17/09/2014
Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính - Chương II - Ngân sách nhà nước và Luật ngân sách nhà nước
CHƯƠNG II

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính. Hiện tượng ngân sách ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát triển của nhà nước. 

Các nhà khoa học về lịch sử và kinh tế đã chứng minh rằng chính sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn tới sự ra đời tiền tệ. Sau 3 lần phân công lao động xã hội đóng vai trị quan trọng trong sự phân hóa các giai cấp trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết quả là sự ra đời của giai cấp thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời dẫn đến các quan hệ trao đổi mua bán cũng phát triển mạnh mẽ, cùng với nó là sự xuất hiện của tiền tệ.

Tiền tệ ra đời giữ vai trò là vật ngang giá chung, trung gian trong việc trao đổi hàng hóa.


Cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, khi mâu thuẫn giữa các giai cấp đã không còn được dung hòa bởi tổ chức của thị tộc, nhà nước đã ra đời. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hóa. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước làm nảy sinh nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi Nhà nước dựng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia quá trình phân phối của cải với tư cách chủ thể quyền lực chính trị. Trong các hình thức được nhà nước sử dụng để tập trung của cải thì thuế là hình thức được sử dụng sớm nhất và cũng có vai trò quan trọng nhất. Nhà nước tham gia quá trình phân phối của cải xã hội hình thức giá trị để lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước đã hình thành nên ngân sách Nhà nước. Nói cách khác, sự ra đời của kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, cùng với nó là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực phân phối và phân phối lại của cải xã hội đã hình thành nên kho tài sản của nhà nước, phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước chính là mầm mống ban đầu của hiện tượng ngân sách nhà nước.

Hiện tượng ngân sách nhà nước tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của các kiểu nhà nước trong lịch sử phát triển xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ ngân sách nhà nước chỉ được bắt đầu sử dụng khi các khoản thu chi của nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật, tức là, có sự xác định, thừa nhận, công khai hoá bằng luật pháp đối với những khoản thu chi của nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước. 

Về khái niệm ngân sách nhà nước, có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Quan điểm thứ nhất cho rằng ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của nhà nước trong 1 khoản thời gian nhất định. Có quan điểm lại cho rằng, ngân sách nhà nước chính là quỹ tiền tệ của nhà nước. Thật ra, những định nghĩa về ngân sách nhà nước theo những quan điểm khác nhau đều thể hiện sự khái quát hiện tượng ngân sách nhà nước ở những phương diện khác nhau. Để có cách hiểu đầy đủ về ngân sách nhà nước, chúng ta tìm hiểu khái niệm này từ 2 phương diện:

Một là, do ngân sách là một phạm trù kinh tế, vậy nên, ngân sách nhà nước sẽ được xem xét về mặt bản chất và cả về phương diện vật chất.

Xét về mặt bản chất, ngân sách nhà nước thể hiện hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Điều này xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân sách nhà nước với nhà nước. Ngân sách nhà nước vốn được hình thành từ việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào hoạt động phân phối của cải trong xã hội vốn được tạo nên từ nhiều chủ thể khác nhau cùng tồn tại trong xã hội. Do vậy ngân sách nhà nước thể hiện mối quan hệ xã hội giữa nhà nước và các chủ thể khác nhau trong quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. 

Xét về phương diện vật chất, trên thực tế, ngân sách nhà nước tồn tại dưới dạng vật chất là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Quỹ tiền tệ này gắn liền với việc đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của tất cả các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp. Đó là nguồn vốn, kinh phí hay những khoản tiền cụ thể mà nhà nước tập trung được vào tay mình sau khi tham gia vào quá trình phân phối của cải trong xã hội. 

Hai là, xuất phát từ việc ngân sách vốn là một trong những phạm trù pháp lý, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, các khoản thu chi của nhà nước được công khai và thể chế thành pháp luật nhằm tránh hiện tượng lạm quyền. Ngân sách nhà nước trở thành phạm trù pháp lý. Điều này được thể hiện thông qua việc hình dung ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước, là bảng dự toán toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để trở thành một đạo luật có giá trị pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể có liên quan. Chính vì vậy mà pháp luật thực định đưa ra định nghĩa về ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong khoảng thời gian là một năm để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

2. Vai trò của ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước giữ vai trò là công cụ phân phối. Điều này được thể hiện thông qua việc nhà nước huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thông qua việc tiến hành cân đối giữa các khoản thu và chi của nhà nước, nhà nước có thể hoạch định chính sách trong điều tiết thu nhập, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi, giữa tích luỹ tiêu dùng, đầu tư phát triển, tiết kiệm.

