu tại Hội thảo cho rằng, hệ thống pháp luật về ĐBQH ở nước ta có một số ưu điểm cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, hệ thống pháp luật hiện hành về ĐBQH đã được kế thừa, phát triển và hoàn thiện qua các thời kỳ; nội dung khá đầy đủ và điều chỉnh hầu hết những vấn đề cơ bản về ĐBQH;

- Thứ hai, hầu hết các quy định pháp luật về ĐBQH nằm trong các văn bản do Quốc hội ban hành như Hiến pháp, Luật, Nội quy, Quy chế nên có giá trị, hiệu lực pháp lý cao; hệ thống văn bản thể hiện tương đối nhất quán và thống nhất về nhiều vấn đề, phù hợp với các quy định của Hiến pháp;

- Thứ ba, pháp luật về ĐBQH phù hợp với đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn lịch sử, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ và vị trí quan trọng của Quốc hội trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị;

- Thứ tư, bảo đảm thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ đại diện, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

Hệ thống pháp luật về ĐBQH đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH, phát huy vai trò của người đại biểu nhân dân, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung và ĐBQH nói riêng, từng bước xây dựng một Quốc hội hoạt động ngày càng “chuyên nghiệp” hơn.

Tuy nhiên, cùng với việc đổi mới Quốc hội trước yêu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống pháp luật về ĐBQH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Điều này thể hiện ở những điểm sau:

- Thứ nhất, tình trạng trùng lắp giữa các văn bản tương đối phổ biến. Nhiều quy định trong Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản khác là sự sao chép quy định của Hiến pháp. Vấn đề đặt ra là có nên ghi lại y nguyên những nội dung đã được Hiến pháp quy định hay không, vì bản thân các quy định này đã mang tính hiến định, có hiệu lực pháp lý cao nhất;

- Thứ hai, tính ổn định của các quy định pháp luật về ĐBQH không cao, các văn bản thường phải sửa đổi, bổ sung. Đây dường như là một hệ quả tất yếu trong điều kiện đất nước đang trong tiến trình đổi mới. Đồng thời cũng là hệ quả của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện có những vấn đề lý luận cần tiếp tục được làm sáng tỏ và kiểm nghiệm qua thực tiễn. Tuy nhiên, điều này cũng phản ánh khả năng định hướng và dự báo của pháp luật chưa cao.

- Thứ ba, một số quy định về ĐBQH thiếu cụ thể nên chưa thể đi vào cuộc sống, cần phải được bổ sung, hoàn thiện. Cụ thể như: mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri và các cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu; cơ chế bảo đảm thực hiện các chế tài giám sát; trình tự, thủ thục và điều kiện bảo đảm để ĐBQH trình dự án luật, pháp lệnh; quyền yêu cầu tổ chức chất vấn về vấn đề mà đại biểu chưa đồng ý; kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm; kiến nghị thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về vấn đề mà đại biểu quan tâm…

- Thứ tư, có những văn bản pháp luật hiện nay không còn phù hợp với thực tế. Đặc biệt là những quy định liên quan đến phương thức hoạt động của ĐBQH chuyên trách; quy định pháp luật về chế độ bầu cử ĐBQH chưa được đổi mới phù hợp yêu cầu nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng ĐBQH; chế độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm hoạt động cho ĐBQH phần nhiều mang tính vận dụng…

Những hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH nói riêng và hoạt động của Quốc hội nói chung.

3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐBQH

Các ý kiến phát biểu, tham luận tại Hội thảo thống nhất nhận định, để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân phải bắt đầu từ việc phát huy vai trò, vị trí, tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐBQH. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về ĐBQH là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong thời điểm hiện nay.

Từ việc phân tích lý luận, tổng kết thực tiễn, nhất là nhiều vấn đề đã được kiểm nghiệm qua thực tế đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong những năm vừa qua, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về ĐBQH một cách có hệ thống, bảo đảm tính thống nhất từ Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Việc sửa đổi, bổ sung phải đáp ứng được những yêu cầu đặc thù về vị trí, vai trò, đặc điểm hoạt động của ĐBQH; đặt trong sự cân đối chung với các quy định về cán bộ công chức; phù hợp với quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội tại mỗi thời điểm.

