03/05/2014
Bài tập học kỳ Xã hội học đại cương - Hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cho xã hội (9 điểm)
MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, tồn tại rất nhiều các loại quan hệ xã hội khác nhau. Và để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó, nhiều loại chuẩn mực xã hội khác nhau đã ra đời. Bao gồm chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị...Và nếu như mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức xã hội đều nghiêm chỉnh tuân thủ các quy tắc, yêu cầu của các loại chuẩn mực xã hội thì sẽ góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong thực tế xã hội không phải lúc nào các chuẩn mực xã hội cũng luôn được tôn trọng, tuân thủ ở mọi lúc mọi nơi mà thường xảy ra các hành vi sai lệch làm phá vỡ hiệu lực, tính ổn định. Vậy, đó là những hành vi nào, hậu quả của nó gây ra là gì? Để làm rõ hơn vấn đề này, trong phạm vi bài tập lớn học kì, em xin lựa chọn đề tài số 11: “Phân tích nội dung một số hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cho xã hội” để trình bày những tìm hiểu của mình về vấn đề trên.

NỘI DUNG

I. Một số khái niệm

1. Khái niệm chuẩn mực xã hội

Theo Tập bài giảng Xã hội học của Trường Đại học Luật Hà Nội: “Chuẩn mực đạo đức là tổng hợp các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỉ cương của xã hội.

Chuẩn mực xã hội thường được biểu hiện dưới hai hình thức: chuẩn mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã hội bất thành văn

Chuẩn mực xã hội thành văn là loại chuẩn mực xã hội mà các nguyên tắc, quy định của nó thường được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình thức khác nhau.

Trong chuẩn mực xã hội thành văn có ba loại cụ thể là chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị và chuẩn mực tôn giáo.

Chuẩn mực xã hội bất thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà các quy tắc, yêu cầu của nó thường không được ghi chép lại thành các văn bản; chúng chủ yếu tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của mình bằng con đường giáo dục truyền miệng và được củng cố, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

Có ba loại chuẩn mực xã hội bất thành văn cụ thể là chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mĩ.

2. Khái niệm sai lệch chuẩn mực xã hội

Khái niệm sai lệch chuẩn mực xã hội thường được hiểu ở hai góc độ sau:

- Sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội (hành vi sai lệch).

- Sai lệch chuẩn mực xã hội được hiểu là những tình huống, sự kiện cụ thể của cuộc sống đóng vai trò là những nhân tố phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực xã hội (tình huống sai lệch)

Ở đây, chúng ta quan tâm tới sự sai lệch chuẩn mực xã hội theo ý nghĩa thứ nhất– hành vi sai lệch.

Căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực xã hội bị xâm hại gồm có hành vi sai lệch tích cực và hành vi sai lệch tiêu cực.

- Hành vi sai lệch tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang phỏ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.

- Hành vi sai lệch tiêu cực là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội, đây những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội.

Như vậy, có thể thấy, hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cho xã hội đó là những hiện tượng, hành vi có tính chất chống đối xã hội và tạo ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội bao gồm: Hiện tượng nghiện hút ma túy, Hiện tượng say rượu, Hiện tượng hooligan, hiện tượng tự tử, và hiện tượng tha hóa về đạo đức...

II. Một số hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cho xã hội

Đó là những hiện tượng, hành vi có tính chất chống đối xã hội và tạo ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội, bao gồm:

1. Hiện tượng nghiện hút ma tuý

Đây là hiện tượng đang xuất hiện tràn lan trong đời sống xã hội, nó được coi là hiện tượng có tính sai lệch và tính nguy hiểm cho xã hội thuộc loại đứng đầu trong tất cả các hiện tượng sai lệch chuẩn mực xã hội.