Ngân sách nhà nước giữa vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua việc điều hồ các nguồi tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích hay hạn chế sản xuất, tiêu dùng bằng các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước có thể điều tiết thu nhập của các chủ thể khác nhau trong xã hội, xử lý mối quan hệ giữa tích luỹ, đầu tư và tiêu dùng, điều chỉnh giá cả, ổn định thị trường, chống lạm phát.

Ngân sách nhà nước còn giữ vai trò là công cụ thực hiện chính sách xã hội. Bằng chính sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động ngân sách nhà nước để thực hiện ưu đã cho các đối tượng chính sách, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng xã hội. Ngoài ra, ngân sách nhà nước còn cung cấp phương tiện tài chính để nhà nước thực hiện trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng.


II. KHÁI NIỆM LUẬT NGÂN SÁCH


1. Định nghĩa Luật Ngân sách:

Việc sử dụng ngân sách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đã hình thành hệ thống quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực ngân sách bao gồm bao gồm những quan hệ phân phối liên quan đến nguồn vốn tiền tệ của nhà nước. Do vậy, những quan hệ này cần phải được pháp luật điều chỉnh để việc phát sinh, thay đổi chúng phù hợp với lợi ích của nhà nước, xã hội. Nói cách khác, việc chuyển giao, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phải tuân theo quy chế pháp lý nghiêm ngặt để đảm bảo yêu cầu quản lý của nhà nước. Chính trong điều kiện đó đã hình thành nên nhóm các quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này: luật ngân sách. Luật Ngân sách là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ thuộc về ngân sách nhà nước.

Luật Ngân sách phân biệt với Luật Ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước chỉ là một bộ phận của pháp luật thực định về Luật Ngân sách. Ngoài ra, luật ngân sách cũng phân biệt với thuật ngữ pháp luật ngân sách nhà nước-một cụm từ khái quát về bộ phận pháp luật thực định về ngân sách nhà nước, bao gồm Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật về ngân sách nhà nước khác.

2. Quan hệ pháp luật ngân sách:

Quan hệ pháp luật ngân sách là những quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tập trung, phân phối, 
sử dụng, quản lý quỹ ngân sách nhà nước được quy phạm pháp luật về ngân sách điều chỉnh.

Đặc điểm của quan hệ pháp luật ngân sách:

-Luôn có sự tham gia của ít nhất một bên là nhà nước hoặc cơ quan đại diện của nhà nước trong tất cả các quan hệ pháp luật ngân sách.

-Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách không phải do tự ý xác lập một quan hệ pháp luật mà được pháp luật quy định trước, kể cả quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không phải theo thoả thuận mà sẽ do pháp luật quy định, buộc các bên phải tuân theo.

-Việc tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách của các chủ thể trước hết vì lợi ích kinh tế-xã hội của nhà nước.

Căn cứ vào tính chất, quan hệ pháp luật ngân sách được phân biệt thành:

-Nhóm các quan hệ về phân cấp quản lý, điều hành ngân sách. Nhóm quan hệ này hình thành trong lĩnh vực tổ chức hệ thống ngân sách, phân định quyền hạn về ngân sách và phân phối nhiệm vụ thu chi ngân sách giữa các cấp chính quyền nhà nước.

-Nhóm các quan hệ trong quá trình tạo lập, thông qua dự toán ngân sách nhà nước giữa cơ quan chính quyền nhà nước các cấp cũng như tất cả các chủ thể có liên quan đến việc sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

-Nhóm các quan hệ về chấp hành ngân sách nhà nước. Nhóm các quan hệ này hình thành trong quá trình thực hiện các khoản thu, chi ngân sách nhà nước trên thực tiễn.

-Nhóm các quan hệ về quyết toán ngân sách nhà nước, bao gồm những quan hệ trong quá trình lập quyết toán, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước và những quan hệ về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước.

3. Chế độ pháp lý về tổ chức hệ thống ngân sách:

Hệ thống ngân sách là một thể thống nhất được tạo thành từ các bộ phận cấu thành nên ngân sách: các khâu ngân sách. Giữa các khâu trong hệ thống ngân sách vừa độc lập, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mình.

Hệ thống ngân sách thường được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền nhà nước nhưng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách. Điều kiện cần và đủ để một cấp chính quyền trở thành cấp ngân sách:

-Nhiệm vụ của cấp chính quyền tương đối toàn diện trên các lĩnh vực phát triển về hành chính, xã hội kinh tế ở vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý.

-Tổng hợp các nguồn thu trên lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý có khả năng giải quyết phần lớn nhu cầu chi tiêu của mình.

