10/09/2014
Phân tích phạm vi và điều kiện, đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên và giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho A
Bài tập học kỳ tình huống Luật An sinh xã hội - 8 điểm

Đề số 10: Bài tập học kỳ Luật An sinh xã hội.

1. Phân tích phạm vi và điều kiện, đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên.

2. A là công nhân nhà máy Z từ năm 1992. Năm 2010 do sơ xuất trong quá trình vận hành máy nên A bị tai nạn lao động suy giảm 27% khả năng lao động. Tháng 5 năm 2012 do vết thương tái phát A phải vào viện điều trị.


A được giám định lại khả năng lao động và được xác định bị suy giảm 35% khả năng lao động. Lúc này, do tuổi đã cao (58 tuổi) nên A là đơm xin nghỉ hưu và đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán cho A 100% tiền lương trong thời gian A điều trị vết thương tái phát (vì cơ quan bảo hiểm mới trả có 75% tiền lương), đồng thời giải quyết cho A được chế độ trợ cấp tai nạn lao động hàng tháng thay vì trợ cấp một lần. 


Hãy giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho A theo quy định của pháp luật hiện hành.

I. Phân tích phạm vi và điều kiện đối tượng hưởng TGXHTX.

TGXHTX là sự trợ giúp của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng về vật chất và tinh thần cho những đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống thường nhật bị đe dọa (gọi là đối tượng bảo trợ xã hội) không tự lo được cuộc sống (một hoặc nhiều năm) để họ ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng xã hội và phát triển. TGXHTX được xem là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên hệ thống chính sách TGXH ở nước ta. 

Quyền hưởng TGXH là quyền cơ bản của cá nhân trong xã hội, do vậy quyền này được áp dụng đối với mọi đối tượng mà không có sự phân biệt. Trên thực tế việc cụ thể hóa quyền này trong pháp luật quốc gia phụ thuộc nhiều vào điều kiện cụ thể. Thông thường việc xác định phạm vi đối tượng hưởng trợ giúp căn cứ vào nhu cầu trợ giúp với các mức độ rủi ro khó khăn của đối tượng và khả năng đáp ứng về tái chính của Nhà nước và của cộng đồng.

1. Đối tượng hưởng TGXHTX.

Nhóm đối tượng hưởng TGXHTX được quy định tại Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/04/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội như sau:

“1. Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo.

Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên.

2. Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ). 

3. Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội.

4. Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình nghèo.

5. Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo.

6. Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo.

7. Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.

8. Hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ. 

9. Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp dụng đến dưới 18 tuổi”.

Và hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ : Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. Theo đó thì một số đối tượng trợ giúp xã hội cần được hiểu như sau:“Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ. Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm. Hộ gia đình có từ 02 người trở lên là người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ quy định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP được sửa đổi theo khoản 1 Điều 1 Nghị định này, người mắc bệnh tâm thần quy định tại khoản 5 Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ- CP được sửa đổi theo khoản 2 Điều 1 Nghị định này.”

Đây là những đối tượng không tự mình đảm bảo được cuộc sống mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ thường xuyên trong một thời gian hoặc thậm chí cả cuộc đời nhằm đảm bảo sự tồn tại. Điều kiện hưởng cụ thể của từng nhóm đối tượng được quy định tại Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP. 

Như vậy,pháp luật hiện hành đã không ngừng mở rộng phạm vi đối tượng hưởng TGXHTX. Nếu như trước đây, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP và nghị định số 168/2004/NĐ-CP chỉ bó hẹp phạm vi với bốn diện đối tượng hưởng TGXHTXthì hiện nay đã mở rộng tới chín diện đối tượng. Hơn thế, điều kiện xác định đối với từng diện đối tượng cũng được quy định phù hợp hơn rất nhiều, đảm bảo nguyên tắc ưu tiên và cân đối giữa nhu cầu đối tượng và khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã hội.