Ma tuý là các chất hoá học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi thâm nhập vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi tâm trạng, ý thức, trí tuệ của con người, làm cho con người bị lệ thuộc vào các chất đó. Do vậy, việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản luật và chịu sự kiểm soát gắt gao của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Nghiện hút ma tuý là một căn bệnh xã hội nguy hiểm gây nên tác hại xã hội khôn lường, là một biểu hiện của hành vi sai lệch nghiêm trọng. Nghiện hút ma tuý là kết quả của một quá trình sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày một tang các chất gây nghiện hướng thần (gọi chung là ma tuý) nhằm thoả mãn trạng thái hung phấn cao độ. Kết quả của quá trình nghiện hút ma tuý là sự huỷ hoại dần sức khoẻ, tinh thần, nhân cách của cá nhân người nghiện. Hành vi nghiện hút ma tuý có mặt ở hầu khắp các lứa tuổi, đặc biệt, tỉ lệ nghiện hút ma tuý trong nhóm lứa tuổi thanh, thiếu niên là rất đáng lo ngại; có mặt trong các tầng lớp, thành phần xã hội từ nhóm học vấn thấp (đối tượng lang thang, cơ nhỡ) cho tới các nhóm có trình độ học vấn, vị thế xã hội cao hơn (sinh viên, diễn viên, viên chức…)

Tính chất nghiêm trọng của loại hành vi này còn thể hiện ở chỗ, nó là tác nhân trực tiếp hoặc gián tiếp phá huỷ sức khoẻ người nghiện (gây rối loạn thần kinh, hô hấp, tai biến…); huỷ hoại nhân cách con người (người nghiện thường thấy cuộc đời bế tắc, xử sự tiêu cực, bi quan, sống gấp, cổ vũ cho lối sống thực dụng…); phá vỡ hạnh phúc gia đình, khánh kiệt về kinh tế; tạo gánh nặng cho xã hội (xã hội chịu tốn kém tiền của để chạy chữa cho người nghiện, người nghiện sống bám vào xã hội); ảnh hưởng xấu tới trật tự an ninh xã hội (tai nạn giao thông, mại dâm, làm lan truyền HIV/AIDS). Nguy hại hơn, hành vi nghiện ma tuý thường là nguyên nhân làm phát sinh các hành vi phạm tội khác như: buôn lậu, trộm cắp, cờ bạc, cướp giật, giết người… Nhằm đấu tranh có hiệu quả với hành vi này, Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước ta đã từng coi hành vi nghiện hút ma tuý là một hành vi phạm tội: “Tội sử dụng trái phép chất ma tuý”, quy định tại điều 199, Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999. Tuy nhiên, gần đây, do sự thay đổi quan niệm, coi người nghiện ma tuý là nạn nhân của tệ nạn này, nên Nhà nước ta đã loại bỏ điều luật nói trên.

2. Hiện tượng say rượu

Hiện tượng say rượu là một trạng thái tinh thần bệnh hoạn, hình thành do kết quả của việc sử dụng quá nhiều trong một lần hoặc sử dụng mang tính hệ thống các đồ uống có cồn (rượu, bia); hậu quả là, nồng độ cồn cao làm cho người uống rơi vào trạng thái say, đánh mất trí nhớ và sự tỉnh táo .

Một mặt, người say rượu tạo ra hình ảnh bê tha, nhếch nhác, tự hạ thấp nhân cách, phẩm chất của chính mình (ví dụ: khi say, người ta thường nói ra những điều không hay rồi chửi bới tục tĩu, không biết kiêng nể điều gì); ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động lao động, sản xuất, tốn kém về tiền bạc (khi say rượu, người ta chỉ nghĩ đến rượu, nghĩ đến những việc không đâu, tiêu tốn thời gian vào những việc vô ích mà quên đi nghĩa vụ lao động, sản xuất tạo của cải phục vụ bản thân và gia đình).

