20/08/2014
Phương án hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ của công dân
1. Nhận thức khái quát về quyền tự do dân chủ của công dân

Trong khoa học pháp lý, các từ “tự do” và “dân chủ” được kết hợp theo các cách khác nhau trong các cụm từ sau đây để thể hiện quyền dân chủ của công dân: “quyền dân chủ tự do” và “quyền tự do dân chủ”. Trường hợp đầu, “dân chủ” là danh từ, còn “tự do” là tính từ và trường hợp sau, “tự do” là danh từ, “dân chủ” là tính từ, cả hai trường hợp cùng đều được dùng để chỉ quyền tự do của công dân trên phương diện dân chủ, như: tự do bầu cử, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do biểu tình...“Dân chủ” ở đây được xem xét gắn với mức độ, tính chất “tự do”. Đối với các chế độ chính trị thật sự dân chủ, người ta luôn gắn “dân chủ” với “tự do”. Bởi vì, chế độ dân chủ phân biệt với chế độ độc tài, chuyên quyền thì đã rõ; nhưng bản thân chế độ dân chủ cũng được chia thành hai loại cơ bản là dân chủ tự do - dân chủ cởi mở, phát triển ở trình độ cao và loại dân chủ hạn chế (ít tự do hoặc giả hiệu). Trên sách báo chính trị, pháp lý hay trong các văn kiện chính trị - pháp lý, còn thấy hiện diện các cụm từ “quyền tự do, dân chủ” và “quyền tự do và dân chủ”. Đây là hai cụm từ tương đương nhau, dùng để chỉ phạm vi rộng lớn các quyền của công dân xét trên phương diện “tự do” và quyền của công dân xét trên phương diện “dân chủ” hay chủ quyền nhân dân. Hai cụm từ này cũng biểu thị các quyền công dân của công dân như trên, nhưng ngoài ra, chúng còn bao gồm cả các quyền tự do khác về dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của họ như: tự do thân thể, tự do kinh doanh, tự do lao động, tự do nghỉ ngơi, tự do cư trú, tự do kết hôn, tự do tôn giáo, tự do nghiên cứu khoa học...


Về vấn đề dân chủ, trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý cũng như thực tiễn lịch sử xã hội loài người, “nhân dân” là phạm trù, thế lực luôn giữ vị trí trung tâm. Vai trò của nhân dân đối với đời sống xã hội nói chung, đối với nhà nước, quyền lực nhà nước nói riêng được thể hiện bằng các cụm từ, cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ khác nhau: chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ, nhân dân làm chủ...nhưng đều thống nhất ở điểm quan trọng: người dân là chủ nhân của xã hội, là lực lượng quyết định tối cao các đối với các vấn đề của đời sống xã hội, đời sống nhà nước. Vấn đề dân chủ được đặc biệt được coi trọng trong lý luận và thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng pháp quyền. Theo đó, dân chủ là một đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước pháp quyền. Xét về nguồn gốc, lý luận về nhà nước pháp quyền hình thành là nhằm phản kháng, đối kháng với các nhà nước chuyên chế cảnh sát trong mục đích giải phóng con người, bảo đảm quyền con người, chống lại quyền lực nhà nước vô hạn độ. Nhưng nói đến quyền con người đồng thời cũng ngụ ý nói đến dân chủ và nói đến dân chủ cũng hàm ý quyền con người. Bởi vì, dân chủ chính là tổ hợp của các quyền con người. Không có các quyền của công dân: quyền bầu cử, quyền lập hội, quyền hội họp, quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận...thì không thể nói gì về dân chủ.


Dân chủ hay chủ quyền nhân dân đối với nhà nước đã được bàn đến và xác lập trong các trước tác của các nhà tư tưởng, đặc biệt là các nhà tư tưởng tư sản như: N. Machiavelli, J.Locke, Thomas Hobbes, Montesqiueu, Jean - Jacques Rousseau... J.Locke – nhà triết học duy vật thời kỳ Trung Hưng ở Anh đã bàn luận rất sâu sắc về vấn đề chủ quyền nhân dân. Ông quan niệm chính quyền ra đời từ khế ước xã hội, theo ý chung của nhân dân. Nhân dân là “những người đã khởi sự và thật sự thiết lập nên một xã hội chính trị...Và đây là điều mà – và chỉ điều này – đã đem lại sự khởi đầu hoặc có khả năng mang lại sự khởi đầu cho bất kỳ một chính quyền hợp pháp nào trên thế giới này”[1]. 

Các nhà tư tưởng cũng khẳng định rằng việc nhân dân trao quyền cho nhà nước không làm mất đi quyền tự nhiên của họ. "Chủ quyền tối cao là sự thực hiện ý chí chung nên không thể tự nó từ bỏ nó được…Quyền hành thì có thể chuyển trao được lắm, nhưng ý chí thì không"[2]. Trong những trường hợp chính quyền tha hóa, chính người dân lại là người thay thế nó bằng chính quyền phù hợp với mình, họ “...có quyền hành động với tư cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp, hoặc dựng lên một chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ đó nhưng được đặt vào tay những con người mới, theo những gì mà họ cho là tốt đẹp”[3], có “quyền lực tối cao để xóa bỏ hay thay đổi cơ quan lập pháp, khi nhận thấy cơ quan lập pháp hành động trái ngược với sự ủy thác được đặt vào”[4].

Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân rõ ràng là tư tưởng lớn, tiến bộ, là chuẩn mực cơ bản xét về tính chính đáng của mọi nhà nước, đặc biệt là với nhà nước pháp quyền. Giá trị to lớn và vĩ đại của nó vẫn hiện diện trong xã hội hiện đại. Tiếp thu tinh hoa của tư tưởng nhân loại về nhân dân cũng như thấm nhuần triết lý cầm quyền trong của tiền nhân Việt Nam trong lịch sử “lấy dân làm gốc”, Hồ Chí Minh cũng thể hiện tương tự vị trí, vai trò của nhân dân đối với Nhà nước Việt Nam cách mạng. Người nêu quan điểm giản dị, nhưng chứa đựng chân lý hết sức sâu sắc: “Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ...Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”[5]. Như đã thấy, từ khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời đến khi Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, các văn kiện của Đảng vẫn theo tinh thần dân chủ ấy. Những năm đổi mới, tư tưởng, tinh thần chủ quyền nhân dân được thể hiện trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam. Cái khác có chăng chỉ là không đặt vấn đề có tính trực diện như vậy và cũng không muốn đưa lại gợi ý suy nghĩ theo cách đó. Lập luận căn bản có tính chính thống hiện nay là luôn xác quyết Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam luôn là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Không có sự đối lập giữa Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam với nhân dân.

Đối với nước ta, bản thân vai trò dân chủ trong nền chính trị, trong lĩnh vực quyền lực nhà nước cũng đang trong quá trình nhận thức ngày càng sâu sắc. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã một lần nữa khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước và tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa[6]. Thực tiễn cho thấy dân chủ là vấn đề còn phải được nhận thức cơ bản và thực chất hơn. Hiện nay, nhận thức khá phổ biến về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân là xem nhân dân như chủ thể thụ động, cần phải thu hút rộng rãi họ tham gia vào hoạt động của nhà nước. Có lẽ thời kỳ đầu ra đời của mọi nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng trong nền chính trị ngày nay nói chung, điều đó không đúng nữa. Đó là vì:

Một là, dân chủ cũng như quyền dân chủ của người dân là quyền tự nhiên, vốn có của người dân, không do ai ban phát. Vấn đề không phải là “thu hút” mà là vấn đề tôn trọng và bảo đảm thực hiện dân chủ. 

Hai là, dân chủ không phải tự nhiên đến được, phải qua rèn luyện và đấu tranh trong thực tế. Không một xã hội nào mà dân chủ có thể “nhảy cóc” từ số không đến nền dân chủ văn minh mà phải theo quy luật lượng đổi chất đổi. Như vậy, về mặt phương pháp, nếu muốn có dân chủ thật sự thì dân chúng phải được thực hành ngay trong đời sống chính trị - pháp lý. Xã hội sẽ biết điều chỉnh dân chủ như thế nào.

