12/08/2014
Tội xâm phạm sở hữu - Bài tập học kỳ Luật Hình sự 2
Đề bài: Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên đường, Thấy chị B đeo nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản giá trị 10 triệu đồng. Gần sang cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:

1. H và Q phạm tội cướp tài sản.
2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào đúng ý kiến nào sai và giải thích.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tội phạm là một trong những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, mỗi loại tội phạm đều có những dấu hiệu riêng của nó, để xác định thuộc loại tội phạm nào. Hiện nay tình trạng các tội xâm phạm sở hữu diễn ra càng nhiều và càng mưu mô thủ đoạn, vì vậy để hiểu về các tội xâm phạm sở hữu. Sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu một tinh huống về tội xâm phạm sở hữu.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1.H và Q phạm tội cướp tài sản.

Theo tình huống đề bài đưa ra có thể khẳng định hành vi của H và Q không phải là hành vi cấu thành tội cướp tài sản. Nên ý kiến này là sai vì: 

Xét các mặt sau:

Thứ nhất về chủ thể của tội phạm: 

Trong tình huống có thể thấy được H và Q là những người bình thường, đủ tuổi chịu TNHS, không mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình như (đi uống rượu, có ý định lấy tài sản của người khác biết là tài sản đó không thuộc sở hữu của mình). Vì thế có khả năng trở thành chủ thể của tội cướp tài sản. (Tuy nhiên đây không phải là dấu hiệu bắt buộc).

Thứ hai về mặt khách thể của tội phạm: 

Khách thể của tội phạm cướp tài sản là tội cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, khách thể xâm hại trước là quan hệ nhân thân qua đó xâm phạm đến quan hệ tài sản, nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không thể xâm hại đến quan hệ tài sản được. Nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ánh đầy đủ khách thể của tội cướp tài sản. Trong tình huống này khách thể mà H và Q trực tiếp xâm hại là tài sản sản của chị B. Như vậy có thể thấy H và Q chỉ xâm phạm tới một khách thể của tội cướp tài sản.

Thứ ba về mặt khách quan của tội phạm: 

Có các dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản đó là:

- Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của họ chống lại việc chiếm đoạt. Những hành vi không nhằm vào con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực. Vậy trong tình huống này thì H và Q lấy tài sản trên người chị B, không sử dụng hành vi dùng vũ lực đối với chị B, mà H và Q vẫn lấy được tài sản của chị B. Vì thế khẳng định H và Q không có hành vi dùng vũ lực.

- Hành vi dùng vũ lực đe dọa ngay tức khắc, đây là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng hành động (hay cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự việc chiếm đoạt. Tính ngay tức khắc thể hiện ở chỗ ngay tại thời điểm diễn ra vụ việc. Vũ lực, đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe dọa, cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị đe dọa nhằm ức hiếp họ. Tuy nhiên trong tình huống này thì H và Q không có hành vi đe dọa dùng vũ lực với chị B hoặc với người khác có quan hệ thân thuộc với chị B để thực hiện việc chiếm tài sản.

- Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được tuy không phải là vũ lực cũng như không phải là lời đe dọa nhưng có khả năng hành vi đó - khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Những hành vi này được coi là cùng tính chất như hành vi dùng vũ lực và hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Chúng đều có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự như: hành vi đầu độc, dùng thuốc gây mê. Vậy trong tình huống này chị B đang nằm trong tình trạng mê mệt do say rượu không phải do H và Q gây ra tình trạng đó mà tự chị B gây ra, vì thế không thể coi H và Q làm cho chị B lâm vào tình trạng không thể chống cự được. (đây là dấu hiệu bắt buộc).

Thứ tư về mặt chủ quan của tội phạm: 

Người phạm tội không chỉ có ý thức thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới phạm tội cướp tài sản. Lỗi ở đây phải là lỗi cố ý. Trong trường hợp này H và Q có ý thức thực hiện tội phạm nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, nhưng Việc chiếm đoạt tài sản của H và Q không được thể hiện bằng hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, hoặc có hành vi khác làm cho người làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được thì không cấu thành tội cướp tài sản tại Điều 133 BLHS.