Mặt khác, trạng thái say rượu làm cho người say mất đi năng lực tự kiềm chế, điều chỉnh, kiểm soát hành vi của hành vi, dễ bị kích động. Không sai khi người ta thường nói, khi say rượu, hành vi được tiến hành không phải do con người mà là do rượu thực hiện. Say rượu thường xuyên là nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn giao thông thảm khốc, bạo lực gia đình, ảnh hưởng đến an ninh trật tự khu phố, lối xóm… Trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mất lý trí do say rượu, người say rượu có thể gây ra các hành vi tội ác như: giết người, cố ý gây thương tích… 

Người phạm tội do say rượu thì không được miễn trách nhiệm hình sự (theo điều 14, Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999). Để giảm thiểu những tác  hại mà nạn say rượu có thể gây ra, nhà nước và các cộng đồng xã hội khuyến cáo và áp dụng nhiều biện pháp ngăn ngừa; tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp này phụ thuộc chủ yếu vào sự nhận thức và tự giác chấp hành của mỗi cá nhân.

3. Hiện tượng Hooligan

Hiện tượng hooligan là biểu hiện của những hành vi sai lệch có tính hung hãn, côn đồ, quậy phá, ẩu đả, chống đối xã hội; thường do những kẻ lưu manh, những người quá khích thực hiện, đôi khi mang tính tổ chức trong việc thực hiện hành vi.

Đây là một hiện tượng xã hội phức tạp, rất nguy hiểm, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, sợ hãi cho những người dân lương thiện. Hiện tượng hooligan thường xảy ra trong các lĩnh vực thể thao, kinh doanh, quy hoạch, xây dựng, trong lĩnh vực an toàn, trật tự công cộng. Trong đa số các trường hợp, hiện tượng này xâm hại, nhiều khi nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản… của công dân; cản trở cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. 

Do tính nguy hiểm cho xã hội của tượng này rất cao, nên nhiều hành vi thuộc hiện tượng hooligan đã bị luật hình sự quy định là tội phạm, như “tội tổ chức đua xe trái phép” (Điều 206 BLHS 1999), “tội đua xe trái phép” (Điều 207 BLHS 1999), “tội gây rối trật tự công cộng” (Điều 245 BLHS 1999), “tội chống người thi hành công vụ” (Điều 257 BLHS 1999)…

4.Hiện tượng tự tử

Tự tử là hành vi sai lệch (tự tử và các mưu toan tự tử từng được coi là tội phạm ở nước Anh mãi tới năm 1961) bộc lộ rõ nét nhất thái độ tiêu cực của cá nhân thông qua việc tự loại bỏ cuộc sống của mình bằng cách tìm đến với cái chết. Sự tự nguyện chọn lựa cái chết ở ai đó, bên cạnh nguyên nhân chủ quan, còn có những nguyên nhân xã hội của nó và chịu ảnh hưởng của những yếu tố nhất định như sự nghèo khổ, nạn thất nghiệp, trốn tránh trách nhiệm nào đó, tình trạng goá bụa, thất tình, khủng hoảng tinh thần, sự ám ảnh về một tội ác đã phạm phải, đánh mất niềm tin vào cuộc sống, tin những điều mê tín dị đoan, nhảm nhí, không có cơ sở khoa học…

Tự tử không chỉ đơn thuần là việc cá nhân tự loại bỏ mạng sóng của chính mình. Bên cạnh những tổn thất, mất mát đối với gia đình (mất đi người thân), hành vi tự tử của một người có thể để lại những hậu quả xã hội to lớn. Chẳng hạn, món nợ ngân hàng gồm nhiều tỷ đồng mà người tự tử để lại; hiệu ứng dây chuyền dẫn đến các hành vi tự tử của người khác… Trong mọi trường hợp, tự tử là hành vi sai lệch cần được ngăn chặn, phòng chống.

Tự tử là hiện tượng thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu của nhiều nhà xã hội học, trong đó, nổi tiếng nhất là nhà xã hôji học người Pháp E. Durkheim (1858-1917). Vấn đề tự tử được ông trình bày trong tác phẩm “Tự tử” xuất bản lần đầu tiên năm 1897 cho đến nay nó vẫn được coi là công trình khảo sát xã hội học kiểu mẫu, có rất ít hoặc không có những công trình sau này có thể so sánh được với nó. Theo định nghĩa của Durkheim, tự tử là mọi trường hợp chết như kết quả trực tiếp hay gián tiếp từ một hành động tích cực hay tiêu cực do bản thân nạn nhân thực hiện và biết sẽ gây ra hậu quả này. Một trường hợp tích cực có thể là treo cổ mình chẳng hạn. Một hành động tiêu cực có thể là viên phi công cùng chết với chiếc máy bay đang chở theo hàng trăm du khách.

