CHƯƠNG XX
NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶT TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do miền Nam chưa được hoàn toàn giải phóng nên nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để thống nhất đất nước đồng thời chuyển dần sang thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Năm 1975 miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện trên phạm vi cả nước.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như V.I. Lenin đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang đầy đủ những yếu tố của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, vừa mang những đặc trưng riêng nhất định gắn liền với điều kiện đất nước và con người Việt Nam. Cụ thể là:
Cơ sở kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quan hệ sản xuất được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Ở Việt Nam hiện nay đang thực hiện chính sách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, cùng các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, trong đó kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhân dân lao động Việt Nam mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Với cơ sở kinh tế và xã hội như trên, bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam và Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) đã khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là như cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình xây dựng và phát triển đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình đó còn được thúc đẩy bởi các yêu cầu và xu thế như xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chống lại các hiện tượng độc đoán, chuyên quyền trong xã hội, đặc biệt là trong bộ mát nhà nước; dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội; bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích của công dân, thực hiện công bằng xã hội; thích ứng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế; bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước,…
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam vừa bảo đảm tuân thủ những nguyên tắc, giá trị có tính phổ biết được thừa nhận chung trong tất cả các nhà nước pháp quyền vừa có sự vận dụng sáng tạo những nguyên lí của nhà nước pháp quyền vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giữ vững định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của đất nước. Vì vậy, những giá trị của học thuyết nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở các nước khác đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn lịch sử và hiện tại của đất nước. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trên cơ sở tiếp tục kiên định các nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước, về hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, và đảm nguyên tắc tập trung-dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước… Xuất phát từ tất cả những điều kiện trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng với những đặc điểm cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc đề cao chủ quyền nhân dân, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước do nhân dân quyết định. Nhà nước coi con người là giá trị cao nhất trong xã hội, luôn phấn đấu vì hạnh phúc của con người theo tinh thần “tất cả cho con người, tất cả vì con người”;
- Quyền lực nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, thể hiện vai trò của một nhà nước “phục vụ”, đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước và xã hội. Nhà nước Việt Nam phấn đấu thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng gắn với một xã hội công dân, xã hội dân sự. Do vậy, dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc vừa là mục tiêu vừa là động lực để Nhà nước và xã hội phấn đấu vươn tới;
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế. Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Nhà nước tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công dân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa kể từ khi ra đời đến nay luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Những đặc điểm nêu trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được xem như là những mục tiêu hành động mà đất nước Việt Nam đã và đang hướng tới để thực hiện.
2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy:
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, nghĩa là tất cả quyền lực nhà nước ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đông nhân dân cá cấp. Các cơ quan nahf nước ở Việt Nam nhận quyền lực nhà nước từ nhân dân thông qua con đường bầu cử.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do nhân dân, nghĩa là Nhà nước Việt Nam là do giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và những người lao động khác tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị, nói cách khác, nhân dân Việt Nam tổ chức thành nhà nước. Cụ thể là Quốc hội và hội đồng nhân dân ở Việt Nam là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, Nhân dân không chỉ lập ra các cơ quan nhà nước mà còn có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan đó để trực tiếp nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước vì nhân dân, nghĩa là tất cả mọi chính sách, pháp luật, hoạt động của nhà nước, mọi cố gắng của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân Việt Nam. Chỉ khi nhà nước của nhân dân, do nhân dân thì nó sẽ vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viê chức nhà nước luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức tận tụy phục vụ nhân dân.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giai cáp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo. Nhà nước thực hiện sự chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền là toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật. Chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân, chúng ta mở rộng dân chủ đối với nhân dân đồng thời phải chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, bởi chỉ có như vậy mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng lớn
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ là tổ chức chính trị của nhân dân Việt Nam mà còn là tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội… đã và đang trực tiếp tổ chức và thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân, sự nghiệp văn hóa, hệ thống giáo dục quốc dân, nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lí sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân, sự nghiệp thể dục, thể thao, du lịch… của đất nước nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng ngày càng nhiều hơn, tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Có thể nói rằng nếu dân đói thì Đảng, Chính phủ có lỗi và nếu dân rét thì Đảng, Chính phủ cũng có lỗi. Trên thực tế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột và bất công, làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
4. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ, một công cụ thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chủ trương xây dựng một nhà nước cộng hòa dân chủ, bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu điều kiện tự do của mỗi người là diều kiện tự do cho tất cả mọi người, làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, mọi chính sách và pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia ý kiến của nhân dân, đều vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước tạo mọi điều kiện để nhân dân tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, thực hiện dân chủ hóa trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, tư tưởng. Bộ máy nhà nước Việt Nam luôn được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền tự quyết của các dân tộc, từng bước tiến tới nền dân chủ thực sự theo tinh thần:’dân biết, dân bàn, dân làm, dân điều tra”.
5. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam, một nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, biểu hiện tập trung khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam bình đẳng về mọi phương diện. Trên đất nước Việt Nam có 54 dân tộc cùng sinh sống đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, Nhà nước Việt Nam đại diện cho ý chí và nguyện vọng của tất cả các dân tộc Việt Nam. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Trong cuộc sống các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách công bằng trong phát triển, tạo điều kiện để tất cả các dân tộc cùng tham gia quản lí nhà nước và xã hội, cùng phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc ít người.
6. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Nhà nước Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển với xuất phát điểm thấp nên cho đến nay mặc dù đã hơn nữa thế kỉ xây dựng xã hội chủ nghĩa nhưng Việt Nam vẫn đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội – thời kì vừa có chủ nghĩa xã hội vừa chưa có chủ nghĩa xã hội, thời kì cái cũ đang mất đi nhưng chưa mất hẳn, cái mới đã ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang vượt qua rất nhiều thử thách, khó khăn để không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuy nhiên, thời kì tập trung bao cấp ở Việt Nam được duy trì quá lâu, hiện tượng chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến đã đề ra các chỉ tiêu quá cao so với khả năng thực tế của đất nước, các chính sách chậm thay dổi nên sự phát triển đất nước bị kìm hãm, nhiều tiềm năng bị mai một, không phát huy được.Vì vậy, vào cuooisn hững năm 80 của thế kỉ XX Việt Nam buộc phải đổi mới toàn diện, căn bản những quan niệm về chủ nghĩa xã hội nhưng không thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà chỉ là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp hơn để những lí tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Trong quá trình đó, Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chuyển từ nền kinh tế ít thành phần, khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế mở, chủ động mở cửa và hội nhập quốc tế, hướng mạnh xuất khẩu; từ nền kinh tế sản xuất để cấp, phát theo định lượng sang kinh tế sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người; quan tâm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm lo sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, y tế và văn hóa; từng bước đổi mới chính trị với trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội…
II. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế
Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch và chính sách. Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong hoạt động quản lí kinh tế nhà nước không can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh tế mà thực hiện việc quản lí vĩ mô, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Mục đích chính sach kinh tế của Nhà nước Việt Nam là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, “khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệ quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh lực lượng sản xuất, đi đôi với việc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện tốt chức năng tổ chứng, quản lí kinh tế đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, đặc biệt là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tsc động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoạc cán thiệp không đúng, làm sai lệch các quan hệ thị trường. Từng bước tổ chức, sắp xếp nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, hình thành hoàn chỉnh, đồng bộ các yếu tổ của nền kinh tế thị trường. Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa tiền tệ, sử dụng kết hợp nhiều phương pháp quản lí trong đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kĩ thuật để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế, các chủ thể kinh doanh. Không ngừng xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về kinh tế. Tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chuẩn bị các điều kiện vật chất và thể chế cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai.
2. Chức năng quản lí văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo của Nhà nước Việt Nam là xây dựng nền văn hóa mới, con người mới và lối sống mới để nhân dân lao động trở thành người sáng tạo, người chủ và người hưởng thụ mọi giá trị văn hóa tinh thần của nhân loại. Nhà nước bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nhà nước thống nhất sự nghiệp văn hóa, hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất vằ năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hòa dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia, xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các ngành khoa học. Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách phù hợp để phát triển và quản lí cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và công nghệ. Trong đó có việc đào tạo cán bộ khoa học, kiện toàn hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ, sắp xếp và bố trí cán bộ khoa học và công nghệ một cách hợp lí theo hướng gắn khoa học và công nghệ với giáo dục đào tạo, gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn, đầu tư về cơ sở vật chất, kĩ thuật, trong đó chú trọng tới chính sách ưu đãi nhân tài, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo lập thị trường cho các hoạt động khoa học và công nghệ, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về hoa học và công nghệ…
Nhà nước Việt Nam còn quan tâm đến việc quản lí sự nghiệp vảo vệ sức khỏe của nhân dân, phát triển nền giáo dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân, quản lí và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội của đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của đất nước luôn đi cùng với việc thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, thực hiện bảo vệ môi trường và cải thiện môi trường.
3. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích công dân
Hoạt động bảo vệ trật tự pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau luôn được Nhà nước Việt Nam quan tâm, nhà nước không chỉ ban hành hệ thống pháp luật hoàn thiện mà còn có nhiều biện pháp để bảo đảm cho nó được thực hiện nghiêm minh làm cho các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn vận động phát triển có trật tự. Các quyền tự do, dân chủ, các lợi ích hợp pháp, tính mạng, tài sản của công dân được nhà nước bảo vệ bằng các biện pháp hành chính và cả biện pháp tư pháp ngày một có hiệu quả. Nhà nước xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại để đấu tranh, phòng và chống các loại tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tuy vậy, do ý thức háp luật của nhân dân chưa cao, nhiều hoạt động còn được tiến hành theo thói quen nên trật tự phát triển xã hội trong một số lĩnh vực như giao thông, buôn bán, xây dựng chưa thật tốt. Một số cơ quan, cán bộ công chức nhà nước thiếu trách nhiệm nên một số quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân được bảo vệ còn nhiều hạn chế.
4. Chức năng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một nước luôn bị các thế lực đế quốc và phản động tìm cách phá hoại, xâm lược, nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Trước những nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến việc bảo vệ đất nước, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo trong mọi tình huống. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế-xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng các lực lượng quốc phòng toàn dân tuyệt đối trung thành, chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưa xâm lược, phá hoại của các thế lực phản động, thù địch.
5. Chức năng mở rộng hợp tác nhiều mặt và quan hệ nữu nghị với các nước khác
Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình, luôn thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, Việt Nam luôn mở rộng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt, hữu nghị với các nước, các dân tộc khác và cá tổ chức quốc tế để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước vì hòa bình, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nếu trước đây Việt Nam chú trọng nhiều hơn đến các nước có cùng chế độ xã hội thì ngày nay Việt Nam đã thực hiện chủ trương hợp tác với tất cả các nước, nhất là các nước trong khu vực.
Nhà nước Việt Nam đã chủ động hội nhập, tham gia kí kết nhiều hiệp định song phương và đa phương phát triển các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế để giải quyết cá vấn đề kinh tế- xã hội có tính chất toàn cầu trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Chủ trương của Việt Nam trong những năm tới là thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cườn hợp tác quốc tế, đặc biệt là hợp tác kinh tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài đê phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả, góp phần phát triển nhan, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế. Phát huy vài trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.
III. HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Hình thức chính thể
Chính thể của Nhà nước Việt Nam hiện nay là cộng hòa xã hội chủ nghĩa theo mô hình dân chủ nghĩa theo mô hình dân chủ nhân dân. Điều này được thể hiện thông qua các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, theo đó, quyền lực tối cao của Nhà nước Việt Nam được trao cho Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi miễn Chủ tịch nước; Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Với những quy định trên cho thấy hình thức chính thể của Việt Nam là cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa và có nhiều nét tương đồng với cộng hòa xây chủ xã hội chủ nghĩa và có nhiều nét tương đồng với cộng hòa đại nghị, tuy nhiên, không giống như các nước cộng hòa đại nghị tư sản. Ở Việt Nam, Chủ tịch nước không có quyền giải tán Quốc hội trước thời hạn, còn Quốc hội chỉ bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, không tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội theo chế độ đảng phái.
Nếu xét trong các mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa thì về chính thể Việt Nam thuộc mô hình dân chủ nhân dân. Trong nước có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
2. Hình thức cấu trúc nhà nước
Việt Nam là nhà nước đơn giản nhất, trong đất nước chỉ tồn tại một chế độ công dân, một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội), một cơ quan quản lí nhà nước cao nhất (Chính phủ). Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân chia như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; Thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; Quận chia thành phường. Tại các đơn vị hành chính nói trên pháp luật sẽ quy định vệc thành lập hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân là các cơ quan ở địa phương chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và các cơ quan nhà nước cấp trên.
3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị ở Việt Nam là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước sử dụng nhiều biện pháp, cách thức dân chủ trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước như: tổ chức bầu cử các cơ quan nhà nước (Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp); Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; công dân được tạo điều kiện để tham gia quản lí nhà nước và xã hội; các cơ quan nhà nước quyết định các vấn đề theo nguyên tắc đa số; Nhà nước tiến hành công khai, minh bạch nhiều chính sách, quyết định quan trọng để các tổ chức, cá nhân góp ý, phản biện…
IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cũng như bộ máy các nhà nước khác, bộ máy Nhà nước khác, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tạo nên bởi hệ thống các cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn khác nhau từ trung ương đến cơ sở, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển và hoàn thiện, hiện nay bộ máy nhà nước Việt Nam được cấu thành từ các cơ quan sau: Cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm tra, ngoài ra, cò có Chủ tịch nước.
