CHƯƠNG V
PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước:
Chi ngân sách nhà nước thể hiện chức năng phân phối tài chính ở khâu ngân sách nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ số tiền từ ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện kinh tế, chi ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia.
Chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau đây :
-Chi ngân sách nhà nước gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
-Cơ cấu, nội dung và mức độ dành cho các khoản chi ngân sách nhà nước do cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước là Quốc Hội quyết định.
-Chi ngân sách nhà nước phải mang tính hiệu quả cao. Tính hiệu quả của hoạt động chi ngân sách nhà nước phải được đánh giá ở tầm vĩ mô.
-Chi ngân sách nhà nước là hình thức cấp phát trực tiếp của nhà nước vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Chi ngân sách nhà nước là hình thức cấp phát không hoàn lại.
2 Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước:
2.1 Chi đầu tư phát triển:
Việc phân biệt chi đầu tư phát triển trong cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước là căn cứ vào mục đích kinh tế-xã hội của việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước. Theo đó, các khoản chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành 2 nhóm lớn: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Trong đó, chi đầu tư phát triển mang tính chất của khoản chi tích luỹ. Chi thường xuyên còn được hiểu là chi có tính chất tiêu dùng.
Chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, gắn liền với việc xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng kinh tế. Có thể nói, chi đầu tư phát triển là khoản chi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm phát triển năng lực sản xuất, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân. Việc nhà nước thực hiện chi đầu tư phát triển chính là việc ngân sách nhà nước bỏ vốn vào các hoạt động kinh tế xã hội để hướng đến những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn trong tương lai. Đây là những khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhưng ít phát sinh lợi ích ngay lập tức. Điều này làm cho các khoản chi đầu tư phát triển ít thu hút tư nhân tham gia đầu tư. Chính vì vậy mà vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc thực hiện các khoản chi này. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, chi đầu tư phát triển thường có những khoản chi lớn hay được kể đến là:
-Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi này được ngân sách nhà nước dựng để chi cho việc đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội mà không có khả năng thu hồi vốn. Khoản chi này nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
-Chi đầu tư, hỗ trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, lĩnh vực quan trọng mà cần thiết phải có sự tham gia của nhà nước Nhà nước. Những khoản chi này góp phần quan trọng để nhà nước thực hiện vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội theo đúng múc tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.
-Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hoá, vật tư dự trữ nhà nước có tính chiến lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ mang tính chuyên ngành.
-Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước chẳng hạn như cho chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông thôn, phủ xanh đồi trọc…
Chi đầu tư phát triển có những đặc điểm như sau:
-Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn như không có tính ổn định do thứ tự và tỉ trọng ưu tiên trong chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước cho từng nội dung chi, từng lĩnh vực kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn là khác nhau.
-Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
2.2 Chi thường xuyên:
So với nhóm các khoản chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển, nhóm các khoản chi có tính chất tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước thể hiện quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm chi chủ yếu được xác định:
- Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng: bao gồm chi quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước ở các cấp. Nhà nước ngày càng có xu hướng giảm thiểu đến mức tối đa có thể được các khoản chi năm trong nhóm này, nhằm mục đích tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước, tiến đến tinh gọn bộ máy quản lý hành chính nhà nước các cấp sao cho hiệu suất làm việc đạt mức cao nhất.
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp: Bao gồm chi cho các hoạt động kinh tế, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, đào tạo, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, trợ cấp chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội… Chi hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp...Đây là nhóm chi chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số chi có tính chất tiêu dùng của ngân sách Nhà nước.
- Chi cho quốc phòng và an ninh: Là khoản chi hết sức cần thiết của quốc gia, nhằm bảo đảm điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
- Chi khác: bao gồm chi trợ giá theo chính sách của nhà nước, phần chi thường xuyên trong các chương trình, mục tiêu quốc gia.
Chi thường xuyên có đặc điểm sau:
-Những khoản chi thường xuyên có tính chất ổn định, bởi vì, có nhiều chức năng của nhà nước là không thay đổi như chức năng bảo vệ công dân, chức năng quản lý kinh tế. Mặt khác, nhà nước luôn phải đảm bảo những khoản chi mang tính chất ổn định mà không phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội thay đổi, chẳng hạn như khoản chi lương của công chức, viên chức.
-Các khoản chi thường xuyên có hiệu lực tác động trong thời gian ngắn và mang tính tiêu dùng xã hội. Chi thường xuyên chủ yếu đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước về quản lý kinh tế xã hội trong từng năm ngân sách. Đây là khoản chi chủ yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, quốc phòng an ninh, các hoạt động sự nghiệp..
-Phạm vi, mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của nhà nước trong việc cung ứng các hàng hoá công cộng. Một quốc gia với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả thì khoản chi thường xuyên càng được tiết kiệm và ngược lại.
-Chi thường xuyên cần được quản lý theo dự toán và được sử dụng theo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả. Trong quá trình phân bổ và lập kế họach chi để đưa vào trong dự toán phải luôn tính toán sao cho chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi nhận vào dự toán và được cơ quan quyền lực nhà nước thông qua sẽ được xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Các đơn vị quản lý tài chính và chủ thể thụ hưởng ngân sách nhà nước có nghĩa vụ chấp hành tuyệt đối. Yêu cầu này nhằm hướng đến việc đảm bảo mục tiêu cân đối ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn bao gồm chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư, chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính và chi bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới.