Ba là, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ có thể dân trí chưa cao. Dân trí theo nghĩa rộng nhất bao gồm trình độ văn hóa chung và các hiểu biết về chính trị của người dân. Năng lực thực hành dân chủ phụ thuộc vào dân trí. Lênin từng nói rằng người không có chữ đứng ngoài chính trị. Tuy nhiên, dân trí mới chỉ là một mặt phản ánh mức độ dân chủ, chất lượng vận hành của nền chính trị. Sẽ là sai nếu xem đó là điều kiện tiên quyết của văn hóa chính trị, của việc thực hiện dân chủ, mặc dù phải nhận rằng “có chữ”, “nhiều chữ” thì tốt hơn. Trong lịch sử Việt Nam những năm 1936 - 1939, khi tỷ lệ người dân biết chỉ chiếm ít phần trăm thì dưới dự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào dân chủ Đông Dương vẫn được vận hành. Trong xã hội hiện đại, khi quyền con người được xác lập thì chính đảng, các phong trào - bộ phận tinh hoa của đời sống xã hội sẽ đảm trách việc lôi kéo, thuyết phục quần chúng không phải bằng các lý thuyết nào đấy mà bằng việc chỉ ra cho họ các lợi ích của chính họ mà họ cần phải hướng tới. Đây là một thực tế ở mọi quốc gia mà chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng được.

Tóm lại, dân chủ trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước phải là dân chủ chủ động, là quyền của nhân dân, quyền của công dân. Dân chủ không chỉ là sự tham gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực của nhân dân vào vận hành của bộ máy Nhà nước, mà còn phải xem đây là phương thức tránh các sai lầm của người lãnh đạo, của Nhà nước. Dân chủ là yêu cầu nội tại của mỗi quốc gia và là xu hướng có tính chất toàn cầu. Nhưng quyền dân chủ đích thực khi dân chủ được thực hiện một cách tự do. Đây là thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính trị, mức độ tự do của con người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn. Tự do phải là tất yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của mỗi người là tự do của người khác. Nền dân chủ càng phát triển cao thì các quyền tự dân chủ của công dân càng được mở rộng và thực chất.

Quyền tự do dân chủ của công dân bao gồm nhiều quyền khác nhau như đã dẫn ở trên. Nếu phân chia các quyền của công dân thành các nhóm khác nhau: quyền chính trị, quyền kinh tế - dân sự, quyền văn hóa – xã hội, quyền tự do cá nhân thì quyền tự do dân chủ thuộc nhóm quyền chính trị. Mỗi nhóm quyền thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của công dân và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết. Trong đó, vai trò của quyền chính trị là xác lập quyền làm chủ của nhân dân, tạo cơ sở chính trị cho việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các nhóm quyền khác của công dân.  

Đối với nước ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các thành tựu kinh tế đã đưa nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống vật chất của người dân đã được nâng cao hơn. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế trong tính quy luật đòi hỏi tương ứng nhu cầu cao hơn về dân chủ, về quyền chính trị của công dân. Không những đó là nhu cầu của người dân mà còn là cách để củng cố, bảo đảm duy trì và phát triển các thành công về kinh tế.    

2. Quy định về các quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp hiện hành và vấn đề sửa đổi, bổ sung

Hiến pháp nước ta dành một chương riêng (Chương V) quy định các quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền liên quan đến tự do dân chủ của công dân. Các quyền này trực tiếp chỉ ra đối tượng tự do dân chủ của công dân:

- “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật” (Điều 54).

- “Công dân có quyền…biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”(Điều 53).

- Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin (Điều 69).

- “Công dân có quyền…hội họp, lập hội…theo quy định của pháp luật (Điều 69).

- “Công dân có quyền…biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 69).

- “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước” (Điều 53).

- “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào” (Điều 74).