Hệ thống ngân sách ở Việt Nam:

-Từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước 1967: Việt Nam chỉ tồn tại 1 ngân sách duy nhất được gọi chung là ngân sách nhà nước, ở đó không có sự phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền nhà nước trong quản lý ngân sách nhà nước. Mỗ cấp chính quyền chỉ là một đơn vị dự toán của ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động huy động các nguồn tài chính đều nhằm hình thành quỹ ngân sách nhà nước tập trung và mọi chi tiêu từ quỹ tiền tệ này đều nhằm mục tiêu chung của cả nước là kháng chiến thắng lợi.

-Từ 1967, khai sinh chế độ phân cấp quản lý ngân sách. Theo đó, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là khái niệm hàm chỉ mô hình quản lý ngân sách nhà nước mà trong đó Chính quyền trung ương phân giao cho chính quyền địa phương thực hiện một số nghiệp vụ nhất định trong hoạt động ngân sách nhà nước. Mô hình này được áp dụng ở những quốc gia xem ngân sách nhà nước là duy nhất và thống nhất, cả nước chỉ có một ngân sách do nhà nước quản lý. Trong quá trình hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, chính quyền trung ương có thể giao cho chính quyền địa phương thực thi một số nghiệp vụ thu chi cần thiết có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của cấp chính quyền trên địa bàn mà mình quản lý.

-Từ 1976 đến 1978, hệ thống ngân sách ở Việt Nam gồm 2 cấp: ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh. Việc xác lập hệ thống ngân sách gồm 2 cấp như vậy không khuyến khích các cấp chính quyền địa phương phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác và huy động nguồn tài chính trên địa bàn để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Ngược lại, các cấp chính quyền địa phương cũng ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của cấp trên.

-1978: hệ thống ngân sách Việt Nam được phân định gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương gồm hai cấp ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện. Mô hình này đã phần nào khắc phục được nhược điểm của hệ thống ngân sách trước đây, góp phần khuyến khích địa phương khai thác được tiềm năng và thế mạnh trong việc huy động nguồn thu phát sinh trên địa bàn.

-1983: hệ thống ngân sách Việt Nam được xây dựng gồm 4 cấp tương đương với 4 cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước: Ngân sách Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Điều này đặt ra yêu cầu phải phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách ở địa phương và chính quyền các cấp ở địa phương cần được phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể. Cơ chế phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi tới tận ngân sách cấp huyện, xã vẫn được duy trì trong Luật Ngân sách nhà nước 1996 (sửa đổi bổ sung 1998).

-Luật Ngân sách nhà nước 2002 hệ thống ngân sách Việt Nam đuợc thiết lập bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, ngân sách địa phương sẽ hàm chứa ngân sách cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội chỉ phân giao nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho ngân sách trung ương và xác định tổng khối lượng thu-chi cho ngân sách của từng địa phương. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực cao nhất của địa phương: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ được phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc phân phối thu chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Rõ ràng, với hệ thống ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002 việc phân cấp trong quản lý ngân sách nhà nước đã được đẩy mạnh, tăng tính chủ động, linh hoạt cho từng địa phương.

Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý hệ thống ngân sách:

-Đảm bảo tính tập trung thống nhất của ngân sách nhà nước, dự có phân chia các cấp ngân sách theo các cấp chính quyền nhà nước nhưng hệ thống ngân sách vẫn là thống nhất từ trung ương đến địa phương. 

-Đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân sách, có cơ chế phân cấp và quản lý phù hợp để phát huy được tính tự chủ, kích thích khai thác nguồn thu của các cấp ngân sách địa phương, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.


III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:


1. Định nghĩa về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:

Phân cấp ngân sách Nhà nước là sự phân định trách nhiệm về quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cơ quan Nhà nước các cấp trong tổ chức, điều hành, quản lý ngân sách Nhà nước. Thực chất của phân cấp ngân sách là việc phân chia quyền hạn và xác định trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền nhà nước đối với ngân sách cấp mình và ngân sách nhà nước nói chung. Phân cấp quản lý ngân sách sẽ giải quyết được mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề về hoạt động của ngân sách nhà nước như quan hệ về mặt chế độ, chính sách, quan hệ vật chất giữa nguồn thu, nhiệm vụ chi, quan hệ về quy trình ngân sách.

Việc phân cấp quản lý ngân sách phải dựa trên những nguyên tắc sau:

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải phù hợp với phân cấp quản lý các mặt khác của đời sống xã hội và phù hợp với năng lực quản lý của mỗi cấp chính quyền trên địa bàn.