2.3 Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư:
Khoản nợ gốc thực chất đó là số tiền nhà nước đã vay của các chủ nợ trong và ngoài nước đến hạn phải thanh toán. Chi trả nợ bao gồm:
-Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước đã vay của các tầng lớp dân cư, đoàn thể xã hội, tổ chức thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu, công trái…). Ở đây, Chính phủ là chủ thể đứng ra vay và phải đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi cho người chủ sở hữu công trái, trái phiếu của Chính phủ. Việc thanh toán chi trả sẽ đựoc thực hiện tại kho bạc nhà nước. Nguồn vốn thanh toán sẽ do ngân sách nhà nước đảm nhận. Cụ thể là, ngân sách nhà nước ở trung ương có trách nhiệm chi trả các loại giấy tờ có giá phát hành phục vụ cho các công trình trung ương. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thanh toán trái phiếu trình Chính phủ phê duyệt và đưa vào dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ vào kế hoạch được duyệt, cơ quan tài chính chuẩn bị nguồn vốn để kho bạc nhà nước thanh toán trái phiếu, công trái đến hạn. Trường hợp công trái, trái phiếu đã đến hạn thanh toán mà chủ sở hữu chưa đến thanh toán thì trái phiếu, công trái đó sẽ được bảo lưu cả gốc lẫn lãi trong thời gian phát hành và được hưởng lãi suất ngang bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, ngân sách địa phương cũng có thể được bổ sung bằng nguồn vốn thu được từ việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Trường hợp ngân sách cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì ngân sách cấp tỉnh đó được phép huy động vốn trong nước bằng việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Việc huy động vốn bằng hình thức này phải tuân thủ yêu cầu cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức tổng dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
-Trả nợ nước ngoài: đây là những khoản nợ nước ngoài mà nhà nước đã vay của chính phủ các nước, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Chính phủ sẽ lập kế hoạch trả nợ theo hàng năm và kế hoạch trả nợ 5 năm. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch tổng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ trình lên cho Chính phủ duyệt. Thủ tướng Chính phủ sẽ uỷ quyền cho Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ theo hạn mức được duyệt. Nguồn vốn để thanh toán nợ nước ngoài do ngân sách trung ương đảm nhận. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí nguồn vốn hàng năm theo kế hoạch được duyệt để trả nợ nước ngoài khi đến hạn. Việc trả nợ theo kế hoạch có thể được tiến hành theo phương thức trả nợ thông qua hàng hoá hoặc bằng tiền.
Theo xu hướng đổi mới chính sách tài chính quốc gia, quan điểm mới về cân đối ngân sách và bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Các khoản vay trong nước, nước ngoài của Chính phủ đều phải được thực hiện cho mục đích đầu tư và phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Đối với vốn vay để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà nước tiến hành cấp phát vốn và thực hiện thu hồi vốn thông qua tu phí, giá dịch vụ. Đồng thời, nhà nước sẽ là chủ thể trực tiếp trả nợ. Đối với vốn cho vay mục đích đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà nước là người vay sau đó sẽ cho tổ chức kinh tế trong nước vay lại. Các tổ chức này sau một thời gian nhất định và với một tỷ lệ lãi suất được xác định trên thị trường vốn ở trong nước, phải hoàn trả số vốn vay cho nhà nước để nhà nước thanh toán nợ cho chủ thể đã cho vay.
2.4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính:
Quỹ dự trữ tài chính của quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách nhà nước, hình thành nên nguồn dự trữ chiến lược do nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng. Quỹ dự trữ quốc gia được sử dụng với 2 mục đích:
-Nhằm tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp ngân sách nhà nước cần thực hiện nhu cầu chi để đảm bảo nhiệm vụ, yêu cầu kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nguồn thu cho ngân sách nhà nước chưa tập trung kịp. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính tạm ứng cho ngân sách nhà nước thì ngân sách nhà nước phải hoàn trả trong năm ngân sách.
-Nhằm xử lý cân đối ngân sách nhà nước. Việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho mục đích xử lý cân đối ngân sách được thể hiện trong các trường hợp như: cần nguồn ngân sách nhà nước để phòng chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, tai nạn trên diện rộng, thực hiện các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng an ninh, hoặc các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán để tránh không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến sản xuất, đời sống xã hội. Ngoài ra, nếu nguồn thu ngân sách nhà nước, kể cả từ vay nợ nhằm mục đích bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước không đạt mức bội chi mà dự toán ngân sách nhà nước đã tiên liệu theo quyết định của cơ quan quyền lực ở trung ương và địa phương, trường hợp này quỹ dự trữ tài chính sẽ được sử dụng nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối ngân sách trong năm ngân sách.
Quỹ dự trữ quốc gia được hình thành từ ngân sách nhà nước, do cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội) quyết định. Quỹ dự trữ quốc gia được quản lý chuyên trách bởi Cục dữ trự quốc gia-một cơ quan được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương. Hàng năm, ngân sách nhà nước sẽ bố trí những nguồn tăng thu từ ngân sách nhà nước, thu kết dư và dự toán chi ngân sách nhà nước hàng năm (tối đa không vượt quá 25% tổng dự toán chi) để bổ sung cho quỹ dự trữ tài chính.
Về thẩm quyền quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định đối với việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước từ quỹ dự trữ tài chính. Trường hợp xử lý cân đối ngân sách, đối với quỹ dự trữ tài chính ở trung ương, Thủ tướng Chính phủ sẽ có thẩm quyền quyết định. Đối với quỹ dự trữ tài chính ở địa phương sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nếu không xét đến trường hợp tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính phải được hoàn trả ngay trong năn ngân sách, việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho các mục đích khác cần phải đảm bảo yêu không bảo toàn số dư của quỹ dự trữ tài chính. Theo đó, không được sử dụng vượt quá 30% số dư của Quỹ dự trữ tài chính tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.
Ngoài ra, quỹ dự trữ tài chính phân biệt với quỹ dự phòng ngân sách-một khoản chi được bố trí từ nội dung chi đầu tư phát triển.
2.5 Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới:
Mục đích của khoản chi này nhằm đảm bảo tính công bằng, yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng địa phương. Luật Ngân sách nhà nước 2002 đã có sự mở rộng hơn so với trước đây. Trước khi Luật Ngân sách nhà nước 2002 có hiệu lực, ngân sách cấp trên chỉ được phép bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới để đảm bảo yêu cầu cân đối thu chi cho cấp ngân sách được thụ hưởng. Hình thức cho bổ sung này đựơc gọi là cho bổ sung để cân đối ngân sách và thể hiện tính chất tài trợ vô điều kiện. Hiện nay, loại hình chi bổ sung cân đối thu, chi này vẫn được duy trì nhằm tạo đìêu kiện cho chính quyền cấp dưới cân đối nguồn ngân sách để hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh được giao. Ngoài ra, pháp luật ngân sách nhà nước hiện hành còn cho phép ngân sách cấp trên chi bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới để hỗ trợ một phần cho những cấp ngân sách có khó khăn khi phát sinh các nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết mà sau khi đã tận dụng mọi khả năng về kinh phí của cấp mình chẳng hạn như đã sử dụng nguồn quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính mà vẫn chưa đáp ứng được. Hình thức chi bổ sung có mục tiêu mang bản chất của những khoản tài trợ bất đối ứng.
II. PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Khái niệm:
Tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chi ngân sách nhà nước giữa các chủ thể tạo thành pháp luật về chi ngân sách nhà nước. Như vậy, pháp luật về chi ngân sách Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước.
Đặc điểm quan trọng của quan hệ pháp luật chi ngân sách Nhà nước là Nhà nước luôn luôn là một bên chủ thể. Còn các chủ thể khác có thể là pháp nhận hoặc thể nhân thụ hưởng vốn ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật về chi ngân sách Nhà nước, có thể phân ra các bộ phận sau:
+ Các quy phạm pháp luật quy định những vấn đề cơ bản về hoạt động chi ngân sách Nhà nước như các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách Nhà nước.
+ Các quy phạm pháp luật quy định nội dung pháp lý các khoản chi ngân sách Nhà nước. Bộ phận quy phạm pháp luật này thường được gọi là chế độ pháp lý các khoản chi ngân sách Nhà nước.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý, phân phối các khoản chi ngân sách Nhà nước.
2. Các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách nhà nước
2.1. Các nguyên tắc và điều kiện chi ngân sách Nhà nước:
2.1.1. Các nguyên tắc chi ngân sách Nhà nước:
Hoạt động chi ngân sách Nhà nước là một mặt hoạt động của ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy chi ngân sách Nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc chung của quản lý ngân sách Nhà nước. Luật ngân sách Nhà nước quy định: ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, có phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Trên cơ sở nguyên tắc chung đó, các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật quy định về chi ngân sách Nhà nước còn thể hiện những tư tưởng mang tính chất chỉ đạo của Nhà nước đặt ra phương châm và mục đích của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Các nguyên tắc đó bao gồm:
- Nguyên tắc cân bằng thu, chi.
- Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích.
- Nguyên tắc tăng cường thu và tiết kiệm chi
2.1.1.1. Nguyên tắc cân bằng thu, chi:
Mối tương quan giữa hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước tác động trực tiếp tới tình trạng ngân sách Nhà nước và toàn xã hội. Bởi vậy, trong quản lý ngân sách Nhà nước, cân bằng giữa thu và chi ngân sách Nhà nước là một trong những nguyên tắc quan trọng trong chi ngân sách nhà nước. Nguyên tắc này cần phải được quán triệt trong toàn bộ quá trình ngân sách, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách. Theo nguyên tắc này, các khoản thu, chi thể hiện trong dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo tính cân đối. Các khoản chi chỉ được xây dựng trên cơ sở nguồn thu đã được xác định. Ngược lại, các nguồn thu cho ngân sách nhà nước sẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đã được hoạch định. Ngân sách nhà nước sẽ được cân bằng theo cách xác định tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên của ngân sách và góp phần tích lũy ngày càng cao để phục vụ cho nhu cầu chi đầu tư phát triển. Trường hợp ngân sách nhà nước bội chi, số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tạo điều kiện tiến đến cân bằng ngân sách nhà nước. Trên thực tế, đôi khi khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm trong khi các khoản chi lại tăng nhanh hơn nên tình trạng bội chi ngân sách luôn có thể xảy ra. Để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, một trong những giải pháp là đi vay trong hoặc ngoài nước. Trong trường hợp này, việc sử dụng nguồn vay để bù đắp bội chi chỉ nhằm mục đích đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng chi trả nợ của nhà nước, mà tuyệt đối không được sử dụng các khoản vay để thực hiện những khoản chi mang tính chất tiêu dùng.
2.1.1.2. Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích:
Tính kế hoạch của ngân sách Nhà nước đòi hỏi hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước đều phảo dựa trên cơ sở kế hoạch. Sự thiếu ăn khớp giữa thu, chi ngân sách Nhà nước đều tạo ra những khó khăn cho hoạt động quản lý ngân sách Nhà nước và hạn chế hiệu quả trong thực tế. Do đó, để bảo đảm sự ăn khớp giữa thu và chi ngân sách Nhà nước đòi hỏi chúng phải được thực hiện theo kế hoạch.
Nguyên tắc này đòi hỏi các khoản chi ngân sách Nhà nước chỉ được thực hiện với điều kiện khoản chi đó đã được ghi trong dự toán ngân sách được duyệt, trừ các trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Mặc khác việc cấp phát và sử dụng vón ngân sách Nhà nước phải đúng với đối tượng thụ hưởng, và đúng nội dung, mục đích của khoảng chi được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt.
2.1.1.3. Nguyên tắc tiết kiệm chi và tăng cường thu:
Trong cơ chế thị trường, việc nhà nước cắt bỏ một vài khoản chi tiêu không đồng nghĩa với việc gánh nặng chi tiêu của ngân sách nhà nước sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta nguồn thu ngân sách Nhà nước hạn hẹp, nhu cầu chi tiêu rất lớn, chỉ có tiết kiệm chi thì mới có thể đủ nguồn tài chính trang trải được các nhu cầu cấp bách. Quá trình hoạch định chính sách, hình thành và thực hiện ngân sách Nhà nước cũng không thể dự liệu trước được từ đầu năm. Thêm vào đó, các thông tin để xây dựng kế hoạch ngân sách không đủ mức chính xác cần thiết, nên mặc dù trong các dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, người ta đã luôn bố trí một khoản dự phòng khoảng 2– 5% tổng số dự toán chi ngân sách Nhà nước, nhưng số dự phòng trên cũng không thể bảo đảm cho quá trình điều hành ngân sách Nhà nước. Vì vậy, tiết kiệm chi và đẩy mạnh thu là một trong 3 nguyên tắc phải được quán triệt ngay từ đầu khi bắt đầu một chu trình ngân sách.