Các quyền trên của công dân không biệt lập mà gắn liền với việc việc ghi nhận đồng thời các quyền khác của công dân có tính chất bổ trợ hoặc chỉ rõ tính chất của quyền như: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52), “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. (Điều 3), “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật” (Điều 68), “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật (Điều 8), “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép; thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật (Điều 73), “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác” (Điều 60)…

Nghiên cứu các quy định về quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp nước ta, có thể thấy tính về số lượng quyền tự do dân chủ được ghi nhận thì Hiến pháp Việt Nam tương đương với hiến pháp các nước như CHLB Nga, Ba Lan…ghi nhận khá đầy đủ các quyền tự do dân chủ trong bản Hiến pháp. Số lượng quyền được quy định như vậy nhiều hơn số lượng ghi trong hiến pháp một số nước như hiến pháp các nước Canađa, Thụy Điển, Singapo...Tuy nhiên, có những quyền mà hiến pháp một số nước ghi nhận mà Hiến pháp Việt Nam không có, ví dụ, Hiến pháp Thụy Điển ghi nhận quyền của công dân không thể bị ép buộc phát biểu ý kiến phát biểu ý kiến về các vấn đề chính trị, tôn giáo, văn hóa hay các vấn đề tương tự khác (Điều 2)... Xét về mức độ ghi nhận cụ thể, nhìn chung so với hiến pháp nhiều nước, cách ghi nhận về các quyền tự do dân chủ của Hiến pháp Việt Nam có phần đơn giản, thiếu tính xác định, ít lường trước những gì mà luật thể chế hóa có thể sai lệch…

Tất nhiên, ghi nhận trong Hiến pháp không phải là tất cả, là công dân sẽ có được quyền tự do dân chủ thực tế. Cần nhấn mạnh: quyền tự do dân chủ của công dân phụ thuộc có tính chất quyết định vào chỗ nền dân chủ của một nước thực sự là nền dân chủ gì, thực chất hay hình thức; điều đó lớn hơn cả sự ghi nhận hiến pháp. Có thể quy định nhiều quyền tự do dân chủ trong hiến pháp nhưng trong thực tế, công dân không có quyền thực sự; ngược lại, có thể quy định ít quyền tự do dân chủ trong hiến pháp nhưng trong các đạo luật lại thể hiện tốt hơn, trên thực tế, quyền tự do dân chủ của công dân lại được thực hiện…Cần luôn phải tránh việc xây dựng bản hiến pháp mà như Mác nói trong hiến pháp ghi nhận quyền, ngoài hiến pháp lại xóa đi quyền đó.   

Nếu nhận xét một cách khái quát, nghiêm túc và trên bình diện khoa học các quy định về quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp nước ta hiện nay, thì đó là: các quyền tự do, dân chủ được xác lập theo hướng dân chủ, nhưng tính hình thức còn khá nặng nề. Giữa ghi nhận quyền trong Hiến pháp và quyền trong thực tế còn có khoảng cách xa. Ví dụ, có những quyền như quyền bầu cử của công dân xét ở tầm quy định hiến pháp thì giống như các nước khác, nhưng quy trình bầu cử trong luật lại biến nó trở thành hình thức, không tạo ra được sự gắn kết giữa cử tri và đại biểu. Một số quyền như quyền tham gia trưng cầu ý dân, quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền hội họp chưa bao giờ được luật hóa…Điều đó cho thấy giữa tinh thần quyền hiến pháp và quyền hiện thực chưa thật trùng khớp, có lẽ cũng do cách làm luật ở ta, quy định Hiến pháp không dự liệu, không định hướng nó sẽ như thế nào… 

Để xem xét vấn đề sửa đổi, bổ sung các quyền con người, quyền công dân nói chung, nói riêng ở đây là quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp hiện hành, theo chúng tôi cần xuất phát từ các quan điểm cơ bản sau đây:

Một là, quyền tự do dân chủ của công dân trong Hiến pháp phải phản ánh trung thực bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa – nền dân chủ mà lý thuyết chính thống cho rằng cao hơn so với nền dân chủ có trước. Nền dân chủ đó phải kế thừa tinh hoa dân chủ đã có của nhân loại, phù hợp với xu hướng dân chủ trong xã hội hiện đại, đồng thời phù hợp với các điều kiện cụ thể ở Việt Nam theo tinh thần coi trọng tính phổ quát của quyền dân chủ.