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập, chủ động của ngân sách địa phương.

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải tôn trọng nguyên tắc công bằng.

Phân cấp ngân sách Nhà nước bao gồm nhiều nội dung nhằm giải quyết các mục tiêu sau:

- Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới Ngân sách Nhà nước.

- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, phân phối nguồn thu và cân đối ngân sách Nhà nước.

- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện lập, chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà nước.

Xuất phát từ yêu cầu trên, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được thể hiện trên 2 phương diện:

-Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quản lý, điều hành ngân sách, trong quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước.

-Phân phối nguồn thu, xác định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.

2. Nội dung của  phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:

2.1. Trách nhiệm quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc phân cấp quản lý ngân sách:

Liên quan lĩnh vực ngân sách nhà nước, có rất nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phân định về nhiệm vụ và quyền hạn gắn liền với việc quản lý, thực hiện ngân sách nhà nước, cụ thể như: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế-Ngân sách thuộc Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng nhà nước Việt Nam…

2.1.1 Quốc hội:

Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) nêu rõ: “Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết định sửa đổi bãi bỏ các thứ thuế”. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đối với Ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 15 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, cụ thể:

- Ban hành và sửa đổi luật trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những thẩm quyền quan trọng nhất của Quốc hội – cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

- Quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhằm góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm cân đối ngân sách các cấp.

- Quyết định dự toán ngân sách Nhà nước:

+Tổng số thu ngân sách nhà nước bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, viện trợ không hoàn lại.

+Tổng số chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương chi tiết theo từng lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tổng khối lượng chi ngân sách địa phương

+Mức bội chi và nguồn bù đắp

-Quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Trước đây, đối với phương án phân bổ Ngân sách Nhà nước của Trung ương, Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng hiện nay, theo Luật  Ngân sách nhà nước năm 2002, Quốc hội cũng giữ vai trò trong việc phân bổ ngân sách nhà nước của trung ương. Nội dung cụ thể bao gồm:

+Tổng số và mức chi từng lĩnh vực

+Dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực.

+Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương

- Quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách Nhà nước trong những trường hợp cần thiết.

-Quyết định các chương trình, công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia, có ảnh hưởng to lớn đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội, được đầu tư vốn Ngân sách Nhà nước.

- Quốc hội thực hiện quyền giám sát các hoạt động trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước.

-Phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước.

-Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC về lĩnh vực tài chính-ngân sách trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội các quyết định của Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng tham gia vào một số hoạt động có liên quan đến Ngân sách Nhà nước và mang tính chất giám sát.

2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban Thường vụ Quốc hội

-Ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách được Quốc hội giao; 

-Cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính phủ trình Quốc hội;

- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu theo quy định 

- Ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; 

- Giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách, chính sách tài chính, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội

1) Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Quốc hội, 
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao;

2) Chủ trì thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, các báo cáo về thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính phủ trình Quốc hội;

3) Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính;

4) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách;

5) Kiến nghị các vấn đề về quản lý lĩnh vực tài chính - ngân sách.

2.1.4 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội

1) Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội 
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; 

2) Giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách và việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách;

3) Kiến nghị các vấn đề về tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách.

2.1.5 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước

1) Công bố luật, pháp lệnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách;

2) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều 
ước quốc tế trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định về lĩnh vực tài chính - ngân sách; 

3) Yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác tài chính - ngân sách khi cần thiết.

2.1.6 Chính phủ:

Quyền hạn của Chính phủ liên quan tới ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 112 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa nội dung Luật Ngân sách Nhà nước, cụ thể:

- Trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự án luật và pháp lệnh, ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến Ngân sách Nhà nước thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.

- Lập và trình Quốc hội thông qua dự toán Ngân sách Nhà nước và dự toán phân bố Ngân sách Nhà nước, dự toán điều chỉnh Ngân sách Nhà nước trong trường hợp cần thiết, cũng như quyết tóan các công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia đã được Quốc hội quyết định đầu tư bằng vốn ngân sách.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước cho từng bộ nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân sách Nhà nước Trung ương cho từng địa phương, giao tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đối với các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

- Trước đây, Chính phủ còn được giao nhiệm vụ tổ chức và kiểm tra việc thực hiện ngân sách Nhà nước, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, nhiệm vụ này đã được phân cấp cho Bộ Tài chính thực hiện.