Durkheim đưa ra kết luận rằng, tỷ lệ tự tử biến đổi giữa các xã hội và biến đổi giữa các nhóm khác nhau trong cùng một xã hội. Có tình hình đó là do “mức độ thống nhất của các nhóm xã hội mà các nhân là một bộ phận”. Đựa vào đây, ông chia hành vi tự tử thành ba loại cơ bản: tự tử vì ích ký, tự tự vị tha và tự tử vô tổ chức.

Tự tử vì ích kỷ thường xảy ra nhất, là kết quả của “chủ nghĩa cá nhân thái quá” trong số những người ít chịu sự ràng buộc xã hội, nghĩa là khi các cá nhân trở lên tách rời khỏi các giá trị xã hội và các mong đợi được chia sẻ bởi những người xung quanh họ. Nói cách khác, một mức độ thống nhất thấp làm tỷ lệ tự tử tang cao và ngược lại . Chẳng hạn, người độc thân, goá bụa, ly hôn dễ tự tử hơn những người có vợ chồng; hoặc vào thời buổi đất nước có chiến tranh, sự thống nhất dân tộc cao hơn, ý thức cộng đồng dân tộc mạnh hơn là cái liên kết dân chúng khiến các cá nhân “miễn dịch” trước sự tự tử.

Tự tử vị tha xảy ra khi các cá nhân hoàn toàn bị ngập vào trong nhóm xã hội của họ, bị liên kết cao độ khiến cho cá nhân có rất ít hoặc không có giá trị. Chẳng hạn, người đàn bà goá Ấn Độ nhảy vào giàn hoả thiêu của chồng để chết bởi vì trong nhóm xã hội đang trông đợi bà ta làm như vậy, nghĩa là bà ta đang tuân theo mong muốn của nhóm xã hội mà không đếm xỉa gì tới việc giữ mạng sống của mình.

Tự tử vô tổ chức xảy ra khi tồn tại một tình thế “vô tổ chức” khiến các thành viên xã hội mất đi cái trật tự tiêu chuẩn mà dựa vào đó, hành vi và những mong đợi của họ được điều chỉnh. Khi trật tự xã hội bị xáo trộn, rối loạn, xảy ra sự đổ vỡ về kinh tế… thì xảy ra sự gia tang số vụ tự tử vô tổ chức. Chẳng hạn, khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới khiến một sô  người “trắng tay” và tìm đến cái chết.

5. Hiện tượng tha hoá về đạo đức

Tha hoá là khái niệm nói lên quá trình trong đó những sản phẩm do con người tạo ra (sản phẩm lao động, đồng tiền, các quan hệ xã hội…) cũng như những thuộc tính hoặc năng lực nào đó của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định, lại biến thành những thứ độc lập với con người và chi phối lại con người. Tha hoá còn chỉ những hiện tượng, những quan hệ xã hội biến thành cái khác với bản thân chúng, trở thành cái thông trị con người, trở thành mục đích sống của con người. Tha hoá về quyền lực cũng vậy, nó là phương tiện để tổ chức đời sống của một số người hoặc đang nắm nó trong tay, hoặc đang muốn chiếm đoạt nó vào tay mình.