Hai là, quy định về các quyền tự do dân chủ của công dân phải có tính hiện thực hay là khả thi. Đã quy định trong Hiến pháp quyền tự do dân chủ nào thì phải xác định rằng đó là quyền thực tế, kiên quyết không quy định hình thức, trang trí hay để “đẹp” trong quan hệ đối ngoại.

Ba là, quy định quyền tự do dân chủ chỉ là những quy định ở tầm hiến pháp, tức là các quy định cơ bản, quan trọng nhất. Không sa đà vào những điều vụn vặt, quá chi tiết.

Bốn là, quy định về các quyền tự do dân chủ của công dân phải có tính định hướng việc xây dựng luật và thực hiện quyền, không nên chỉ là tuyên bố chung chung. Tính định hướng thể hiện ở chỗ tùy quy định tùy theo cách diễn đạt mà hàm chứa được việc chỉ ra ý nghĩa nội dung, giới hạn của quyền, ngăn chặn các khả năng hiểu sai hoặc cản trở quyền. Điều đó đòi hỏi phải dự liệu được các vấn đề qua việc nghiên cứu những vấn đề thực tiễn lập pháp và thực hiện quyền nổi trội qua thực tế ở Việt Nam; và, tiếp thu những nét hay, tiến bộ trong các quy định về quyền tự do dân chủ của hiến pháp các nước.   

Ngoài ra, quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân phải rõ ràng, các khái niệm có nội dung xác định hoặc là cái đã được thừa nhận rộng rãi. Nếu cần thì phải nêu rõ thêm.   

Với các quan điểm về quy định quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp trên đây, xin có các kiến nghị như sau:

1/ Về quyền bầu cử, ứng cử của công dân (Điều 54)

Điều 54 quy định như đã nêu ở trên mới chỉ là quy định nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng. Ở đây cần ghi nhận nguyên tắc rất quan trọng là bầu cử tự do. Bầu cử thiếu nguyên tắc này thì đó không thật là bầu cử. Cần ghi nhận rõ ràng nguyên tắc này.

Thực ra, người đi bầu cử là người thực hiện quyền này một cách tự do. Tuyên truyền “bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân” không chính xác về mặt pháp lý. Nếu đó là nghĩa vụ thì người không thực hiện phải bị chế tài. Nhưng pháp luật nước ta không có không định xác định chế tài đối với hành vi không đi bầu. Mặt khác, cần thấy, nếu bắt buộc công dân đi đi bầu thì điều đó chỉ tai hại cho kết quả bầu cử. Người không muốn đi bỏ phiếu mà buộc phải đi bỏ phiếu thì lá phiếu của họ sẽ đưa lại kết quả bầu cử ngẫu nhiên, không phải là sự lựa chọn có ý thức. Xã hội dân chủ không mong có những đại biểu được bầu ra như vậy.

Đối với người ứng cử, thực ra Hiến pháp cũng đã xác nhận công dân có quyền tự do ứng cử. Vấn đề ở đây là phải hiểu tự do ứng cử trong Hiến pháp theo tinh thần nào. Các luật về bầu cử hiện nay đều có quy định về vấn đề hiệp thương danh sách ứng cử. Đây là hạn chế của chế độ bầu cử nước ta hiện nay, thể hiện tinh thần “cơ cấu” đại biểu bởi một số ít người đại diện cho một số cơ quan, tổ chức. Nó tựa hồ như bầu cử một số vòng trước cuộc bầu cử chính thức bởi chỉ một số cử tri. Hạn chế này làm cho người dân không mặn mà với việc đi bầu, bầu đại diện cho hộ, sự chính đáng của người được bầu, đặc biệt là ở quan hệ lỏng lẻo vốn có từ bên trong giữa đại biểu và cử tri, bởi sự ràng buộc của đại biểu với cử tri còn bị chi phối bởi kết quả hiệp thương (có lẽ là được vào danh sách ứng cử thì đã chắc 80% trúng cử).