- Thống nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước;

- Tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác;

- Quyết định việc sử dụng dự phòng ngân sách; quy định việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính và các nguồn dự trữ tài chính khác của Nhà nước theo quy định của Luật này;

- Quy định hoặc phân cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước; đối với những định mức phân bổ và chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản trước khi ban hành; 

- Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực tài chính - ngân sách; trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên thì Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thực hiện và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 

- Lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án và công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định; 

- Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.

Ngoài ra, tham gia tổ chức và điều hành Ngân sách Nhà nước còn có các cơ quan chức năng như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước…

2.1.7 Bộ Tài chính: 

1) Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách và xây dựng chiến lược kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách theo thẩm quyền;

2) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo cáo, công khai tài chính - ngân sách trình 
Chính phủ quy định hoặc quy định theo phân cấp của Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước; 

3) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương; tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; chóng nhất quản lý và chỉ đạo công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của ngân sách nhà nước, các nguồn viện trợ quốc tế' tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước theo đúng dự toán được giao; lập quyết toán ngân sách trung ương; tổng hợp, lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ; tổ chức quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản của Nhà nước;

4) Kiểm tra các quy định về tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp quy định trong các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, có quyền kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ đối với những quy định của Bộ, cơ quan ngang Bộ; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành đối với những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đình chỉ việc thi hành hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ đối với những quy định của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

5) Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc gia; 

6) Thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các vi phạm về chế độ quản lý tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, các địa phương, các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và sử dụng ngân sách nhà nước; 

7) Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật. 

2.1.8 Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

1) Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách;

2) Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán ngân sách nhà nước. Lập phương án phân bổ ngân sách trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo phân công của Chính phủ; 

3) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.

2.1.9 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1) Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước; 

2) Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

2.1.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương

1) Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan mình;

2) Phối hợp với Bộ Tài chính trong quá trình lập dự toán ngân -sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;

3) Kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; 

4) Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách theo chế độ quy định;

5) Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;

6) Quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán đối với ngân sách được giao; bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước được giao.

2.1.10 Hội đồng nhân dân các cấp:

-Căn cứ vào nhiệm vụ thu chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp được quyết định:

+Dự toán ngân sách Nhà nước cấp mình và ngân sách nhà nước trên địa bàn thuộc địa phương quản lý. Về nguyên tắc, cấp trên không quyết định chi tiết ngân sách Nhà nước của cấp dưới. Tuy nhiên, quyết định về ngân sách Nhà nước của Hội đồng nhân dân không thể trái với định hướng chung, không trái với Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách Nhà nước.

+Phân bổ ngân sách Nhà nước (tổng số và mức chi từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, 
đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới), 

+Phê chuẩn, quyết toán ngân sách Nhà nước cấp mình. 

-Quyết định chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương.

-Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.

-Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.

-Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính-ngân sách của UBND cùng cấp và Hội đồng nhân 
cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, NGhị quyết  của UBTVQH và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

-Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ quyền hạn nói trên, HĐND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ:

+Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương.

+Quyết định tỉ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân 
sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương.

+Là cơ quan quyền lực ở địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyền ban hành một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy định của Chính phủ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phép quyết định và thực hiện huy động vốn trong nước cho đầu tư trong trường hợp cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng mà vượt quá khả năng cân đối của địa phương. Với quyền hạn này, cấp tỉnh sẽ có thể phát huy tiềm năng để bồi dưỡng và tăng nguồn thu, chủ động bố trí chi tiêu hợp lý.

+Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi theo quy định của Chính phủ.

2.1.11 Ủy ban nhân dân các cấp:

1) Lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình theo các chỉ tiêu quy định; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

2) Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

3) Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính - ngân sách;

4) Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định 

5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia phương;

6) Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn;

7) Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;

8) Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm trên, còn có nhiệm vụ lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cùng cấp 

9) Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy định 

2.1.12. Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị dự toán ngân sách

1) Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý, thực hiện phân bổ dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự toán theo thẩm quyền;

2) Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản phải nộp ngân sách theo quy định của pháp luật; chi đúng chế độ, đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo đúng chế độ quy định;

3) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với các đơn vị trực thuộc; 

4) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; báo cáo, quyết toán ngân sách và công khai ngân sách theo quy định của pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự toán cấp dưới;

5) Đối với các đơn vị dự toán là đơn vị sự nghiệp, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm trên còn được chủ động sử dụng nguồn thu sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định của Chính phủ.

2.1.13 Tổ chức, cá nhân 

1) Nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào ngân sách theo quy định của pháp luật;

2) Trường hợp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo dự toán được giao thì phải quản lý, sử dụng các khoản vốn và kinh phí đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có hiệu quả và quyết toán với cơ quan tài chính; 

3) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và công khai ngân sách.