Tha hoá về đạo đức là một trong những biểu hiện của sự tha hoá nói chung, chỉ sự thoái hoá về phẩm chất và đạo đức con người. Nó là biểu hiện của những hành vi xấu, tiêu cực, phản ánh mặt trái của cơ chế thị trường. Hiện tượng tha hoá về đạo đức thường tập trung ở một số thành phần xã hội, bao gồm những người có quan niệm sai lệch, thái độ lệch lạc, hành vi xem nhẹ, coi thường các giá trị truyền thống đạo lý, do đó, tự đánh mất lương tâm, danh dự và nhân phẩm của mình; buông thả mình theo lối sống phóng túng, truỵ lạc và thực dụng, đề cao sức mạnh của vật chất – tiền bạc. Từ chỗ lao động kiếm tiền chân chính để đồng tiền phục vụ nhu cầu cuộc sống chính đáng của mình, người ta quay lại tôn vinh sức mạnh vật chất, trở thành nô lệ của đồng tiền.

Điều nguy hiểm của hiện tượng này là ở chỗ, khoảng cách giữa hành vi tha hoá về đạo đức và hành vi phạm tội chỉ gần nhau trong gang tấc. Để thoả mãn các nhu cầu bất chính, phi pháp của bản thân, một số người có thể hoặc sẵn ssàng tham gia vào các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm; dính líu vào các hành vi phạm tội như trộm cắp, cờ bạc, tham ô tài sản, nhận hối lộ… Đây lại là những loại tội phạm có tính ẩn dấu cao.

III. Một số biện pháp phòng chống các hành vi sai lệch

1. Biện pháp tiếp cận thông tin

Hoạt động trao đổi, tiếp nhận và xử lý thông tin trong cuộc sống hàng ngà có tac dụng rất lớn trong việc nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết của con người, trong chừng mực nhất định học biết được những việc nên làm, điều nên tránh trong hành vi của mình. Biện pháp tiếp cận thông tin hướng tới việc cung cấp, trang bị, hướng dẫn, giải đáp các thông tin về chuẩn mực xã hội nói chung và pháp luật nói riêng thông qua một số hoạt động:

- Tiến hành các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích về nội dung và tính chất của các chuẩn mực đó hoặc các văn bản pháp luật có liên quan.

- Đối với những người có ý thức chưa cao, nhận thức còn lệch lạc, cần định hướng họ theo cái đúng, để họ hiểu và tuân thủ các chuẩn mực xã hội, chấp hành các nguyên tắc, quy định của pháp luật hình sự.

- Cung cấp thông tin cần thiết về các chuẩn mực xã hội cũng như những quy phạm pháp luật hình sự nhằm ngăn chặn các hành vi sai lệch và tội phạm.

- Nâng cao uy tín của hệ thống pháp luật đang tham gia điều chỉnhcác quan hệ trong xã hội.

- Cảnh giác và đấu tranh với các thông tin sai lệch, những luận điệu, tuyên truyền trái sự thật về chuẩn mực đạo đức.

2. Biện pháp phòng ngừa xã hội

Phòng ngừa xã hội là theo đuổi mục đích phát hiện, xoá bỏ, vô hiệu hoá các nguyên nhan, điều kiện làm phát sinh hiện tương tội phạm và các hành vi sai lệch. Nó là tổng thể các biện pháp xã hội như tác động về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lí, giáo dục, văn hoá, pháp luật… mà nhà nước và xã hội áp dụng nhằm loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch; góp phần định hướng để hình thành những hành vi cư xử hợp pháp, hợp đạo đức của công dân.

Đây là biện pháp rất quan trọng, được áp dụng rộng rãi mà mang tính hiệu quả cao. Vì thế, nó thường được đặt lên vị trí hàng đầu trong số các biện pháp được áp dụng.

3. Biện pháp áp dụng hình phạt

Áp dụng hình phạt là phương thức pháp lý hình sự trong đấu tranh phòng chống các hành vi sai lệch chuẩn mực  pháp luật hình sự, tức là các hành vi phạm tội cụ thể. Nó được áp dụng đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái với pháp luật hình sự, có lỗi, và do đó, bị đe doạ phải chịu một hình phạt  với tư cách là biện pháp cưỡng chế mà nhà nước áp dụng có tính mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị kẻ phạm tội.