Thứ năm về mặt Hậu quả của tội phạm: 

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt. Trong tình huống trên thì H và Q chỉ gây thiệt hại về tài sản của chị B là lấy đi số nữ trang bằng vàng trên người chị B trị giá 10 triệu đồng.

Kết luận: từ những phân tích trên khẳng định hành vi phạm tội của H và Q không cấu thành tội cướp tài sản. Vì không có một trong các hành vi khách quan thỏa mãn cấu thành tội phạm được nêu trong mặt khách quan của tội cướp tài sản (dấu hiệu bắt buộc) nên hành vi của H và Q không cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.

2.H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Từ tình huống đề bài đặt ra có thể thấy hành vi của H và Q không phải cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt  tài sản. Do đó ý kiến trên là sai vì: 

Xét các mặt sau:

Thứ nhất về chủ thể của tội phạm: 

Theo Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy Nếu H và Q thuộc trường hợp này thì không phải chịu TNHS về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản tại khoản 1 và khoản 2 Điều 137 BLHS. Nếu không H và Q phải chịu TNHS về hành vi phạm tội. Nhưng có thể thấy H và Q là người bình thường do có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, và đủ độ tuổi chịu TNHS như: (đi uống rược, thấy tài sản của chủ sở hữu bị sở hở có thể chiếm tài sản…), mà ở tình huống cũng không nêu lên một đặc điểm để H và Q không phải chịu TNHS, nên hoàn toàn có thể trở thành chủ thể phạm tội này.

Thứ hai về khách thể của tội phạm: 

Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Trong tình huống trên thì chúng ta thấy rằng H và Q chỉ chiếm đoạt tài sản của chị B, xâm phạm đến quan hệ tài sản, không có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm... của chị B.

Thứ ba về mặt khách quan của tội phạm: 

Dấu hiệu phản ánh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau:

- Hành vi chiếm đoạt có tính công khai, hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay khi hành vi đó xảy ra. Ý thức công khai của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt có ý nghĩa: người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt của mình có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che dấu hành vi đó. Xét trong tình huống H và Q thực hiện việc chiếm đoạt tài sản khi chị B trong tình trạng mê mệt vì say rượu, tại thời điểm này chị B không thể nhận biết được hành vi của H và Q đang thực hiện việc chiếm đoạt tài sản có trên người mình. 

Tính công khai với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được hiểu là công khai với chủ tài sản, nên hành vi của H và Q không có tính công khai với chị B.

- Ngoài ra hành vi công khai chiếm đoạt này phải xảy ra trong hoàn cành chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, bảo vệ tài sản của mình. Do vậy người phạm tội không cần và không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản. Như đã phân tích ở  trên thì H và Q không có hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của chị B, trong trường hợp này chị B không biết hành vi chiếm đoạt tài sản của H và Q và đang ngu vì mêt say rượu nên không có khả năng bảo vệ tài sản. Chị B không có khả năng bảo vệ tài sản vì lý do không biết, chứ không phải biết H và Q lấy tài sản mà không thể bảo vệ được. Nên theo tình huống dấu hiệu không có khả năng bảo vệ tài sản là không xảy ra. Vậy hai dấu hiệu bắt buộc của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Thứ tư về mặt chủ quan của tội phạm: 

Người phạm tội thực hiện do lỗi cố ý và mong muốn chiếm đoạt tài sản. Ở đây H và Q cố ý chiếm đoạt tài sản của chị B nhưng về mặt khách quan thì H và Q không có hành vi công khai và lợi dụng tình trạng chị B không có khả năng bảo vệ tài sản của mình. Nên không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản tại Điều 137 BLHS.

Thứ năm về hậu quả: 

Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị của tài sản chiếm đoạt. H và Q chiếm đoạt tài sản của chị B trị giá 10 triệu đồng nên thuộc khoản 1 Điều 137 BLHS. Tuy nhiên hậu quả không phải là dâu hiệu bắt buộc.  Nên khi hành vi của H và Q cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì dù H và Q chưa chiếm đoạt được tài sản thì vẫn phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Kết luận: Từ sự phân tích ở trên ta thấy H và Q không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137 BLHS vì không thỏa mãn dấu hiệu bắt buộc của tội công nhiên chiếm đoạt là có hành vi công khai và lợi dụng chủ tài sản không có khả năng bảo vệ tài sản của mình. Nên khẳng định H và Q không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137 BLHS.