2.2. Phân định nhiệm vụ chi, nguồn thu giữa các cấp ngân sách Nhà nước:

2.2.1 Nguyên tắc:

-Ngân sách trung ương-ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể. Việc phân định được đảm bảo bằng pháp luật. Các cấp chính quyền không được phép đặt ra hoặc điều chỉnh khoản thu của ngân sách cấp mình. Mỗi cấp ngân sách chỉ phải tiến hành nhiệm vụ thu chi trên cơ sở luật định.

-Bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới phải đảm bảo công bằng, đảm bảo yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới. Việc bổ sung không phải được thực hiện đồng loạt đối với mọi cấp ngân sách mà dựa trên khả năng thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách mà ngân sách cấp trên sẽ thực hiện việc cấp bổ sung.

-Không được dựng ngân của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp ngân sách khác. Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp ngân sách thực hiện nhiệm vụ đó.

2.2.2 Phân định nguồn thu nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách:

2.2.2.1. Thu của ngân sách Nhà nước địa phương:

Ngân sách Nhà nước địa phương bao gồm ba cấp ngân sách: Ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã. Mỗi cấp ngân sách Nhà nước đều được hình thành từ ba nguồn thu: thu cố định, thu điều tiết và thu bổ sung.

* Thu cố định: Khoản thu phát sinh tại địa phương và địa phương được hưởng 100%. Tùy theo từng cấp ngân sách địa phương mà nguồn thu cố định là khác nhau:

- Khoản thu 100% vào  ngân sách Nhà nước của Tỉnh:

+Thuế nhà, đất

+Thuế tài nguyên

+Thuế môn bài

+Thuế chuyển quyền sử dụng đất và thuế sử dụng đất nông nghiệp

+Tiền sử dụng đất

+Tiền cho thuê đất 

+Tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước

+ Lệ phí trước bạ của nhà, đất

+Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa 
phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.

+ Toàn bộ thu từ hoạt động xổ số.

+ Thu kết dư ngân sách Nhà nước.

+ Các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức trực tiếp cho địa phương.

+ Các khoản thu khác (phí, lệ phí thu từ hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách cấp tỉnh)

- Khoản thu 100% của ngân sách Nhà nước huyện:

+ Thuế môn bài, trừ thuế môn bài của các hộ kinh doanh nhỏ.

+ Thuế sát sinh của tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn.

+ Các khoản phí và lệ phí quy định cho ngân sách huyện.

+ Viện trợ không hoàn lại.

+ Các khoản thu từ kết dư ngân sách Nhà nước và thu khác.

- Khoản thu 100% của ngân sách Nhà nước cấp xã: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, Ngân sách cấp xã được tăng thu, tuy nhiên, chủ yếu tăng thu từ nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, cu thể:

+ Thuế môn bài từ các hộ kinh doanh nhỏ.

+ Thuế sát sinh do cá nhân giết mổ.

+ Các khoản phí, lệ phí quy định cho ngân sách xã.

+ Các khoản thu từ sự nghiệp dịch vụ của xã.

+ Các khoản thu từ đóng góp, ủng hộ.

+ Thu kết dư và các khoản thu khác.

* Thu điều tiết: Là khoản thu phát sinh trên địa bàn địa phương được hưởng theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định. Thu điều tiết phát sinh trong trường hợp các khoản thu cố định của địa phương không đáp ứng được nhiệm vụ và chỉ tiêu được giao.

Tỷ lệ điều tiết cho các cấp ngân sách Nhà nước được ổn định từ 3 đến 5 năm, tạo cho địa phương chủ động trong bố trí kế hoạch ngân sách hàng năm và khuyến khích đầu tư tạo nguồn thu. NGười ta có thể gọi giai đoạn cố định tỷ lệ phần trăm của các khoản thu được điều tiết theo tỷ lệ phần trăm là thời kỳ ổn định ngân 
sách.

- Các khoản thu điều tiết giữa ngân sách Nhà nước Trung ương và ngân sách Nhà nước cấp tỉnh:

+ Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu.

+ Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thu nhập của hoạt động xổ số).

+ Thuế thu nhập cá nhân.

+ Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước.

        +Phí xăng dầu.
Ngoài khoản thu điều tiết này, kết thúc năm ngân sách Nhà nước, nếu tỉnh hoàn thành vượt mức kế hoạch thu ngân sách Nhà nước Trung ương về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt thì ngân sách nhà nước ở địa phương còn được trích một phần theo tỷ lệ phần trăm của số tăng để để giữ lại cho ngân sách của địa phương, với tính chất là khoản thưởng cho ngân sách Nhà nước của địa phương đó.