Thực tế cho thấy sau khi Nghị định số 67/2007/NĐ-CP được ban hành thì số đối tượng hưởng TGXHTX lên đến 1.400.000 đối tượng, gấp hơn 2 lần theo Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Và nếu như năm 2000 chúng ta mới thực hiện được TGXH thường xuyên cho 175.355 người thì đến năm 2006 chúng ta đã thực hiện được 460.000 người, đột biến đến năm 2007 con số đó là 578.000

Hiện nay, có một số người nhầm lẫn về đối tượng của xóa đói giảm nghèo với TGXHTX. Giữa xóa đói giảm nghèo và TGXH có một mảng giao thoa về đối tượng và nội dung, theo đó những đối tượng đói nghèo khi rơi vào diện trợ giúp thì được hưởng trợ cấp TGXH và ngược lại đối tượng của TGXH chính là đối tượng của xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên không phải tất cả những đối tượng xóa đói giảm nghèo đều được hưởng trợ cấpTGXH. Chỉ những đối tượng nào có đủ điều kiện hưởng trợ cấp mới được hưởng TGXH. Trong giai đoạn hiện nay (2006-2010) việc xác định cá nhân hộ gia đinh thuộc diện nghèo đói dựa trên tiêu chí mức chuẩn của pháp luật quy định như sau: những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân từ 200.000đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực nông thôn và những người có mức thu nhập bình quân từ 260.000đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị thì được coi là hộ nghèo. Trên thưc tế cho thấy đối tượng hưởng TGXHTX lại chính là các đối tượng đói nghèo.

Qua tìm hiểu và nghiên cứu, cho thấy quy định của pháp luật hiện hành còn một số bất cập về đối tượng hưởng TGXHTX như sau:

- Thứ nhất, sự bất hợp lý trong quy định điều kiện hưởng TGXH đối với nhóm trẻ em mồ côi. Hiện nay, với điều kiện kinh tế, sức khỏe trẻ em nói chung đã tham gia quan hệ lao động dưới các hình thức khác nhau trong độ tuổi từ 12-13 trở lên và một phần trong số các em đã tự đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày, thậm chí ở một số gia đình khó khăn các em còn là trụ cột, lao động chính trong gia đình. Mặt khác theo quy định tại khoản 1 Điều 3Bộ Luật Lao động 2012 thì người đủ 15 tuổi trở lên có thể tham gia quan hệ lao động. Như vậy, trẻ em từ 15 tuổi trở lên có thể tham gia vào quann hệ lao động và có khả năng nuôi sống bản thân mình. Căn cứ vào thực tế nói trên và tương quan về độ tuổi lao động tối thiểu có thể thấy điều kiện xác định đối tượng hưởng TGXHTX là trẻ em dưới 16 tuổi hoặc từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nếu còn đang đi học (khoản 1 Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP) là không phù hợp. Trong việc cân đối tài chính TGXH vốn đã khó khăn tại sao không quy định giảm độ tuổi của nhóm đối tượng này cho phù hợp đồng thời tạo cơ hội mở rộng phạm vi trợ giúp đối với các nhóm khác có nhu cầu cấp thiết hơn.

- Thứ hai, cũng trong nhóm đối tượng trẻ em hưởng TGXHTX, pháp luật chưa có sự thống nhất về phạm vi đối tượng hưởng cũng như tiêu chí xác định, phân loại cụ thể để lựa chọn hình thức TGXH phù hợp. Trong nhóm đối tượng trẻ em dưới 16 tuổi được hưởng TGXHTXhiện nay bao gồm cả trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS dẫn đến nhu cầu cần lựa chọn thuật ngữ thống nhất nhằm bao quát được các diện đối tượng này. Mặt khác trong thực tế, có những trẻ em có nhu cầu trợ giúp bằng tiền để đảm bảo sự tồn tại nhưng cũng có những đối tượng trẻ em có nhu cầu họp tập văn hóa, học nghề hay nhu cần về chăm sóc y tế, tình cảm, tư vấn hòa nhập cộng đồng... nếu không có sự phân loại hợp lý ngay khi xác định đối tượng việc TGXH sẽ không đem lại hiệu quả cao.