Giải pháp ở đây là các tiêu chuẩn đại biểu phải được ghi trong luật làm theo luật, không cần sự can thiệp của ai vào việc lập danh sách ứng cử viên. Mọi trường hợp không được Hội đồng bầu cử công nhận, người ra ứng cử được kiện đến Tòa án (chứ không phải Hội đồng bầu cử). Như thế mới thể hiện tinh thần pháp quyền trong chế độ bầu cử. 

2/ Về quyền tham gia trưng cầu ý dân của công dân (Điều 53)

Quyền này được quy định trong tất cả các bản hiến pháp của nước ta, nhưng chưa bao giờ được cụ thể hóa cũng như thực hiện cả. Cần phải cụ thể hóa quyền tham gia trưng cầu ý dân của công dân như một phương thức giải quyết các vấn đề quan trọng đối với đất nước và để quyền này không chỉ nằm trong Hiến pháp.

Đối với các nước theo tinh thần dân chủ sâu sắc, người ta thể hiện tinh thần tôn trọng nhân dân, cũng như tìm kiếm phương thức cao nhất để giải quyết các vấn đề bằng cách dân bỏ phiếu quyết định. Không có quyền lo lắng thái quá về khả năng nhân dân quyết định vấn đề nào đó.

3/ Về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin (Điều 69)

Quy định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã tương ứng với các quy định về các quyền này trong hiến pháp các nước.

Thực ra, quyền tự do ngôn luận đã hàm ý tự do báo chí. Việc ghi nhận tự do báo chí chỉ là do vai trò đặc thù của hình thức tự do này. Tự do ngôn luận là tự do trao đổi ý kiến, thể hiện suy nghĩ, tình cảm qua báo chí và các hình thức khác như vẽ tranh cổ động, trao đổi giữa các cá nhân, qua blog, v.v. Ngoài Luật Báo chí hiện nay, có lẽ không có luật nào quy định cụ thể nữa về các hình thức tự do ngôn luận khác. Vì vậy, nên chỉ rõ trong Hiến pháp các hình thức tự do ngôn luận. Và, nên có quy định rõ trong Hiến pháp cấm kiểm duyệt báo chí.

Quyền được thông tin là quyền có thông tin và được nhận thông tin. Cần xác định rõ đây là quyền tự do. Không có thông tin tự do thì đó hoặc là dân chủ hạn chế hoặc không thể nói được gì về dân chủ. Đây là vấn đề hết sức lớn ở nước ta trong quá trình dân chủ hóa. Nên quy định trong điều riêng về quyền được thông tin. Đối với quyền này, cũng nên chỉ ra “vùng cấm”, giới hạn của tự do ngôn luận và tự do thông tin. Theo kinh nghiệm từ Hiến pháp Thụy Điển (Điều 2) và Hiến pháp Nga (Điều 29) liên quan đến tự do ngôn luận, nên có thêm quy định về công dân không thể bị ép buộc phải thể hiện hoặc chối bỏ quan điểm, ý kiến của mình. Đó chính là tự do tư tưởng mà mọi nền dân chủ không thể không thừa nhận.

Liên quan đến quyền tự do ngôn luận của công dân, có lẽ nên có quy định ngăn chặn việc gây sức ép hoặc cưỡng bức công dân phải nói ra những điều không muốn nói hoặc khác với ý kiến thực của họ, như Điều 2 Hiến pháp Thụy Điển đã nêu ở trên. Đây là điều không thể chấp nhận trong xã hội coi trọng dân chủ, quyền con người.

4/ Về quyền lập hội của công dân (Điều 69).

Quy định về các quyền này của công dân quá đơn giản. Cần thêm vào đây hai chữ “tự do” để thể hiện tinh thần của xã hội dân chủ và tôn trọng quyền con người. Đồng thời, chỉ ra cấm thành lập các hội trong các trường hợp nào.

Quyền lập hội cũng nên tách ra thành điều riêng. Quyền này cần phải được luật hóa theo tinh thần cởi mở. Đây chính là sự mở đường cho việc xây dựng xây dựng xã hội công dân hay xã hội dân sự Việt Nam. Xã hội công dân chỉ có lợi đối với một nhà nước tốt nhờ vai trò hợp tác, phản biện của nó với nhà nước.