- Các khoản thu điều tiết giữa các cấp ngân sách Nhà nước tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã.

+ Thuế chuyển quyền sử dụng đất.

+ Thuế nhà, đất.

+ Thu tiền sử dụng đất.

+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp.

+ Thuế tài nguyên.

+ Lệ phí trước bạ nhà đất.

+ Thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng sản xuất trong nước (trừ sản xuất rượu, bia, thuốc lá, pháo, xăng dầu, ô tô).

Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách Nhà nước các cấp chính quyền địa phương trong đó đối với các thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì tỷ lệ điều tiết tối đa không quá tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách Nhà nước Trung ương với ngân sách Nhà nước tỉnh, đối với các xã, thị trấn tối đa không quá tỷ lệ điều tiết được phân chia cho huyện.

Riêng đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ngoài nguồn thu điều tiết trên vẫn được tính thêm các khoản thu theo tỷ lệ phần trăm gồm có: Thuế giá trị gia tăng trên địa bàn (không kể thuế giá trị gia tăng của hoạt động xổ số), thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thu nhập của các đơn vị hạch tóan toàn ngành và xổ số), lệ phí trước bạ trên địa bàn nếu có.

* Thu bổ sung: trong trường hợp thu cố định và thu điều tiết của địa phương không đảm bảo được yêu cầu chi được phân cấp, sẽ được ngân sách Nhà nước cấp trên bù. Số thu bổ sung được xác định riêng cho từng cấp ngân sách địa phương dựa trên các tiêu thức dân số, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng và có chú ý đến vùng sâu, vùng xa.

Số thu bổ sung được ổn định từ 3 – 5 năm và được điều chỉnh hàng năm tùy theo tỷ lệ trượt giá do Thủ tướng chính phủ công bố. Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định mức bổ sung từ ngân sách Nhà nước cấp huyện cho ngân sách Nhà nước cấp xã.
Ngoài các khoản thu trên, ngân sách Nhà nước cấp tỉnh được huy động vốn trong nước. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Trường hợp tỉnh có nhu cần đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm thuộc danh mục đầu trong kế hoạch 5 năm đã đựơc HĐND cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được phép huy động vốn trong nước bằng cách phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước 
hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

2.2.2.2. Nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước địa phương:

Nhiệm vụ chi của từng cấp ngân sách Nhà nước địa phương phụ thuộc vào việc phân cấp quản lý hành chính – kinh tế của mỗi cấp chính quyền. Các khoản chi của từng cấp ngân sách Nhà nước địa phương nội dung có thể giống nhau nhưng khác nhau về mức độ và đối tượng chi. Chi ngân sách Nhà nước địa phương gồm:

- Chi thường xuyên: bao gồm 

+Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học công nghệ môi trường các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý.

+Chi cho an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);

+Chi cho hoạt động của cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương…

+Chi hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật

+Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý

+Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý

+Trợ giá theo chính sách của nhà nước

- Chi đầu tư phát triển.

+Đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội do địa phương quản lý
+Đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính nhà nứoc theo quy định pháp luật.
-Chi trả nợ gốc và lãi những khoản tiền huy động cho đầu tư xây dựng công trình, kết cấu hạ tầng thông qua việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.
- Chi bổ sung cho ngân sách Nhà nước cấp dưới.
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.

2.2.2.3 Phân định nguồn thu của ngân sách Nhà nước Trung ương:

Do vị trí chủ đạo trong hệ thống ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước Trung ương cần phải tập trung được những nguồn ngân sách Nhà nước cơ bản nhất.

* Các khoản thu cố định gồm:

- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Thuế tiêu thụ đặc biệt.

- Thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.

- Các khoản thuế và thu khác về dầu khí.

- Lợi tức từ góp vốn của Nhà nước, thu hồi tiền cho vay.

- Các khoản phí và lệ phí quy định nộp vào ngân sách Nhà nước Trung ương.

- Thu kết dư.

- Các khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức cá nhân nước ngoài cho chính phủ Việt Nam

* Khoản thu điều tiết chuyển về cho ngân sách Nhà nước Trung ương sau khi đã để lại cho địa phương theo tỷ lệ điều tiết ổn định:

-Thuế VAT (Trừ thuế VAT đối với hàng hoá nhập khẩu)

-Thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ thuế TNDN đối với DN hạch toán toàn ngành)

-Thuế thu nhập cá nhân

-Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hoá, dịch vụ trong nước.