3.H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

Theo tình huống đề bài đặt ra ta thấy hành vi của H và Q đủ cấu thành tội trộm cắp  tài sản. Nên ý kiến trên là đúng vì: 

Xét các mặt sau:

Thứ nhất về chủ thể của tội phạm: 

Trong trường hợp này nếu H và Q nằm trong quy định của khoản 1 và khoản 2 Điều 138 BLHS thì không phải chịu TNHS, vì Theo Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.  Tuy nhiên có thể thấy H và Q không thuộc trường hợp này, như đã phân tích ở ý trên, cho nên việc chịu TNHS là đúng theo quy định của pháp luật (Điều 12 BLHS).

Thứ hai về mặt khách thể của tội phạm: 

Khách thể của tội trộm cắp tài sản là xâm hại đến quan hệ sở hữu. Trong tình huống H và Q chỉ chiếm đoạt tài sản của chị B, xâm phạm đến quan hệ tài sản, không có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe... của chị B.

Thứ ba về mặt khách quan của tội phạm:

Dấu hiệu pháp lý mặt khách quan của hành vị trộm cắp tài sản đó là:

- Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai, hành vi đó nhằm không cho người khác biết. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó. Hành vi chiếm đoạt có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng lén lút. Hành vi chiếm đoạt tài sản của H và Q được coi là lén lút vì H và Q đã lợi dụng việc chị B đang trong tình trạng mê mệt vì say rượu không thể bảo quản được tài sản của mình, để cho chị B không biết được là H và Q đang có hành vi chiếm đoạt tài sản của mình, chỉ đến khi tỉnh dậy chị mới biết là tài sản trên người mình không còn chị mới biết là bị mất trộm. Ý thức chủ quan của H và Q là lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chị B, H và Q có ý thức che dấu hành vi đang thực hiện của mình.Việc che dấu hành vi phạm tội Của H và Q không chỉ đối với chủ tà sản là chị B mà H và Q còn có hành vi che dấu hành vi phạm tội của mình đối với hai người bạn của chị B. Ý thức lén lút, che dấu của H và Q là che dấu toàn bộ hành vi phạm tội đối với chủ tài sản. (đây là dấu hiệu bắt buộc)

- Tài sản trộm cắp là tài sản đang có chủ. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ.  Hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý cúng như hành vi lấy tài sản không hoặc chưa có chủ đều không phải là hành vi trộm cắp. Vậy trong trường hợp này tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của chị B có nghĩa là về mặt thực tế chị B có đày đủ quyền năng của một chủ tài sản đối với số tài sản đang có ở trên người. Việc H và Q có hành vi chiếm đoạt số tài sản trên người chị B làm chị B mất đi quyền chiếm hữu, sử dụng chứ không mất đi quyền sở hữu tài sản của mình. Do đó một khi tài sản đã được tìm thấy và được xác nhận là tài sản của chị B thì chị B có quyền nhận lại số tài sản đó.

Thứ tư mặt chủ quan của tội phạm: 

Tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý, và mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản, khi mục đích đó không cấu thành một tội độc lập.  Người phạm tội bao giời cũng có mục đích chước, trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này H và Q đã có mục đích trước khi có hành vi chiếm đoạt tài sản của chị B. Cụ thể là H và Q thấy chị B đang trong tình trạng say rượu không biết được những gì đang xảy ra đối với bản than mình, xung quanh mình, ngay lúc đó H và Q nảy sinh mục đích chiếm đoạt tài sản trên người chị B trước khi hành vi chiếm đoạt đó xảy ra.

Kết luận: Từ phân tích ở trên nhận thấy, hành vi phạm tội của H và Q thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản về mặt chủ thê, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm, quan trong nhất là hành vi đó thỏa mãn dấu hiệu bắt buộc của tội trộm cắp tài sản.  Nên khẳng định H và Q phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 BLHS.

KẾT LUẬN

Tội phạm xâm hại sở hữu cũng là một trong những hành vi gáy nguy hiểm cho xã hội cần được bảo vệ. Do vậy mỗi chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tránh gât thiệt hại cho người khác, và ngay cả bẩn thân mình, để có được một xã hội lành mạnh nhất.

No comments:

Post a Comment