Tiết kiệm chi không phải là đơn thuần cắt bỏ các khoản chi ngân sách Nhà nước một cách tùy tiện, mà là chi tiêu đúng theo các định mức, đúng tiêu chuẩn và đúng chế độ mà Nhà nước đã quy định cho từ đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan có lập dự toán thu chi.
Tăng cường thu không chỉ đơn thuần tìm các giải pháp để thu ngay vào quỹ ngân sách càng nhiều càng tốt, chống thất thu, mà ngay cả trong bố trí chi ngân sách Nhà nước cũng phải thể hiện được việc nuôi dưỡng chăm sóc nguồn thu.
2.1.2. Điều kiện thực hiện chi ngân sách Nhà nước:
Hoạt động chi ngân sách Nhà nước được thực hiện dựa trên các nguyên tắc đồng thời để thực hiện chi ngân sách Nhà nước trong các trường hợp cụ thể. Pháp luật quy định các điều kiện chi ngân sách Nhà nước. Các điều kiện đó bao gồm:
Thứ nhất, khoản chi đã được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt. Điều kiện này không áp dụng trong trường hợp vào đầu năm ngân sách dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định cơ quan tài chính các cấp được phép cấp kinh phí cho các nhu cầu chi không thể trì hoãn được cho tới khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách đượ quyết định.
Điều kiện này cũng không được áp dụng trong trường hợp có sự thay đổi về thu, chi mà sự thay đổi đó được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và quyết định.
Thứ hai: Khoản chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Thứ ba: Khoản chi đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền chuẩn chi.
Thứ tư: khoản chi được thực hiện trên cơ sở có đầy đủ các chứng từ có liên quan.
Tùy theo tính chất từng khoản chi, pháp luật quy định cụ thể những loại hồ sơ, chứng từ thanh toán bắt buộc phải có là điều kiện thực hiện các khoản chi ngân sách Nhà nước.
Ngoài các điều kiện trên đây đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì việc chi ngân sách chỉ được thực hiện trên cơ sở kết quả đấu thầu theo quy định của Chính phủ.
2. 2 Phương thức cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà nước:
Phương thức cấp phát tài chính từ ngân sách Nhà nước là cách thức thực hiện phân phối vốn ngân sách Nhà nước cho các đơn vị thụ hưởng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở nguồn kinh phí đã được phân bổ, kế hoạch sử dụng ngân sách đã được xây dựng và thông qua theo trình tự, thủ tục luật định, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước ra quyết định chi, yêu cầu cơ quan kho bạc nhà nước chuyển giao kinh phí.
Hiện nay, ở nước ta việc cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà nước được thực hiện theo hai phương thức chủ yếu là phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí và phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền. Ngoài ra, các chủ thể có liên quan đến ngân sách nhà nước còn có thể được cấp phát theo phương thức cấp phát trực tiếp, phương thức cấp phát kinh phí ủy quyền và cấp phát gán thu bù chi, cấp phát ghi thu, ghi chi.
Để thực hiện cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách Nhà nước theo các phương thức thanh toán trên đây, pháp luật quy định hai hình thức thanh toán là hình thức cấp tạm ứng và hình thức cấp phát thanh toán là chủ yếu. Cấp tạm ứng là việc ngân sách nhà nước sẽ ứng trước một số tiền cho đối tượng có nhu cầu sử dụng ngân sách khi đối tượng này chưa có đủ điều kiện để nhận chính xác số tiền phục vụ cho hoạt động xin tạm ứng. Trong trường hợp đơn vị sử dụng ngân sách có nhu cầu thực tế, đơn vị này sẽ phát hành “Giấy đề nghị rút kinh phí (tạm ứng)” cùng với bộ chứng từ có liên quan đến khoản xin tạm ứng gửi đến kho bạc nhà nước. Mức tạm ứng tuỳ thuộc vào tính chất, tiến độ thực hiện từng khoản chi nhưng không quá tổng số kinh phí đã được phân bổ theo lệnh chi tiền. Kho bạc nhà nước sau khi kiểm tra hồ sơ hợp lệ sẽ tiến hành tạm ứng. Đối với cấp phát kinh phí dưới hình thức thanh toán, khi đảm bảo đủ điều kiện để được thanh toán từ ngân sách nhà nước, đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy đề nghị rút kinh phí cùng với các chứng từ phù hợp gửi kho bạc đề nghị thanh toán. Các hình thức cấp phát đều phải thực hiện thông qua hệ thống kho bạc nhà nước.
Trong các phương thức cấp phát, thù trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định sử dụng ngân sách nhà nước của mình. Đồng thời, kho bạc nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc quản lý thanh toán các khoản ngân sách nhà nước được cấp phát.
2.2.1 Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí:
Đây là phương thức để cấp phát kinh phí thường xuyên cho các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước-vốn là những đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ đuợc giao. Các đối tượng này bao gồm: các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc gán thu bù chi, các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp được nhà nước đảm bảo kinh phí. Như vậy, cấp phát theo dự toán kinh phí là phương thức áp dụng đối với các khoản chi mà cơ quan tài chính không trực tiếp cấp phát. Trong đó, dự toán kinh phí được hiểu là khả năng tối đa mà đơn vị thụ hưởng có thể nhận từ ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của mình. Kinh phí sử dụng thực tế của những đối tượng thụ hưởng không được phép vượt quá giới hạn đã được phân bổ chi tiết theo từng hạng, mục, tháng, quý được gọi là hạn mức cấp phát. Theo phương thức này, định kỳ hàng tháng, hàng quý, cơ quan tài chính cấp hạn mức kinh phí vốn cho các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nếu phát sinh nhu cầu cần thiết, cấp bách, đơn vị sử dụng ngân sách có thể yêu cầu kinh phí vượt hơn dự toán kinh phí quý cho đơn vị nhưng không được vựơt quá dự toán tổng thể.
Quyết định chi của đơn vị sử dụng ngân sách có hình thức là “Giấy rút dự toán ngân sách nhà nước”. Khi có nhu cầu thực tế, căn cứ vào hạn mức của từng hạn, mục chi, hạn mức chi định kỳ từng tháng, quý, đại diện hợp pháp của đơn vị sử dụng ngân sách phát hành “Giấy rút dự toán ngân sách nhà nước” cùng các chứng từ hợp pháp yêu cầu kho bạc quản lý tài khoản thanh toán. Kho bạc sẽ thực hiện chi trả theo đúng mục chi
thực tế sau khi đã kiểm tra điều kiện theo quy định.