Trên cơ sở nhận thức chung về yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐBQH, Hội thảo tập trung thảo luận, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể sau đây:

- Về bầu cử, bãi nhiệm ĐBQH, cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế ứng cử, đề cử và bầu cử ĐBQH theo hướng quan tâm nhiều hơn đến tiêu chuẩn và năng lực của người ứng cử, nâng cao chất lượng đại diện theo địa phương vừa chú ý đến cơ cấu đại diện theo ngành, giới, nghề nghiệp; thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn giới thiệu người ứng cử để bố trí làm ĐBQH chuyên trách… Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế độ “ủy nhiệm của cử tri”, đồng thời quy định rõ trong Hiến pháp về quyền của cử tri bãi nhiệm ĐBQH nếu đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm nhằm bảo đảm quyền của cử tri, vừa nâng cao trách nhiệm của ĐBQH. Hiện nay, vấn đề bãi nhiệm ĐBQH mới chỉ quy định trong Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản có liên quan (Hiến pháp 1946 đã có quy định về vấn đề này);

- Về quyền hạn, nhiệm vụ, tăng cường cho ĐBQH một số quyền thông qua việc hiến định một số quyền hạn, nhiệm vụ đã có để tạo cho ĐBQH có điều kiện thực hiện quyền lực nhà nước được nhân dân giao. Ví dụ, bổ sung quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; tăng tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của ĐBQH như Điều 46 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghị viện”…

Ngoài việc nâng cao giá trị pháp lý các quy định, các kiến nghị đã đưa ra các giải pháp để hướng dẫn hoặc tạo cơ chế để thực hiện các quyền hạn, nhiệm vụ đã được quy định như: quyền bỏ phiếu tín nhiệm; quyền kiến nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; quyền trình dự án luật, pháp lệnh; quyền yêu cầu tổ chức chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH khi đại biểu không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn; quyền tổ chức đoàn giám sát; yêu cầu cung cấp thông tin, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, yêu cầu thực hiện ý kiến kết luận giám sát…

- Về chế độ hoạt động, theo quy định hiện hành, ĐBQH hoạt động theo cơ chế chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Tuy nhiên, các quy định còn rất chung chung, chưa phản ánh được tính đặc thù trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH chuyên trách và ĐBQH kiêm nhiệm. Vì vậy, cần thiết phải ban hành quy chế hoạt động của ĐBQH chuyên trách và quy chế hoạt động của ĐBQH kiêm nhiệm. Hoặc là phải sửa đổi, bổ sung cụ thể, chi tiết Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH theo hướng phân định rõ chế độ hoạt động chuyên trách và chế độ hoạt động kiêm nhiệm. Đồng thời, phải sửa đổi, bổ sung đồng bộ quy chế hoạt động của UBTVQH, quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban để tạo cơ chế hoạt động cho ĐBQH, khắc phục tình trạng “hành chính hóa” hoạt động của ĐBQH chuyên trách ở trung ương, “tính sự vụ” trong hoạt động của ĐBQH chuyên trách ở địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐBQH kiêm nhiệm.

- Về mối quan hệ công tác, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa ĐBQH với cử tri, quy định rõ trách nhiệm của ĐBQH trong tiếp xúc cử tri, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiều hình thức tiếp xúc cử tri theo giới, ngành, cơ quan công tác, địa phương nơi cư trú... Tiến hành tổng kết các quy định pháp luật về tiếp xúc, liên hệ với cử tri để trên cơ sở đó xây dựng, trình Quốc hội ban hành Quy chế về công tác tiếp xúc, liên hệ với cử tri của ĐBQH. Quy định rõ mối quan hệ công tác của ĐBQH với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu; nêu rõ trách nhiệm, cơ chế triển khai và chế tài đối với các trường hợp gây khó khăn cho ĐBQH hoặc không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình.

- Về các điều kiện bảo đảm hoạt động của ĐBQH, tiến hành nghiên cứu ban hành đồng bộ các quy định về chế độ, chính sách, các điều kiện bảo đảm hoạt động của ĐBQH, nhất là ĐBQH chuyên trách; từng bước hạn chế việc vận dụng các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức. Các quy định về chế độ, chính sách của ĐBQH phải phù hợp với đặc điểm vị trí, vai trò và tính chất hoạt động của ĐBQH. Trong đó, cần lưu ý về chế độ lương, phụ cấp, kinh phí hoạt động; bố trí công việc khi không tiếp tục làm ĐBQH chuyên trách; các phương tiện vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động; bổ sung số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của Văn phòng tham mưu, giúp việc; tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động và công tác cung cấp thông tin cho ĐBQH…

Mặc dù còn có những nội dung mới chỉ mang tính định hướng, đề xuất tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn các cơ sở lý luận và thực tiễn, nhưng những kiến nghị tại Hội thảo có ý nghĩa tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật về ĐBQH trong thời gian sắp tới.

Nguồn tin: Viện Nghiên Cứu Lập Pháp

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment