21/08/2014
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng - Bài tập học kì môn Luật Dân sự 2
Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định có sớm nhất và quan trọng nhất của pháp luật dân sự. Trong đời sống có rất nhiều sự việc thực tế tranh chấp dẫn đến việc các cá nhân, tổ chức …phải phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Luật dân sự giành hẳn một chương riêng để quy định về vấn đề này. Về mặt chủ thể điều kiện đầu tiên để các chủ thể có thể thực hiện được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là phải có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Em đã chọn đề tài: “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.” và trình bày một số tìm hiểu của mình cho bài tập lớn học kì. Trong quá trình tìm hiểu và tiếp cân đề tài trên chắc hẳn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót mong được sư góp ý của thầy, cô để giúp em hoàn thiện bài làm hơn.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật qui định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.


Quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân là cần thiết vì: cá nhân gây thiệt hại và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai có ý nghĩa không những về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tế rất quan trọng.Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại do cá nhân là người thành niên hay chưa thành niên hoặc là người mất năng lực hành vi dân sự khi họ gây thiệt hại là mục đích điều chỉnh của pháp luật .


3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:

- Có thiệt hại xảy ra:

Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.

+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.

+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.

+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân".

Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai...
Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại.

- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư...

- Có lỗi của người gây thiệt hại:

Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.

Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.

- Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt hại... thì phải bồi thường". Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.

4. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Điều 605 Bộ luật Dân sự quy định ba nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
     - Thứ nhất: “Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy đinh khác”.
     Bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” là nguyên tắc được thể hiện đầu tiên trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên tắc này đảm bảo người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường tương xứng với toàn bộ thiệt hại đã gây ra và bồi thường kịp thời, càng nhanh càng tốt để khắc phục hậu quả. Pháp luật khuyến khích các bên đương sự tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường. Tuy nhiên sự thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
     - Thứ hai: “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”.
     Đây là nguyên tắc thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, để giảm mức bồi thường thiệt hại thì người gây ra thiệt hại phải thỏa mãn đủ hai điều kiện là có lỗi vô ý và thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
     - Thứ ba: “Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước cơ thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường”.
     Với nguyên tắc trên thì người gây thiệt hại hoặc người bị thiệt hại có thể yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế. Cụ thể là trong trường hợp mức bồi thường quá thấp gây bất lợi cho người bị thiệt hại để khắc phục hậu quả gây ra hoặc mức bồi thường quá cao làm ành hưởng lợi ích của người gây ra thiệt hại.
     Nguyên tắc trên đã dự liệu các quy định của pháp luật không thay đổi kịp theo sự thay đổi của thực tế. Bởi pháp luật mang tính ổn định, tuy không bất biến nhưng cũng không thể thay đổi từng giờ, từng ngày như sự phát triển của kinh tế, xã hội.

II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.

1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đủ 18 tuổi.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý và được áp dụng với tất cả các chủ thể và tùy trong từng trường hợp cụ thể. Theo tinh thần đó Điều 606 BLDS năm 2005 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tùy thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức của cá nhân khi gây thiệt hại cho người khác ở ba mức độ khác nhau. Theo đó năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đông được quy định như sau: Theo khoản 1 Điều 606 BLDS năm 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”.

Như vậy cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây thiệt hại cho người khác phải tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình cho thiệt hại mà mình gây ra, điểm đặc biệt ở quy định này pháp luật không hề đề cập tới khả năng tài chính của cá nhân từ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự này. Bởi lẽ theo quy định của luật lao động Việt Nam thì những cá nhân từ 15 tuổi đã có khả năng bằng sức lực của mình tạo nên những tài sản nhất đinh, và họ có quyền tham gia vào các hợp đồng lao động, nói tóm lại họ đã có thu nhập riêng cũng đồng nghĩa với họ có tài sản riêng. Bên cạnh đó pháp luật còn quy định rõ ràng người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần, không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức không thể làm chủ được hành vi của minh, tóm lại họ có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự trước Tòa án, yếu tố này quyết định đến việc họ có khả năng tự chịu trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do hành vi có lỗi của họ gây thiệt hại, và là cơ sở pháp lý để các nhà làm luật quy định về trách nhiệm bội thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với những người đã thành niên gây thiệt hại ngoài hợp đồng.

2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên.
Bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra có những đặc thù so với các trường hợp bồi thường thiệt hại khác. Đặc thù này xuất phát từ các đặc điểm về tâm sinh lý của người chưa thành niên, do sự phát triển chưa hoàn chỉnh về thể chất và tinh thần nên người chưa thành niên không thể nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ và đúng đắn về hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang lại. Theo qui định của BLDS người chưa thành niên dưới 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự (điều 21); người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự một phần (điều 20). Vì vậy khi người chưa thành niên gây thiệt hại họ không có lỗi hoặc có lỗi nhưng lỗi đó một phần thuộc về trách nhiệm giáo dục, quản lý của cha mẹ, người giám hộ hoặc của nhà trường, bệnh viện, các tổ chức khác.
Trên cơ sở xác định cá mức độ năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên, BLDS qui định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên tại khoản 2, khoản 3 điều 606 BLDS:
“…….

2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. ”

Theo khoản 2,3 điều 606 của BLDS thì trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên được xác định dựa trên cơ sở hai yếu tố cơ bản là độ tuổi tình trạng tài sản của người chưa thành niên.

a) Trong trường hợp nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người đó còn cha mẹ thì về nguyên tắc cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại và phải tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn. Việc pháp luật qui định cho phép cha mẹ lấy tài sản của người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại bồi thường không làm thay đổi sự tư cách tố tụng của cha mẹ họ. Trường hợp người chưa thành niên không phải liên đới cùng cah mẹ để bồi thường, đồng thời, người chưa thành niên và cha mẹ họ không phải là đồng bị đơn trong vụ án. Qui định như vậy nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại theo nguyên tắc: “ thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời” (điều 605), bên cạnh đó còn có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm của người chưa thành niên, tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và của xã hội. Bởi lẽ về mặt khác quan thì cha mẹ là người có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trưởng thành, bảo vệ và tạo mọi điều kiện cho con của mình có được một cuộc sống tốt đẹp theo như luật hôn nhân gia đình và luật bảo vệ quyền trẻ em, Công ước quốc tế về bảo vệ Quyền trẻ em. Không những thế cha mẹ phải đồng thời là người có trách nhiệm giáo dục con của mình trở thành công dân có ích cho xã hội, theo quy định tại Điều 17 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Cha, mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của đứa trẻ mình nuôi dạy gây ra”. Bên cạnh đó về mặt pháp lý, cha mẹ là người Đại diện đương nhiên, thay mặt con trong các quan hệ pháp luật dân sự (Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự việt Nam 2005), và chịu trách nhiệm thay con cái nếu như con cái gây ra thiệt hại và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ở độ tuổi này trước pháp luật phải do người đại diện đương nhiên của họ thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của người được đại diện mà cụ thể ở đây là con chưa thành niên dưới mười năm tuổi gây ra. Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại, về nguyên tắc cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, việc cha mẹ, người giám hộ dùng tài sản của người chưa thành niên để bồi thường chỉ là một trong những phương thức mà pháp luật cho phép để cha me, người giám hộ của người chưa thành niên thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình nhằm đảm bảo quyền lợi của bên bị thiệt hại.

b) Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại. Người từ đủ mười năm đến dưới mười tám tuổi là những người đã có khả năng tự chủ được hành vi của mình, có khả năng điều khiển hành vi của mình, có ý thức, kiến thức về xã hội về pháp luật nhưng còn hạn chế. Vậy nên ngoài việc họ có quyền, có khả năng tham gia, thực hiện các giao dịch dân sự của nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, họ có thể tự mình xác lập, giao kết những giao dịch dân sự với tư cách là một chủ thể của giao dịch dân sự, tuy nhiên họ phải thỏa mãn được điều kiện đó là họ phải có khả năng kinh tế để đảm bảo thực hiện giao dịch và thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự mà họ thực hiện trong giới hạn, phạm vi pháp luật cho phép họ tham gia. Nhưng đối với những giao dịch có giá trị lớn liên quan đến vấn đề chuyển quyền sở hữu, như nhà ở, quyền sử dụng đất thì pháp luật buộc họ phải có sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ về việc có hay không được ký kết, tham gia giao dịch, vì xét về mặt pháp lý thì họ là những chủ thể có năng lực hành vi dân sự một phần. Căn cứ vào quy định của Bộ luật lao động Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2006 thì độ tuổi lao động là từ mười năm tuổi. Do đó họ đã có quyền tham gia vào các hợp đồng lao động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến vấn đề quan hệ lao động. Hơn nữa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004, thì người đủ 15 tuổi đã có năng lực hành vi tố tụng dân sự tuy còn hạn chế nhưng họ có thể tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, tham gia với tư cách nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trước Tòa án. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết thuộc về người chưa thành niên đó, chỉ khi người chưa thành niên có tài sản nhưng không đủ để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu, trong trường hợp này người chưa thành niên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn, còn cha mẹ, người giám hộ họ phải bồi thường phần còn thiếu, bên cạnh với tư cách là người đại diện cho người chưa thành niên họ còn có tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là người đã có năng lực hành vi dân sự nhưng do một số nguyên nhân nào đó dẫn đến việc họ bị mất năng lực hành vi dân sự ( có thể do họ bị tâm thần hoặc các bệnh khác mà bộ não phát triển không bình thường nên không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, chẳng hạn như những người thiểu năng trí tuệ, bệnh nhân thần kinh). Nhưng về nguyên tắc họ chỉ bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của cơ quan giám định và quan trọng nhất là có quyết định của Tòa án công nhận họ là người bi mất năng lực hành vi dân sự. Khi họ gây thiệt hại thì cha mẹ trước tiên là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay con mất năng lực hành vi gây ra. Nếu không còn cha mẹ thì người giám hộ sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của người được giám hộ, nếu tài sản của người được giám hộ không đủ để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm dung tài sản củ mình để bồi thường nốt phần còn thiếu, trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý chăm sóc thì họ không phải dung tài sản của mình để bồi thường và đó được coi như rủi ro mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ hoặc chồng, có con (đã thành niên, có năng lực hành vi dân sự) thì vợ con hoặc chồng đương nhiên là người giám hộ theo pháp luật của người bị mất năng lực hành vi dân sự và phải chịu trách nhiệm thay họ trước các quan hệ pháp luật mà họ tham gia, đồng thời phải bồi thường thiệt hại thay người bị mất năng lực hành vi dân sự theo nguyên tắc sử dụng tài sản riêng của người bị mất năng lực hành vi dân sự trước nếu tài sản đó không đủ để đền bù thì mới dùng đến tài sản chung của vợ hoặc chồng, hoặc tài sản chung của cả gia đình để bồi thường, nếu vẫn không đủ thì mới dùng tới tài sản riêng của người giám hộ khi chứng minh họ cũng có một phần lỗi trong việc chăm sóc, giáo dục, quản lý người được giám hộ.

4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý.

Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2005 quy định: “ Người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra”. Theo đó nhà trường quản lý học sinh trong thời gian theo học mà học sinh dưới mười năm tuổi gây thiệt hại ngoài hợp đồng thì nhà trường phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó nếu học sinh dưới mười năm tuổi gây thiệt hại trong thời gian thời gian thuộc nhà trường quản lý hoặc trong các hoạt động ngoại khóa, thăm quan, vui chơi, giải trí do nhà trường tổ chức thì nhà trường phải bồi thường. Cũng từ đó để xác định được đúng một cách triệt để trách nhiệm thuộc về ai trong trường hợp học sinh theo học tại trường mà gây thiệt hại ngoài hợp đồng thì pháp luật có quy định tại khoản 3 Điều 621 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 có quy định rằng nếu nhà trường chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý học sinh để họ gây ra thiệt hại thì mặc nhiên cha mẹ hoặc người giám hộ theo pháp luật của đối tượng này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong một số trường hợp thì khoảng thời gian ngoài giờ học tại trường hoặc thời gian từ trường về nhà hay từ nhà đến trường; khoảng thời gian trước hoặc sau buổi học ở trường sẽ là căn cứ chứng minh không có lỗi trong việc quản lý và trách nhiệm bồi thường của nhà trường. Đối với người mât năng lực hành vi đang được bệnh viện, tổ chức có nghĩa vụ quản lý mà theo yêu cầu của những người thân thích, bệnh viện hay tổ chức có trách nhiệm trực tiếp quản lý đã đồng ý cho người mất năng lực hành vi về thăm gia đình. Trong khoảng thời gian đó, người mất năng lực hành vi gây thiệt hại thì bệnh viện, tổ chức quản lý sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Hoặc trong trường hợp tòa án tuyên bố hủy quyết định tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự mà ngay tại thời điểm ấy, người đó trực tiếp gây thiệt hại thì họ tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình.

5. Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại.

a) Năng lực bồi thường của cá nhân là người của pháp nhân.

Điều 618 BLDS qui định: “ Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Pháp luật không thể tự mình thực hiện công việc được. Chính vì vậy, pháp nhân phải có những người nhân danh pháp nhân và thực hiện công việc cho pháp nhân. Trong nhiều trường hợp những người nhân danh pháp nhân gây thiệt hại khi đang thực hiện công việc cho pháp nhân. Trong trường hợp này, pháp nhân phải đứng ra bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu chứng minh được người thực hiện công việc cho pháp nhân mà có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì pháp nhân có quyền yêu cầu người đó hoàn trả một khoản tiền cho pháp nhân. Qua đó, đối với người của tổ chức mà gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ thì pháp nhân phải trực tiếp đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường.

b) Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.


Người bị hạn chế năng lực là người thuộc khoản 1 điều23BLDS, đó là người: “Người nghiện mà túy, nghiện các chất kích thích khác”. Khi có đơn yêu cầu thì tòa án ra quyết định những người này là những người  bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đối với những người bị hạn chế năng lực hành vi thì gây thiệt hại cho người khác cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi có quyết định của tòa án thì những người này từ người có đủ năng lực hành vi dân sự sẽ trở thành người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình trong những trường hợp nhất định. Hơn nữa, người bị mất năng lực hành vi dân sự còn vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của chính mình thì người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi gây ra thiệt hại.
c) Năng lực bồi thường của cá nhân là người đại diện của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức; người của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một trường hợp đặc biệt đó là khi cá nhân gây thiệt hại lại là cán bộ, công chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước. Theo qui định tại điều 619, điều 620 của BLDS, cán bộ công chức, người của cơ quan tiến hành tố tụng  gây thiệt hại do lỗi cố ý trong khi thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thì cơ quan của người đó sẽ chịu trách nhiệm bồi thường. Cán bộ công chức, người của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra thiệt hại sẽ có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ hoặc một phần khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.

III. Một số thực tế áp dụng luật và giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.

1. Một số thực tế khi áp dụng luật.

Hiện nay vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra đang là một vấn đề lớn của xã hội. Xung quanh việc xác định mức độ lỗi và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, bộ luật dân sự Việt Nam 2005 đã có nhiều qui định cụ thể về từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên trong nhiều trường hợp việc xác định mức độ lỗi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai lại là một vấn đề nan giải và tương đối khó khăn. Bởi thực tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều sai sót trong việc xác định lỗi và tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể. Chẳng hạn: Có quan điểm rằng chủ thể gây thiệt hại cho người khác là là người chưa thành niên, người chưa thành niên có lối trực tiếp thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhưng trách nhiệm bồi thường thiệt hại lại là của cha me, người giám hộ là người bồi thường thay cho người chưa thành niên với ý nghĩa “con dại cái mang”. Đối với trường hợp người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại trong thời gian người đó chịu sự quản lý của trường học. Có tòa án xác định trường học là bị đoen dân sự trong vụ án và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do học sinh của mình gây ra trong thời gian học tập, hoạt động tại trường còn cha mẹ của học sinh đó không được tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp và không phải chịu trách nhiệm bồi thường do con mình gây ra. Có tòa án lại xác định trường học và cha mẹ, người giám hộ học sinh đó sẽ là đồng bị đơn dân sự và liên đới bồi thường thiệt hại. Trường hợp người gây thiệt hại là cán bộ công chức, người của cơ quan tiến hành tố tụng, việc cá thể hóa trách nhiệm hoàn trả của cán bộ công chức có lỗi là rất khó khăn. Có vụ thì Nhà nước bồi thường, có vụ thì không; nhất là rất ít trường hợp buộc được cán bộ công chức có lỗi cố ý gây thiệt hại. Thực trạng này không sớm khắc phục sẽ làm suy giảm long tin của quần chúng nhân dân và tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, gây mất công bằng xã hội.

2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật.

- Về vấn đề lập pháp: cần rà soát các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trong các lĩnh vực khác nhau để tiến hành sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới nhằm đảm bảo tính thống nhất với các qui định mang tính nguyên tắc trong BLDS. Cụ thể:

+bổ sung những qui định để làm rõ yếu tố lỗi trong quản lý ( trong vấn đề người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý)

+bổ sung những văn bản hướng dẫn cụ thể giúp thẩm phán thuận lợi và thống nhất trong việc xác định lỗi của người giám hộ, tài sản của người chưa thành niên và xác định rõ tư cách bị đơn khi tham gia tố tụng.

+cần có văn bản quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc khác nhau cũng như cơ chế phối hợp giải quyết giữa các cấp cung liên đới chịu trách nhiệm bời thường thiệt hại, đặc biệt đối với trường hợp bồi thường thiệt hại do cán bộ công chức nhà nước, người của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.

- Về tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức của nhan dân, cụ thể là chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

+ Nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và của cán bộ cán bộ công chức nhà nước, người của cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng thông qua việc đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật. Nhằm giúp mọi người ý thức được trách nhiệm của mình đối với lợi ích chung của xã hội.

+ Các cấp, ban, ngành  nhất là các cơ quan cơ sở cần tuyên truyền, giáo dục cùng với gia đình thực hiện triệt để bộ luật dân sự; luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; luật hôn nhân và gia đình và quyết định của Chính Phủ, bộ Y tế về việc quản lý, điều trị người tâm thần đặc biệt quyền giám hộ theo qui định của pháp luật cần được thực hiện nghiêm chinh và triệt để hơn.

+ Trách nhiệm của cha mẹ, nhà trường cơ sở y tế trong việc giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng cần được nâng cao. Cha mẹ, nhà trường cần quan tâm hơn tới việc đổi mới tư duy về phương pháp giáo dục, quản lý, chăm sóc đối với cá nhân chưa thành niên dưới 18 tuổi để các em có một trí óc phát triển, có suy nghĩ chín chắn để có những lựa chọn đúng đắn, phù hợp với qui định của pháp luật để xã hội phát triển, công bằng và văn minh hơn.
KẾT LUẬN

Qua việc tìm hiểu về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân gây ra ta thấy: không phải bất cứ cá nhân nào khi gây thiệt hại cũng đều phải tự mình bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ thuộc về những người có đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và phải có khả năng thực tế để tiến hành để bồi thường thiệt hại xảy ra. Quy định về vấn đề này cũng cho ta thấy pháp luật luôn coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Tuy rằng đã quy định khá chặt chẽ về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc cần phải có hướng giải quyết trong thời gian tới. Đặc biệt khi đang có dự thảo sửa đổi BLDS 2005 để làm sao hoàn thiện hơn nữa vấn đề bồi thường thiệt hại nói chung và về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2. Trường đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân. Năm 2008.
2. Bộ luật dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. NXB lao động. Năm 2013.
3. http://www.doko.vn/luan-van/nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-ca-nhan-do-gay-thiet-hai-ngoai-hop-dong-mot-so-van-de-li-luan-va-thuc-tien-211071
4. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-ca-nhan-do-thiet-hai-ngoai-hop-dong-mot-so-van-de-va-thuc-39753/
5. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-cua-ca-nhan-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-hien-38875/
6. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-va-nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-ca-nhan-39017/
7.http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=18147#Dieu_606
8.http://www.moj.gov.vn/hoidappl/Lists/DanhSachCauHoi/View_Detail.aspx?ItemID=1740
9. Luận văn thạc sĩ luật học: “ Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên ”. Nguyễn Thị Hiền. Hà Nội – 2007.

No comments:

Post a Comment