Phương thức này được áp dụng rộng rãi do các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để đáp ứng các yêu cầu thường xuyên của đơn vị mình. Phương thức này cũng tạo điều kiện cho kho bạc nhà nước chủ động kiểm soát chi ngân sách nhà nước, chủ động sử dụng nguồn kinh phí với hiệu suất cao. Đồng thời, kho bạc nhà nước cũng chịu trách nhiệm rất lớn khi thực hiện cấp phát kinh phí theo dự toán. Cơ quan tài chính chỉ có trách nhiệm đôn đốc, thông báo chính thức dự toán kinh phí trong kỳ áp dụng cho đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các đơn vị sử dụng kinh phí theo phương thức cấp phát theo dự toán sẽ bị chi phối về tính chủ động trong quá trình sử dụng kinh phí. Bên cạnh đó, những đơn vị này còn có thể phát sinh hành vi tiêu cực như tận hưởng tối đa dự toán đã được phân bổ, không tuân thủ nguyên tắc tăng cường thu, tiết kiệm chi.
2.2.2 Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền:
Đây là phương thức được áp dụng đối với những khoản chi do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Phương thức này chỉ được áp dụng đối với những chủ thể không có quan hệ thường xuyên với ngân sách nhà nước chẳng hạn như các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội…Ngoài ra những khoản chi mang tính chất đặc thù phát sinh từng lần chẳng hạn như các khoản giao dịch của Chính phủ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong mối quan hệ vay nợ, viện trợ, các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới cũng được cấp phát theo phương thức thông qua lệnh chi tiền.
Lệnh chi tiền là quyết định do cơ quan tài chính phát hành đến kho bạc nhà nước yêu cầu kho bạc chi trả, thanh toán một số tiền cho đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước theo đúng nội dung của lệnh chi. Nhận được lệnh chi tiền hợp lệ, căn cứ vào yêu cầu của cơ quan tài chính thể hiện trong lệnh chi tiền, kho bạc sẽ tiến hành xuất quỹ thanh toán cho đơn vị sử dụng ngân sách bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo hình thức: cấp tạm ứng hoặc cấp thanh toán. Khi nhận được kinh phí, cho dù dưới hình thức tạm ứng hay thanh toán, đơn vị thụ hưởng ngân sách có toàn quyền sử dụng nguồn kinh phí đã được chuyển giao một cách chủ động.
Ngoài hai phương thức cấp phát chủ yếu là cấp phát kinh phí theo dự toán và theo lệng chi tiền, ngân sách nhà nước còn có thể được cấp phát theo một số hình thức khác như:
-Hình thức cấp phát ghi thu, ghi chi: Đây là phương thức thu, chi tại chỗ, tại một thời điểm nhất định và giao cho đơn vị trực tiếp thực hiện, sau đó sẽ có báo cáo quyết toán với ngân sách nhà nước.
-Hình thức cấp phát kinh phí ủy quyền: hình thức này áp dụng chủ yếu khi cơ quan quản lý cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình. Do vậy, kinh phí phải được chuyển từ ngân sách cấp trên xuống cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ chi thay cho ngân sách cấp trên. Sau khi thực hiện xong, ngân sách cấp dưới có trách nhiệm quyết toán lại với ngân sách cấp trên.
-Hình thức gán thu bù chi: hình thức này được áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm khuyến khích cơ chế hạch toán kinh tế, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải tự tạo nguồn thu để đảm bảo chi tiêu, ngân sách nhà nước chỉ cấp phần chênh lệch thiếu. Trường hợp hạch toán phát sinh nguồn chênh lệch thừa, đơn vị phải nộp phần này vào ngân sách nhà nước.
III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CÁC KHOẢN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:
1.1. Khái niệm.
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phân phối và sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho nhu cầu đầu tư xây dựng theo kế hoạch của Nhà nước.
1.2.1. Đối tượng chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:
Vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước áp dụng cho các trường hợp sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn.
- Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần liên doanh và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát triển kinh tế.
-Chi cho dự trữ nhà nước.
Những khoản chi trên đều có đặc điểm là nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận dài lâu cho nền kinh tế, phục vụ cho nhu cầu đầu tư, phát triển đất nước, thời hạn sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước lâu dài, cho nên, việc quyết toán thường sẽ trải qua nhiều năm năm ngân sách.
Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dựng để đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ và một số dự án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước.
Như vậy, chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản được sử dụng theo hai loại hình: một loại được cấp phát, còn một loại là được cho vay với lãi suất ưu đãi.
Về nguyên tắc, theo quy định hiện hành các dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Còn các dự án được cho vay ưu đãi là các dự án có khả năng thu hồi vốn.
1.2.2. Trình tự chuyển giao vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước:
Phù hợp với hai loại hình chi đầu tư xây dựng cơ bản, pháp luật quy định hai loại trình tự chuyển giao vốn.
a. Đối với các đối tượng được ngân sách Nhà nước cấp phát vốn.
Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch Nhà nước đã được duyệt. Bộ tài chính sẽ thông báo cho các bộ, ngành, địa phương và hệ thống tổng cục Đầu tư phát triển về việc cấp vốn, cơ quan quản lý ngân sách Nhà nước sẽ chuyển tiền theo kế hoạch sang Tổng cục Đầu tư để thực hiện việc cấp cụ thể.
Để nhận được vốn cấp phát, các chủ đầu tư phải mở tài khoản tại các Cục hoặc Chi cục đầu tư phát triển nơi giao dịch và xuất trình các văn bản cần thiết theo quy định của pháp luật.
Nói chung, nguyên tắc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước là cấp phát để thanh toán khối lượng hoàn thành theo giá trị khối lượng được nghiệm thu hàng tháng. Nghĩa là đơn vị xây lắp phải tự vay, bỏ vốn ra xây dựng theo hợp đồng với chủ đầu tư, sau đó được chủ đầu tư thanh toán lại trên cơ sở khối lượng nghiệm thu. Đối với các gói thầu tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện tạm ứng vốn từ 10 – 20% kế hoạch vốn cả năm tùy theo quy mô và điều kiện cụ thể của từng gói thầu.