- Thứ ba, theo quy định của pháp luật TGXH có thể nhận thấy yếu tố sức khỏe không phải là điều kiện quan trọng đặt ra để xác định đối tượng hưởng trợ cấp, đặc biệt ở nhóm đối tượng người già cô đơn không nơi nương tựa. Điều đó dẫn đến một thực tế là nhiều người ở độ tuổi luật quy định (trên 60 tuổi) vẫn còn khỏe mạnh, còn khả năng lao động tự nuôi sống bản thân mình nhưng đáp ứng được đầy đủ điều kiện hưởng và về nguyên tắc họ thuộc diện hưởng trợ cấp. Nhưng nếu cho họ hưởng thì đi ngược với mục đích trước mắt của TGXH là “lưới đỡ kinh tế cuối cùng” đối với những người thực sự khó khăn, không thể duy trì cuộc sống.

Việc bổ sung thêm điều kiện “thuộc hộ nghèo” đối với người cao tuổi hiện nay đã khắc phục được nhược điểm lớn là không xem xét đến điều kiện kinh tế trong các quy định trước đây. Song thực tế, Việt Nam cho thấy cần xem xét đến tình trạng sức khỏe của đối tượng người già, nâng cao độ tuổi hưởng trợ cấp nhằm tránh tình trạng lạm dụng ỷ lại vào trợ cấp. 

2. Điều kiện hưởng TGXHTX.

Điều kiện hưởng cụ thể của từng nhóm đối tượng được quy định tại Điều 4 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP

Khác với các chế độ trợ cấp khác trong hệ thông An sinh xã hội, nghĩa vụ đóng góp không đặt ra như một điều kiện cho người hưởng TGXHTX, tuy nhiên họ vẫn phải đáp ứng các điều kiện xác định đối tượng với từng nhóm và nguyên tắc ưu tiên thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là không phải mọi đối tượng đảm bảo điều kiện theo quy định đều được hưởng trợ cấp mà còn phụ thuộc vào khả năng đáp ứng tài chính và thứ tự ưu tiên đối với những đối tượng khó khăn nhất theo địa bàn khu vực đó.

Nguyên nhân dẫn đến khó khăn của từng nhóm đối  tượng TGXH rất đa dạng, do vậy dẫn đến nhu cầu trợ giúp cũng rất khác nhau. Nhằm đạt được mục đích trợ giúp pháp luật TGXH cũng dựa trên nhu cầu cụ thể của từng nhóm đối tượng để quy định chế độ hưởng với nội dung và hình thức trợ giúp đa dạng, linh hoạt: trợ giúp bằng tiền, bằng hiện vật, bằng các biện pháp tư vấn, hỗ trợ về tinh thần, hướng nghiệp dạy nghề hay chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ, chăm sóc tại cộng đồng. Nguyên tắc chung cho việc thực hiện TGXH là ngoài phần đảm bảo của Nhà nước cần phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng của bản thân đối tượng. Trong trường hợp đặc biệt khó khăn, không thể không lo liệu được cuộc sống thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước để được nuối dưỡng chăm sóc.

3. Quyền lợi hưởng TGXHTX.

Quyền lợi cơ bản của đối tượng TGXHTX là được trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp được xác định trên cơ sở nhu cầu sống của đối tượng và khả năng đáp ứng tài chính của Ngân sách nhà nước, điều kiện cụ thể của địa phương. Trên cơ sở mức trợ cấp tối thiểu do pháp luật quy định, Chủ tich UBND cấp tỉnh có quyền quyết định mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng thuộc quyền quản lý cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu chung. Mức trợ cấp thường xuyên được xác định theo mức sống tối thiểu của dân cư với hệ số chuẩn (hiện nay là 180.000 đồng đã tăng 60.000 so với khi Nghị định 67/2007/NĐ-CP được ban hành), trên cơ sở đó quy định cụ thể mức sống của từng nhóm đối tượng. Việc cụ thể hóa mức hưởng với từng nhóm đối tượng thậm chí với từng đối tượng tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 13/2010/NĐ-CP đã khắc phục được tình trạng bình quân hóa trợ cấp TGXH trước đây. Đây có thể coi là một ưu điểm lớn trong pháp luật hiện hành khi quy định mức trợ cấp TGXH, tạo điều kiện nâng cao mức trợ cấp phù hợp với điều kiện sống dân cư, đảm bảo giá trị trợ cấp cho người thụ hưởng. 