1.1. Các cơ quan quyền lực nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước ở Việt Nam là những cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Các cơ quan này gồm có Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
a. Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cử tri cả nước bầu ra. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhàn ước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với bộ hoạt động của Nhà nước.
b. Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình và xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, của nhân dân địa phương quyết định những chủ trương và giải pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an inh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
1.2. Các cơ quan quản lí nhà nước
Các cơ quan quản lí nhà nươc còn được gọi là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước thực hiện việc quản lí mọi mặt hoạt động của quốc gia. Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước gồm có: Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp.
a. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Chính phủ thống nhất quản lí việt thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm việt tôn trọng và chấp hành hiến pháp, pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất văn hóa của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ gồm có Thủ tướng, các phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ là các cơ quan quản lí nhàn nước cấp trung ương, thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng và các thành viên khác của CHính phủ chịu trách nhiệm quản lí nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doang của các cơ sở theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
b. Ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện sự quản lí thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương. Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân. Các ủy ban nhân dân được tổ chức theo ba cấp: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, quận, thị xã trực thuộc tỉnh và cấp xã, phường, thị trấn.
Các sở, phòng, ban chức năng của ủy ban nhân dân là các cơ quan thực hiện chức năng quản lí chuyên môn trong phạm vi địa phương. Các cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc hai chiều phụ thuoojc là ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quản lí chuyên ngành cấp trên.
1.3. Các cơ quan xét xử
Hệ thống các cơ quan xét xử gồm các tòa án được thành lập để nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng xét xử. Các cơ quan xét xử gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các toà án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể thành lập tòa án đặc biệt.
a. Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao còn có nhiệm vụ hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các tòa án. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của tòa án đặc biệt và các tòa án khác, trừ trường hợp có quy định khác khi thành lập các tòa án đó.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đồng thời là cơ quan hướng dẫn công tác xét xử của tòa án các cấp.
b. Tòa án nhân dân địa phương
Tòa án nhân dân địa phương ở Việt Nam bao gồm tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân cấp huyện.
c. Tòa án quân sự các câp
Tòa án quân sự các cấp có thẩm quyền xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian huấn luyện tập trung hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ quan sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lí, thường dân phạm tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân đội.
1.4. Các cơ quan kiểm sát
Hệ thống cơ quan kiểm sát của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức để thực hiện quyền công tố và để kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Hệ thống viện kiểm sát ở Việt Nam được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện kiểm sát, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của các viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo các công tsc trước hội đồng nhân dân và trả lời các chất vấn của đại biểu hội đồng nhân dân. Hệ thống cơ quan kiểm gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân địa phương và các viện kiểm sát quân sự.
a. Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiếm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
b. Viện kiểm sát nhân dân địa phương và viện kiểm sát quân sự
Viện kiểm sát nhân dân địa phương, viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
1.5. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch nước là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước.
2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
a. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được biểu hiện ở chỗ nhân dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp theo quyết định của pháp luật; có quyền tham gia quản lí nhà nước, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhân dân có thể khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của tất cả các cơ quan và nhân viên nhà nước.
b. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước mà cụ thể là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xuất phát từ Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, hàng loạt các cơ quan khác của Nhà nước từ trung ương tới địa phương được thành lập kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ để cùng với các cơ quan nhà nước nói trên thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải báo cáo công tác và phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Bằng cách tổ chức như thế quyền lực nhà nước ở Việt Nam luôn đảm bảo sự thống nhất, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.
Sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước được biểu hiện ở việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì Quốc hội là cơ quan chủ yếu thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan chủ yếu thực hiện quyền hành pháp; tòa án là cơ quan chủ yếu thực hiện quyền tư pháp… Song việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan khác như Chính phủ, tòa án… Đối với các quyền lực khác cũng được thực hiện tương tự như vậy. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải có sự kiểm soát lẫn nhau đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng, củng cố cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
c. Nguyên tắc Đảng cộng sản lãnh đạo đối với Nhà nước
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn thực hiện việc lãnh đạo toàn diện đối với công tác tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam.
Mọi tổ chức của Đảng và mọi đảng viên hoạt động trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật.
d. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của nhà nước Việt Nam đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Bộ máy nhà nước Việt Nam luôn bảo đảm tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trong cả bộ máy nhà nước nói chung và trong từng cơ quan, bộ phận của bộ máy nhà nước nói riêng. Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng đối với các cơ quan hành chính nhà nước khác so với các cơ quan tòa án…
e. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật.
Theo tinh thần của nguyên tắc pháp chế, việc thành lập và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước ở Việt Nam đều tuân theo và dựa trên các quy định của pháp luật, các hành vi vi phạm luật đều được xử lí theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân khác thực hiện đầy đủ, triệt để các quy định pháp luật.