Đối với việc mua sắm thiết bị, sẽ được tạm ứng vốn theo chế độ quy định và trên cơ sở các điều kiện của hợp đồng giữa chủ đầu tư và tổ chức cung ứng vật tư thiết bị, nhưng tối đa không vượt kế hoạch năm được duyệt.
b. Đối với các công trình, dự án được sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi:
Khác với các dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát, căn cứ vào kế hoạch vốn tín dụng ưu đãi hàng năm, hàng quý được duyệt, cơ quan quản lý ngân sách Nhà nước sẽ chuyển tiền sang Tổng cục đầu tư phát triển để làm nguồn vốn cho vay. Căn cứ kế hoạch vốn hàng quý được Bộ Tài chính duyệt. Tổng cục đầu tư phát triển sẽ thông báo cho cơ quan cấp trên của chủ đầu tư để lập hạn mức vốn cho vay theo từng dự án gửi Tổng cục Đầu tư phát triển. Căn cứ số vốn do ngân sách Nhà nước Trung ương chuyển, Tổng cục đầu tư phát triển sẽ ra thông báo hạn mức vốn được phép vay cho đối tượng được vay.
Các chủ đầu tư để rút được tiền phải ký hợp đồng tín dụng Nhà nước với cơ quan cho vay vốn. Căn cứ hợp đồng tín dụng Nhà nước đã ký, kế hoạch đầu tư cả năm được duyệt và hạn mức cho vay vốn được thông báo, cơ quan cho vay theo chế độ tín dụng ưu đãi sẽ làm thủ tục để cho chủ đầu tư rút vốn vay.
2. Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
2.1. Khái niệm.
Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước để góp phần hình thành vốn lưu động trong quá trình sản xuất.
2.2. Nội dung chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
2.2.1. Đối tượng được xét cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
Các đối tượng phải thỏa mãn các điều kiện sau mới được cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
- Phải là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất thực sự cho xã hội tức không phải là đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ là chủ yếu.
- Phải có quyết định thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp doanh nghiệp thành lập lại hoặc đã hoạt động từ trước 1989 sau khi sắp xếp lại, thì cũng phải cú quyết định chính thức.
- Phải có công văn đề nghị của cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp.
- Phải có biên bản thẩm định của Hội đồng quản trị xác định vốn lưu động định mức cho doanh nghiệp, trong đó phải xác định cụ thể hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Mức được cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh mới đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh được duyệt cấp vốn, ngân sách sẽ cấp tối đa không quá 30% tổng số vốn lưu động đã được xác định.
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động mà được duyệt cấp ngân sách thì ngân sách Nhà nước cũng
cấp tối đa không quá 30% tổng số vốn đã được xác định lại.
2.2.3. Trình tự cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế-xã hội xin cấp vốn lưu động phải được Hội đồng xác định vốn lưu động định mức xác định khả năng và nhu cầu vốn. Hội đồng gồm các đại diện của cơ quan quản lý tài chính về vốn và tài sản cùng cấp, cơ quan thuế, ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch chính, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đơn vị.
Hồ sơ xin cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước phải được bảo đảm chứng minh rõ ràng doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện xét cấp như đã quy định. Căn cứ hồ sơ xét cấp, cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp sẽ xem xét, đề nghị ghi vào kế hoạch ngân sách Nhà nước để cấp vốn. Trên cơ sở kế hoạch ngân sách Nhà nước đã bố trí theo đề nghị của cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp, cơ quan quản lý ngân sách sẽ thực hiện lệnh cấp vốn lưu động cho đơn vị.
Sau khi được ngân sách Nhà nước cấp phát, đơn vị phải chủ động phối hợp với cơ quan quản lý ngân sách doanh nghiệp làm các thủ tục giao nhận và bảo tòan vốn.
3. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.
3.1. Khái niệm.
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chi dùng cho các hoạt động nhằm phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế và xã hội được tiến hành thuận lợi.
Đặc điểm chung của chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là không nhằm mục đích
trực tiếp kinh doanh lấy lãi.
3.2. Nội dung chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.
Nguyên tắc chung của việc chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là theo công việc, nhiệm vụ đã được bố trí trong kế hoạch. Đối với chi cho duy trì bộ máy quản lý hành chính của đơn vị thực hiện hoạt động sự nghiệp kinh tế tính được chủ yếu trong nguồn chi về quản lý hành chính của ngân sách Nhà nước.
Do có nhiều loại hình đơn vị như cú loại vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính vừa thực hiện luôn các nghiệp vụ chuyên môn, có loại đơn vị để thực hiện nhiệm vụ được giao phải đi thuê các đơn vị chuyên môn hạch toán riêng thực hiện công vệc… Nên việc cấp phát vốn sự nghiệp kinh tế trong ngân sách Nhà nước thường căn cứ vào loại hình đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện nay, có hai loại chủ yếu là:
Thứ nhất: Loại hình đơn vị được cấp phát vốn ngân sách Nhà nước theo phương thức gán thu bù chi.
Thứ hai: Loại hình đơn vị được cấp vốn ngân sách Nhà nước theo công việc.
Hiện nay theo chế độ phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước thì nguồn vốn cấp cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế được phân làm hai loại: Nguồn vốn của ngân sách Trung ương và nguồn vốn ngân sách của địa phương.
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế thuộc đối tượng cấp phát của ngân sách Trung ương là các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị Trung ương quản lý thực hiện gồm:
- Công tác định canh, định cư các làng, bản người dân tộc tiểu số;
- Hỗ trợ đưa dân đi và đón dân đến vùng kinh tế mới;
- Công tác đo đạc, xây dựng lưới tọa độ địa chính các cấp và đo vẽ bản đồ địa chính các tỷ lệ, công tác đo vẽ bản đồ quốc gia.
- Công tác điều tra cơ bản tài nguyên thiên nhiên.