Bên cạnh quyền lợi trợ cấp hàng tháng, các đối tượng được hưởng quyền lợi về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe như được cấp thẻ Bảo hiểm y tế, miễn phí chi phí Khám chữa bệnh, miễn giảm học phí, cấp sách vở đồ dùng học tập, đào tạo nghề, ưu tiên bố trí việc làm, hỗ trợ mai táng phí... Các đối tượng sống tại các cơ sở bảo trợ cần được trợ cấp mua sắm tư trang, vật dụng cho đời sống hàng ngày, trợ cấp mua thuốc chữa bệnh với người nhiễm HIV/AIDS ... Qua các quy đinhn về chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên và thực tiễn thực hiện cho thấy sự đa dạng hóa về hình thức trợ giúp đã đem đến những hiệu quả cho công tác TGXH. Đối tượng hưởng không chỉ được hỗ trợ về nhu cầu sinh sống tối thiểu mà còn nhận được các hỗ trợ khác nhằm tạo điều kiện vươn lên, tự lực trong cuộc sống.

Mặc dù vậy, chế độ TGXH thường xuyên cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Theo Nghị định số 168/2004/NĐ-CP ngày 10/9/2004 trước đây mức trợ cấp cho đối tượng sống tại cộng đồng chỉ bằng 18,57 so với tiền lương tối thiểu và cũng bằng khoảng 17,1 mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, nếu so với chuẩn nghèo nông thôn chỉ bằng 32,5%. 

Khắc phục hạn chế này, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP quy định hệ số mức chuẩn căn cứ theo mức sống tối thiểu của cộng đồng dân cư. Song theo ước tính, mức chuẩn trợ cấp hiện nay cũng chỉ bằng khoảng 60% mức chuẩn nghèo.

Mặc dù còn tính đến mức trợ giúp của địa phương và sự vươn lên của bản thân đối tượng, song với mức tối thiểu như vậy vẫn là thấp, đặc biệt trong hoàn cảnh giá cả sinh hoạt tăng cao như những năm gần đây. Hơn nữa, mức sống tối thiểu dân cư được điều chỉnh theo chuẩn nghèo 5 năm một lần  nên lấy tiêu chí này xác định TGXH kém linh hoạt, không đáp ứng kịp thời với mức sống thực tế.

II. Giải quyết tình huống.

Để giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho Anh A ta cần xem xét đến các dữ liệu có liên quan như sau:

- Năm 2008: Anh A bị TNLĐ, suy giảm 27% khả năng lao động

- Tháng 5 năm 2012 vết thương tái phát phải vào viện điều trị, được giám định lại suy giảm 35% khả năng lao động.

- Anh A xin nghỉ hưu sớm (58 tuổi) và đề nghị cơ quan BHXH thanh toán 100% tiền lương trong thời gian anh điều trị vết thương tái phát.

- Thời gian tham gia BHXH của A:

+ 18 năm (từ 1992 đến 2010).
+ 20,5 năm (từ 1992 đến tháng 5/2012).

1. Giải quyết quyền lợi liên quan đến TNLĐ vào năm 2010.

Theo quy định tại Điều 142 Bộ Luật Lao động được sửa đổi bổ sung năm 2012 thì: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”.