Nhà nước Việt Nam đã xây dựng hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật được triển khai thường xuyên và nghiêm minh.
g. Nguyên tắc bảo đảm sự đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc sinh sống ở Việt Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách pháp triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc ít người.
Chính sách đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc luôn được Nhà nước Việt Nam coi trọng, là nền tảng trong chính sách đối nội của Nhà nước Việt Nam. Trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam, ở Quốc hội có Hội đồng dân tộc, Chính phủ có Ủy ban dân tộc và miền nói để chăm lo các vấn đề dân tộc và miền nói. Nhà nước thực hiện nhiều chính sách tạo điều kiện cho các dân tộc ít người có điều kiện phát triển, tiếp kịp đồng bào miền xuôi về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, cùng hòa đồng trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
V. MÔT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ LAO ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Để xây dựng, củng cố Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nâng cao hiệu lực và hiệu quả các hoạt động nhà nước đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ những biện pháp cơ bản sau:
- Không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề mới về lí luận và thực tiễn trong quá trình chuyển đổi của đất nước và của các yếu tố quốc tế liên quan đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói riêng và quá trình xây dựng, phát triển của đất nước nói chung. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Có các giải pháp để Nhà nước thực hiện tốt hơn nữa các chức năng, nghiệm vụ của mình, đặc biệt là chức năng quản lí kinh tế, xã hội và môi trường nhằm nâng cao hơn mức sống và chất lượng sống cho nhân dân. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải được tiến hành song song với việc củng cố xã hội công dân, xã hội dân sự ở Việt Nam, tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội khác và mọi công dân đều thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội. Từng bước tiến hành dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội, tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đề cao trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và bản chất dân chủ của nhà nước. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Bảo đảm quyền con người, các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân. Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Quy định chế độ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trước nhân dân. Hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỉ luật, kỉ cương trong hệ thống hành chính nhà nước và trong toàn xã hội.
- Không ngừng đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước. Xây dựng cơ chế hoạt động hiệu quả, hợp pháp, bảo đảm tính thống nhất, sự phân công phù hợp, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Đẩy mạnh sự phân công, phân cấp, nhiệm vụ, quyền hạn giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp, các ngành… bảo đảm quản lí thống nhất về quy hoạch và những định hướng phát triển đồng thời đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành và cơ sở. Đổi mới tổ chức và hoạt động trong nội bộ mỗi cơ quan nhà nước. Cụ thể là:
+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đổi mới quy trình ban hành luật, thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội; hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu cử những người thực sự là đại biểu của mình vào Quốc hội; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lí số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri; cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của các hội đồng và các ủy ban của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội.
+ Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để Chủ tịch nước thực hiện đầy đủ chức năng của nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; xác định rõ mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Tập trung xây dựng hệ thống hành chính nhà nước trong sạch vững mạnh, bảo đảm quản lí thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiện đại và hiệu quả; tiếp tục cải cách hành chính trên tất cả các khâu: thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia; tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ theo hướng tinh gọn và hợp lí, nâng cao hiệu quả quản lí vĩ mô, nhất là chất lượng quy hoạch, xây dựng thể chế, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của các bộ, cơ quan ngang bộ, khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và điều hành vủa hệ thống hành chính nhà nước các cấp; đẩy mạnh xa hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lí, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức tòa án nhân dân, cải cách hoạt động xét xử của tòa án, mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính; bảo đảm tốt hơn các điều kiện để viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra; sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tu pháp và bổ trợ tư pháp; tăng cường sự tham gia, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
+ Không ngừng nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, phân định đúng chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan chính quyền địa phương sao cho sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm quyền tự chủ và chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất tốt, tận tụy phục vụ nhân dân, có tính chuyên nghiệp cáo, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lí cán bộ, công chức; phận định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lí nhà nước; có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỉ luật, mất uy tín với nhân dân; thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Không ngừng xây dựng và hoàn thiện hề thống pháp luật theo tinh thần pháp luật của nhà nước pháp quyền. Đổi mới công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật; hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Các luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống.
- Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực quản lí và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, bảo đảm kỉ luật và kỉ cương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội; đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế kiểm tragiasm sát việc thực hiện pháp luật, nhất là kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ưởng đến cơ sở và từng đảng viên phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin dại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cổ vũ, động viên các phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; tăng cường dân chủ trong Đảng, bảo đảm sự ổn định bà phát triển của đất nước; coi trọng mở rộng dân chủ trực tiếp trong xây dựng Đảng và xây dựng chính quyền, khắc phục tình trạng Đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm thay chức năng, nhiệm vụ quản lí điều hành của chính quyền.
No comments:
Post a Comment