- Hoạt động thường xuyên của các đơn vị không hạch toán kinh doanh thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi do các Bộ, ngành, Trung ương quản lý như: giống cây, con, nghiên cứu và bảo vệ động thực vật, vườn ươm, trạm tưới, tiêu, bảo vệ đê điều; kiểm lâm nhân dân, tu bổ rừng do Trung ương quản lý, các khoản chi cho phục vụ mục tiêu khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm,…
- Duy tu, bảo dưỡng đường giao thông, cầu cống, nạo vét kênh rạch, sông biển,… do các đơn vị Trung ương thực hiện.
- Bảo quản dự trữ hàng hóa quốc gia.
Ngân sách địa phương đảm nhiệm chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị địa phương quản lý thực hiện gồm:
- Hoạt động của các trạm trại nông nghiệp địa phương (không phải là hạch toán kinh tế) về giống cây, con bảo vệ thực vật, thú y…
- Hoạt động của các trạm, đơn vị thủy nông, thủy loại (cả đào đắp kênh mương dẫn phụ, trạm tưới tiêu nước không phải là hạch toán kinh doanh).
- Hoạt động về lâm nghiệp như: vườn ươm cây để trồng rừng, kiểm lâm và bảo vệ rừng do địa phương quản lý.
- Hoạt động về đảm bảo quản lý, hướng dẫn, trợ giúp theo chế độ đối với dân mới đến vùng kinh tế mới…
- Hoạt động về quản lý đất đai địa chính ở địa phương.
- Hoạt động về tu bổ, sửa chữa thường xuyên đường giao thông, quản lý đô thị, nhà ở, ánh sáng công cộng ở địa phương.
4. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp văn hóa – xã hội.
Chi cho các sự nghiệp văn hóa – xã hội là khoản chi lớn của ngân sách Nhà nước trong tổng số chi tiêu dựng hàng năm của ngân sách Nhà nước, bao gồm hai nội dung:
Nội dung thứ nhất: là chi bảo đảm các hoạt động sự nghiệp.
Nội dung thứ hai: là chi trợ cấp cho các đối tượng theo những chính sách xã hội của Nhà nước ban hành và trợ cấp quỹ bảo hiểm xã hội, chi thực hiện các chế độ, chính sách đối với các đối tượng mà Nhà nước ưu đãi.
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp văn hóa – xã hội bao gồm các khoản chi chủ yếu sau đây:
4.1. Chi về giáo dục và đào tạo:
+ Đối với công tác giáo dục.
Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí cho giáo dục tiểu học ở các trường công lập (cấp 1); thực hiện chế độ thu học phí từ phổ thông trung học, khuyến khích phát triển và thực hiện chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cơ sở vật chất cho các trường bán công, trường dân lập, tư thục.
Nhà nước đảm bảo kinh phí cho các chương trình, mục tiêu quốc gia về giáo dục như: xóa lớp học ca 3, chương trình phát triển giáo dục đối với đồng bào dân tộc, phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ cho toàn dân.
Nhà nước hỗ trợ kinh phí để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường lớp, từng bước đưa tin học vào các trường học, hỗ trợ kinh phí cho việc xuất bản sách báo cho thiếu nhi.
+ Đối với công tác đào tạo.
Nhà nước bảo đảm kinh phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trả lương giáo viên cho các trường đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng do Nhà nước mở. Chính sách học bổng học sinh, sinh viên phải gắn với kết quả học tập và chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các học sinh thuộc đối tượng chính sách xã hội.
Đối với đào tạo lại, nguồn kinh phí là của các cơ quan, doanh nghiệp, Nhà nước không cấp kinh phí cho hoạt động dạy nghề mà nguồn kinh phí được thực hiện trên cơ sở đóng góp trực tiếp của các doanh nghiệp và cá nhân.
4.2. Chi về y tế.
Nhà nước thực hiện chi ngân sách cho các hoạt động y tế theo phạm vi sau đây:
- Thực hiện nâng cấp một số bệnh viện có tính chất đầu ngành.
- Triển khai các chương trình quốc gia về lĩnh vực y tế như tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV và AIDS, chống các bệnh bướu cổ, sốt rét, bại liệt.
- Tăng cường và củng cố các cơ sở y tế ở các địa bàn vùng núi cao, hải đảo, biên giới, vùng căn cứ cách mạng, hỗ trợ ngân sách cho các y bác sĩ làm việc ở nơi khó khăn.
Nhà nước bảo đảm chi phí phòng khám, chữa bệnh cho các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi.
4.3. Chi phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, báo chí…
Nhà nước thực hiện phương châm từng bước đổi mới việc đầu tư cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền, báo chí, thể dục thể thao, phục vụ chính trị. Việc cấp phát cho các hoạt động này được thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước đặt hàng và tài trợ kinh phí. Để tăng cường khả năng hạch toán hoặc tự thu đảm bảo chi của các đơn vị chuyên nghiệp, ngân sách Nhà nước chỉ đảm bảo cho hoạt động có tính chất thường xuyên của mình, tập trung đầu tư cho các mục tiêu và chương trình Quốc gia trong đó các khoản chi quan trọng là:
+ Bố trí bảo đảm kinh phí sóng phát thanh và truyền hình trong cả nước.
+ Bố trí đảm bảo kinh phí cho chương trình trùng tu di tích lịch sử - văn hóa có tính chất Quốc gia, chương trình đưa văn hóa thông tin và thê thao về cơ sở, đào tạo tài năng thể thao cho đất nước;
+ Tiến tới Nhà nước chỉ trợ cấp cho những nhu cầu tuyên truyền phục vụ chính trị.
+ Thay đổi phương thức trợ giá đối với các hoạt động phim ảnh không mang tính chất kinh doanh theo hình thức đặt hàng của Nhà nước.
+ Thực hiện khấu trừ phần kinh phí của ngân sách Nhà nước cấp cho phát thanh và truyền hình trên phần thu về quảng cáo, dịch vụ, lệ phí….
4.4. Chi về nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ.
Thực hiện quan điểm phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp của toàn dân, cơ sở sản xuất kinh doanh là người sử dụng cuối cùng kết quả nghiên cứu khoa học; do đó họ phải là người bảo trợ cho sự nghiệp khoa học và công nghệ. Nhà nước bố trí kinh phí của ngân sách Nhà nước bảo đảm chế độ lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học thuộc các ngành khoa học xã hội, khoa học cơ bản và nghiên cứu kỹ thuật.