Như vậy, tai nạn được coi là TNLĐ khi người lao động bị tai nạn trong quá trình sản xuất, trong giờ làm việc, tại nơi làm việc (không căn cứ vào lỗi của người lao động); bị tai nạn ngoài nơi làm việc, ngoài giờ làm việc nhưng phải gắn với yêu cầu chủ sử dụng lao động; bị tai nạn trên tuyến đường đi và từ nơi ở đến nơi làm việc (đoạn đường và thời gian phải phù hợp và mục đích phải phục vụ công việc). Các trường hợp được coi là TNLĐ được pháp luật quy định rất cụ thể tại Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 như sau:

“Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;

b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;

c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý;

2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 của Điều này”.

TNLĐ là rủi ro mà người lao động không thể lường trước được. Việc bị TNLĐ sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình lao động của bản thân, điều đó có nghĩa việc xảy ra TNLĐ sẽ làm giảm hoặc mất đi thu nhập từ lao động, trong khi đó nhu cầu sinh hoạt và đời sống của họ ngày càng tăng cao và không thể không có được. Do đó, BHXH về TNLĐ càng trở nên thiết thực và ý nghĩa hơn bao giờ hết. 

Theo như tình huống trên, vào năm 2010 do sơ xuất trong quá trình vận hành máy nên anh A đã bị tai nạn và suy giảm 27% khả năng lao động.

Tại khoản 1 Điều 142 Luật BHXH năm 2006 quy định: “Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần”. Như vậy, với trường hợp của Anh A bị TNLĐ suy giảm 27% thì anh được nhận trợ cấp một lần. Ngoài được hưởng BHXH anh A còn được hưởng 100% tiền lương trong quá trình điều trị lần đầu và được người sử dụng lao động chi trả các chi phí, viện phí điều trị. Mức trợ cấp được tính dựa trên mức suy giảm khả năng lao động và số năm đóng BHXH theo công thức quy định cụ thể tại mục III.2 Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH. 

Vào tháng 5 năm 2012 do vết thương tái phát nên anh A phải vào viện điều trị và được giám định lại với kết quả là anh A suy giảm 35% khả năng lao động. Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật BHXH về giám định mức suy giảm khả năng lao động:

“Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định;

b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định”.

Như vậy, sau khi giám định lại sức khỏe do vết thương do bị TNLĐ tái phát, anh A đã nhận được kết quả là  bị suy giảm 35% khả năng lao động. Trong trường hợp này pháp luật bảo hiểm cho phép anh A được giám định lại sức khỏe do TNLĐ gây tổn hại đến sức khỏe, cho nên anh A sẽ được thay đổi mức trợ cấp theo khoản 1 Điều 43 như sau: “Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng”. Như vậy, anh A sẽ được thay đổi mức trợ cấp từ được nhận trợ cấp 1 lần sang trợ cấp hàng tháng.

Theo quy đinh tại khoản 2 Điều 22 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP, cách tính trợ cấp háng tháng được tính theo mức suy giảm khả năng lao động và mức trợ cấp tính theo số năm đóng BHXH. 

Mức trợ cấp tình theo mức suy giảm khả năng lao động như sau: suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung. Mức trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội như sau: từ 1 năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. 

Anh A được giám định lại lần 2 suy giảm 35% khả năng lao động, thời gian đóng BHXH là 20,5 năm. Vậy theo công thức trên thì anh A được hưởng như sau: (30% + 4,2 = 38% mức lương tối thiểu chung) + (0,5% + 19,5 = 6,35% mức lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị). 

 Như vậy, anh A sẽ được hưởng 38% mức lương tối thiểu chung và 6,35% mức lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi anh vào viện điều trị.

2. Giải quyết trường hợp anh A đòi cơ quan bảo hiểm thanh toán 100% tiên lương trong thời gian nằm viện.

Theo khoản 1 Điều 144 Bộ Luật Lao động 2012 có quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị TNLĐ như sau: 

“1. Thanh toán phần chi phí đồng chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

2.Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị”.

Như vậy, người sử dụng lao động (nhà máy Z) phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ cho anh A từ chi phí sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị TNLĐ đến khi sức khỏe ổn định cộng với khoản tiền lương mà Anh A được hưởng khi nghỉ việc để điều trị TNLĐ. Cơ quan bảo hiểm không có trách nhiệm thanh toán lương cho anh A mà chỉ có trách nhiệm chi trả trợ cấp BHXH với cơ sở tính là tiền lương và mức độ suy giảm khả năng lao động.