Đây là một biện pháp được đánh giá cao vì nó không chỉ có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội, cải tạo, cảm hoá họ trở lại con đường lương thiện, mà còn có ý nghĩa giáo dục, răn đe, tác động tới những người khác, khiến cho họ phải từ bỏ những ý định phạm tội. 

4. Biện pháp tiếp cận y – sinh học

Biện pháp này thường do các nhân viên cơ quan ngiệp vụ như y tế, điều tra, giám định, chuyên gia tâm thần học… thực hiện đối với những người có hành vi sai lệch. Mục đích của nó là nhằm tìm hiểu những khuyết tật về thể chất (mù, câm, điếc…), trí lực (mắc các bệnh hoang tưởng, tâm thần hoặc những trạng thái say rượu, nghiện ma tuý)… khiến họ mất đi khả năng tự kiềm chế, kiểm soát hành vi bản thân, do đó bị mất năng lực chịu trách nhiệm hành vi.

Biện pháp tiếp cận y – sinh học có ý nghĩa rất quan trọng, nó góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật và hành vi phạm tội, giải thích cơ chế tâm lý của những hành vi đó. Từ đó, góp phần nâng cao  hiệu quả của hoạt động xét xử, tránh xử oan cho những người vô tội, người được miễn trách nhiệm hình sự, cũng như không để lọt lưới kẻ phạm tội, đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.

5. Biện pháp tiếp cận tổng hợp

Đối với biện pháp này, cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau:

- Cần nhận thức rõ ràng rằng, công tác phòng chống hiện tượng sai lệch và hiện tượng tội phạm không chỉ là trách nhiệm của riêng cá nhân hay cơ quan nào mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. 

- Củng cố các nguyên tắc đạo đức gắn liền với sự tôn trọng của những người có chức, có quyền khi giải quyết công việc của công dân, có thái độ trận trọng đúng mực đối với các nhu cầu, đòi hỏi chính đáng của người dân.

- Giáo dục các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống, xây dựng và phổ biến lối sống lành mạnh, tiến bộ cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

- Đề cao nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cơ sở sự công bằng, dân chủ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

- Mở rộng các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh cho các tầng lớp nhân dân nói chung và tầng lớp thanh niên nói riêng. Đồng thời, nâng cao chất lượng các sinh hoạt văn hoá – nghệ thuât, thể dục, thể thao, tạo ra môi trường xã hội - pháp lí lành mạnh.

- Cải tiến công tác giáo dục pháp luật, mở rộng công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật trong hệ thống nhà trường phổ thông trung học và bậc đại học.

- Các cơ quan công an, toà án, viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ đúng vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ.

- Công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về những kết quả, biện pháp đấu tranh phòng chống các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội và hành vi phạm tội để các tầng lớp nhân dân được biết và thêm tin tưởng vào hiệu lực của bộ máy nhà nước.

- Trong điều kiện ngày nay, công tác đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm cần được mở rộng hơn nữa nhờ sư hợp tác trên phạm vi quốc tế.

KẾT LUẬN

Có thể thấy, trong giai đoạn nền kinh tế mở như hiện nay, các hành vi sai lệch sai lệch chuẩn mực xã hội ngày càng diễn biến phức tạp và gây nguy hiểm cao cho xã hội. Nhận thức và đề ra các biện pháp phòng chống là việc làm vô cùng cần thiết của mỗi cá nhân, tổ chức để hướng tới một xã hội văn minh, hạn chế tối thiểu các hành vi sai lệch và tội phạm.

Trên đây là những phân tích, đánh giá của em về đề tài “Phân tích nội dung một số hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cho xã hội” . Vì kinh nghiệm còn thiếu, tầm hiểu biết còn hạn hẹp mà phạm vi đề tài lại khá rộng nên trong bài làm của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót, sai lầm, rất mong thầy cô đóng góp ý kiến để bài làm của em được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Xã hội học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2010.

2. TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật , NXB Tư pháp, Hà Nội, 2010.

Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Phạm Văn Ngọc đã chia sẻ tài liệu ^^~

No comments:

Post a Comment