Từng bước Nhà nước thực hiện chi tiền lương cho cán bộ khoa học gắn với đề tài khoa học.
Đối với chi phí cho các đề tài khoa học cấp Nhà nước, Nhà nước chỉ bảo đảm kinh phí cho các đề tài khoa học của cấp Bộ thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học cơ bản. Các đề tài gắn với ứng dụng thực tế vào sản xuất kinh doanh thì thực hiện cơ chế ký hợp đồng giữa cơ sở nghiên cứu với các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thực hiện chế độ thu hồi kinh phí từ các công trình nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ sản xuất do ngân sách Nhà nước cấp và tập trung vào ngân sách Nhà nước để trên cơ sở đó thành lập “Quỹ khuyến khích phát triển sự nghiệp nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới”.
4.5. Chi cấp xã hội và trợ cấp quỹ bảo hiểm xã hội.
Nhà nước thực hiện phương châm xóa bao cấp qua bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp và người lao động phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội để quỹ này hoàn toàn trở thành quỹ Bảo hiểm xã hội chung cho mọi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư, tiến tới đảm bảo tự thu chi.
5. Chế độ chi về an ninh, quốc phòng.
Chi ngân sách Nhà nước cho an ninh, quốc phòng là một khoản chi có tính chất tuyệt mật kể cả nội dung chi và số chi.
Theo nguyên tắc chung, chi cho quốc phòng và an ninh bao gồm các khoản chi về lương, tiền ăn của sĩ quan và chiến sĩ thuộc bộ máy thường trực, chi về trang thiết bị và các hoạt động của bộ máy đó để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, chi về xây dựng cơ sở vật chất như trụ sở, doanh trại…
Ngoài ra còn bao gồm các khoản chi để thực hiện các chính sách đối với các quân nhân như: Quỹ lập mồ mã của các liệt sĩ, chi thực hiện chế độ xuất ngũ, chuyển ngành, tuyển quân…
Riêng chi về các hoạt động dân quân du kích trong ngân sách Nhà nước được tách riêng và do ngân sách của các địa phương đảm nhiệm.
Do điều kiện riêng của nước ta, để đảm bảo thêm nhu cầu chi tiêu của mình, hệ thống quân đội và công an còn có các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ kinh tế, tự sản xuất và kinh doanh nhằm tự trang trải thêm các nhu cầu chi của ngành, đồng thời luôn đảm bảo quân số chi cần thiết. ngân sách Nhà nước chỉ cấp vốn ban đầu cho các đơn vị này để họ có đủ khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh.
6. Chế độ chi hoạt động quản lý Nhà nước.
Trong chi ngân sách Nhà nước, chi quản lý Nhà nước chiếm tỷ trọng không lớn nhưng hết sức cần thiết để duy trì hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước. Chi quản lý Nhà nước là chi của ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước, không bao gồm chi xây dựng cơ bản.
Trên cơ sở xác định khái niệm chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước có thể diễn đạt khái niệm chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước như sau:
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chỉ dùng cho các hoạt động của bộ máy Nhà nước, không bao gồm chi về xây dựng cơ bản.
Nội dung cơ bản của khoản chi này, cũng như các khoản chi sự nghiệp khác, bao gồm chi về lương và các khoản có tính chất lương, chi phí để thực hiện công việc quản lý hành chính, chi mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị để phục vụ công tác quản lý hành chính (coi như tài sản cố định), chi sửa chữa lớn và sửa chữa thường xuyên trụ sở cơ quan, ô tô, trang thiết bị, chi hội nghị, chi các đoàn ra nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài…
Trong một nội dung chi của ngân sách Nhà nước về quản lý Nhà nước của nước ta hiện nay, ngoài các đối tượng là cơ quan chức năng quản lý Nhà nước còn có các khoản chi khác.
Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, Nhà nước bảo đảm cân đối kinh phí hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kinh phí hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm, ngân sách Nhà nước chỉ tài trợ trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của Chính phủ. Các khoản chi này cũng được coi là chi ngân sách Nhà
nước về quản lý Nhà nước.
7. Nội dung pháp lý các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước.
7.1. Chi ngân sách Nhà nước để trả nợ nước ngoài.
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quản lý về vay và trả nợ phần vay của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý về vay và trả nợ nước ngoài phần vay của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đi vay vốn nước ngoài phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận các điều kiện vay, trả , trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ mới được tiến hành đi vay.
Chi ngân sách Nhà nước để trả nợ nước ngoài được thực hiện dưới hai hình thức: trả tiền hoặc trả bằng hiện vật, trong đó trả bằng hiện vật được ưu tiên nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước.
7.2. Chi trả nợ, lãi công trái, trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước.
Hiện nay trong ngân sách Nhà nước có hai khoản tiền chi trả về tiền vay trong nước là trả nợ công trái quốc gia phát hành những năm trước đây và chi trả lãi tiền vay bằng tín phiếu kho bạc Nhà nước và trái phiếu. Việc tiến hành các nghiệp vụ chi trả cụ thể hiện nay do kho bạc Nhà nước thực hiện.
Đối với trả nợ tín phiếu, nguyên tắc chi trả là trước mắt, ngân sách Nhà nước chỉ tạm thời bố trí chi trả nợ tiền vay, còn nợ gốc sẽ dùng hình thức vay mới trả cũ, động viên nhân dân yêu cầu vẫn phải bố trí trả kịp thời. Sau này khi nguồn thu của ngân sách Nhà nước khá hơn, sẽ bố trí trả dần tiền gốc vay.
7.3. Chế độ chi trợ giá.
Trong chế độ chi ngân sách Nhà nước có khoản chi trợ giá cho một số mặt hàng thiết yếu mà còn việc sản xuất, tiêu dùng gắn với việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Hàng hóa được ngân sách Nhà nước trợ cấp giá bao gồm:
- Các mặt hàng thiết yếu cho miền núi, vùng cao, vùng sâu có khó khăn như muối i ốt, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa bệnh;
- Các mặt hàng thuộc diện chính sách giữ giống gốc quốc gia, sách báo chính trị phục vụ công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Nhà nước trợ giá cước vận chuyển các mặt hàng thiết yếu cho miền núi, hải đảo.
No comments:
Post a Comment