Tuy nhiên, trong trường hợp này thì tháng 5/2012 do vết thương tái phát anh A phải vào viện điều trị. Việc nhập viện của Anh A lúc này nguyên nhân là do vết thương do bị TNLĐ từ năm 2010 tái phát chứ không phải do Anh A bị TNLĐ mới. Điều này đồng nghĩa với việc Anh A sẽ không được điều trị theo chế độ TNLĐ mà lúc này vết thương tái phát sẽ được hưởng như chế độ ốm đauvà mọi chi phí viện phí của Anh A khi điều trị vết thương tái phát sẽ do cơ quan BHYT chi trả.

- Về thời gian hưởng:

Anh A do làm việc trong điều kiện bình thường, đã đóng bảo hiểm 20,5 năm. Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật BHXH: “ Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng ba mươi ngày nếu đã đóng BHXH dưới mười lăm năm; bốn mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm năm đến dưới ba mươi năm; sáu mươi ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi năm trở lên”. Như vậy, Anh A sẽ được nghỉ 40 ngày. Sau thời gian này mà sức khỏe Anh A chưa hồi phục thì A tiếp tục được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ năm đến mười ngày trong năm (khoản 1Điều 12 Nghị định 152/NĐ-CP).
- Mức hưởng như chế độ ốm đau:

Theo đề bài thì trường hợp của Anh A thuộc quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật BHXH, cụ thể là làm việc trong điều kiện bình thường. Như vậy, căn cứ theo khoản 1 Điều 25 Luật BHXH thì Anh A được hưởng 75% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc và không thể yêu cầu cơ quan bảo hiểm thanh toán 100% tiền lương khi đang điều trị: “Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 23 và Điều 24 của Luật này thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc”.

Trường hợp Anh A nghỉ dưỡng sức thì sẽ được hưởng thêm trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật BHXH. Cụ thể, Anh A sẽ được hưởng mức một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại cơ sở tập trung.

3. Giải quyết chế độ hưu trí cho Anh A:

Anh A làm đơn xin  nghỉ hưu sớm với các dữ liệu liên quan như sau:

- 58 tuổi.
- Có 20,5 năm đóng BHXH.
- Bị suy giảm 35% khả năng lao động.

Luật BHXH 2006 quy định về điều kiện hưởng lương hưu tại Điều 50 như sau:

“1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c và e khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi;

b) Nam từ đủ năm mươi lăm tuổi đến đủ sáu mươi tuổi, nữ từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.

2. Người lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Nam đủ năm mươi lăm tuổi, nữ đủ năm mươi tuổi, trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hoặc Luật công an nhân dân có quy định khác;

b) Nam từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi, nữ từ đủ bốn mươi lăm tuổi đến đủ năm mươi tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên”.

Và điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động tại Điều 51 như sau:

“Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 2 của Luật này đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên; 

2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành”.

Như vậy, có thể thấy Anh A chưa đủ điền kiện hưởng chế độ lương hưu.

Tuy nhiên,  Anh A lại có 20,5 năm đóng BHXH nên Anh A có thể bảo lưu thời gian đóng BHXH theo quy định tại Điều 57 Luật BHXH quy định như sau: “Người lao động khi nghỉ việc mà chưa đủ điều kiện để hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 hoặc chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật này thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội”.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2012.
2. TS. Nguyễn Hiền Phương, Pháp luật an sinh xã hội - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010.
3. Bộ Luật Lao động sửa đổi bổ sung 2012.
4. Luật bảo hiểm xã hội năm 2006
5. Nghị định của Chính phủ số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
6. Nghị định của Chính phủ số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.
7. Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007. 

8. Website: http:// www.chinhphu.vn, http://www.moj.gov.vn/

No comments:

Post a Comment