5/ Về các quyền hội họp, biểu tình (Điều 69)

Đây là các quyền khác nhau, tuy điểm chung của nó đều là sự tụ tập dưới các hình thức, cách thức khác nhau của nhóm công dân nhằm biểu lộ, trao đổi ý chí, tình cảm. Ngoài hội họp, biểu tình, còn có những hình thức hoạt động có tính “tụ tập” tập thể khác như mít tinh, diễu hành. Hiến pháp cần xem xét ghi nhận các hình thức khác nhau của công dân đó với tư cách là quyền tự do dân chủ.

Cũng cần xác định rõ quyền trên của công dân bị hạn chế trong Hiến pháp các trường hợp nào.

Nên chăng quy định các hoạt động thực hiện quyền hội họp, biểu tình…là các hoạt động đăng ký thay vì phải xin phép để thể hiện tinh thần dân chủ cởi mở, trừ những trường hợp đặc biệt?

6/ Về các quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước (Điều 53)

Thực ra, nội hàm quyền được gọi là tham gia quản lý nhà nước và xã hội cũng đã khá phức tạp. Việc nhận thức và viện dẫn không chỉ đối với công dân mà các nhà nghiên cứu pháp luật, các nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước cũng khá không xác định, tỏ tường. Đoạn “tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước” thực chất cũng chỉ là các hình thức tham gia quản lý nhà nước, được ghi nhận vào Hiến pháp như một sự nhấn mạnh.

Hiến pháp một số nước có quy định khác nhau về vấn đề người dân tham gia quản lý nhà nước. Hiến pháp Hàn Quốc quy định chỉ một vài quyền: mọi công dân có quyền giữ các chức vụ theo các điều kiện của pháp luật (Điều 25), có quyền kiến nghị đến bất cứ cơ quan chính quyền nào (Điều 26). Hiến pháp Nga quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước một cách trực tiếp cũng như thông qua các đại biểu dân cử (khoản 1 Điều 32). Nhưng một số hiến pháp không quy định quyền này, ví dụ, Hiến pháp Thụy Điển, Hiến pháp Singapo…

Nên chăng Hiến pháp sửa đổi cần có các quy định bao quát và rõ hơn về các quyền này, để không trở thành hình thức, khó áp dụng.

7/ Về các quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân (Điều 74)

Một vài nước có quy định những quyền này của công dân. Hiến pháp Ba Lan quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, kiến nghị và khởi kiện…tới các cơ quan nhà nước, các tổ chức và đoàn thể xã hội…” (Điều 63). Hiến pháp Nhật Bản: “Mọi công dân đều có quyền khiếu nại…; không người nào bị phân biệt đối xử vì ủng hộ các kiến nghị này”.

Ở tầm quy định hiến pháp, quy định về các quyền khiếu nại, tố cáo ở Hiến pháp nước ta như vậy cơ bản là được. Có chăng là cần phải nhận thức quy định này về chủ thể khiếu nại và tố cáo là như thế nào. Chúng tôi cho rằng việc không chấp nhận thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo do nhóm người thực hiện là không phù hợp với thực tế. Có lẽ nào những người cùng có chung lợi ích, chung ý chí lại phải tách ra từng người một? Một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân luôn hành xử công khai, minh bạch và chính đáng thì không cần phải có quy định lạ như vậy.

[1] Iohn Locke, Khảo luận thứ hai về chính quyền – chính quyền dân sự, Lê Tuấn Huy dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007, tr. 141.
[2] Jean - Jacques rousseau. Bàn về khế ước xã hội. Nxb Lý luận chính trị. Hà Nội. 2004. tr. 79.
[3] Iohn Locke, sđd, tr. 313-314.
[4] Iohn Locke, sđd, tr. 203.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 60.
[6] Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 84,85.

PGS.TS. Vũ Thư, Viện Nhà nước và Pháp luật

No comments:

Post a Comment