-Phí xăng, dầu

* Trong trường hợp cần phải bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước Trung ương được phép vay trong nước hoặc vay nước ngoài nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ cho đầu tư nhưng không được sử dụng bất kỳ khoản vay nào nhằm mục đích phục vụ cho các khoản chi thường xuyên; đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, ngân sách nhà nước thường ưu tiên chọn giải pháp vay trong nước dưới hình thức các loại giấy tờ có giá ngắn hoặc dài hạn.

2.2.2.4 Nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước Trung ương:

- Chi thường xuyên:

+Cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, dạy nghề,y tế, xã hội,văn hóa thông tin,văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường

+Các sự nghiệp kinh tế do Trung ương quản lý, các sự nghiệp kinh tế khác do Trung ương quản lý

+ Chi cho các nhiệm vụ về quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội do ngân sách trung ương bảo đảm theo yêu cầu của Chính phủ; 

+Chi thường xuyên cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương thuộc hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ quan Đảng CSVN và các tổ chức chính trị xã hội.
+Chi trợ giá theo yêu cầu chính sách nhà nước
+Chi thường xuyên dành cho các đối tượng chính sách như thực hiện chế độ đối với những người về hưu, nghỉ mất sức theo quy định của Luật Lao động, chi cho các đối tượng thương binh, bệnh binh, liệt sĩ…
+Chi thuờng xuyên hỗ trợ cho các tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp thuộc trung ương.
+Chương trình quốc gia do Trung ương thực hiện.
+Chi hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo luật định.
- Chi đầu tư phát triển:

+ Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn; 

+Đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng, cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước. Trước đây, theo Luật Ngân sách nhà nước 1998, ngân sách nhà nước chỉ phải chi đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp nhà nước mà không đề cập đến các tổ chức kinh tế dưới dạng góp vốn cổ phần.

+Chi bổ sung dự trừ nhà nước dưới dạng bổ sung cho dự phòng ngân sách trung ương.
+Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật. 

+Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước do cơ quan trung ương thực hiện
+Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của nhà nước do trung ương quản lý

- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính trung ương.

- Chi bổ sung cho ngân sách địa phương

- Chi cho vay theo quy định của pháp luật.

- Chi viện trợ

- Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.

2.2.2.5 Mối liên hệ giữa việc phân định nguồn thu-nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách

Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện như sau: 

1) Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể;

2) Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách; 

3) Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;

4) Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm; việc ban hành và thực hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp;

5) Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó;

6) Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dưới; 
Việc xác định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia phần ngân sách địa phương được hưởng thực hiện theo công thức sau:
Gọi:
Tổng số chi ngân sách địa phương (sau khi trừ đi các khoản sau: chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới, chi từ nguồn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương, chi đầu tư từ nguồn huy động theo Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước, chi từ nguồn đóng góp tự nguyện, chi từ nguồn viện trợ, chi từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước, chi chuyển nguồn sang ngân sách năm sau) là A.
Tổng số các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% (sau khi trừ đi các khoản thu sau: thu bổ sung từ ngân sách cấp trên, thu kết dư, thu huy động theo Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước, thu từ đóng góp tự nguyện, thu viện trợ, thu chuyển nguồn từ ngân sách năm trước) là B.
Tổng số các khoản thu được phân chia giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương là C. 
Nếu A - B  < C  thì tỷ lệ phần trăm (%) phân chia được tính theo công thức:
                                           A  - B
Tỷ lệ phần trăm (%)  = ----------------  x 100 %
                                               C

Nếu A - B  ≥ C thì tỷ lệ phần trăm (%) xác định bằng 100% và phần chênh lệch sẽ được ngân sách trung ương bổ sung để cân đối ngân sách địa phương. 

7) Trong thời kỳ ổn định ngân sách các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời ký ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dân số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên;

8) Ngoài việc ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi và bổ sung nguồn thu quy định tại điểm 5 và điểm 6 ở trên, không được dựng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ


IV. QUẢN LÝ QUỸ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm:

Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước là việc xây dựng kế hoạch tạo lập, sử dụng ngân sách Nhà nước tập trung các khoản thu, tổ chức và điều hòa vốn tiền mặt đảm bảo thực hiện chi trả tiền ngân sách Nhà nước.

Việc quản lý quỹ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính thống nhất, tính đầy đủ và tính phân cấp.
Tính thống nhất thể hiện trong các chế độ, chính sách, phương thức quản lý và sự thống nhất khi sử dụng đơn vị tiền tệ để hạch toán, Luật Ngân sách nhà nước quy định mọi khoản  thu, chi ngân sách Nhà nước đều phải được hạch toán bằng đồng Việt Nam).
Tính toán đầy đủ yêu cầu tất cả các khoản thu chi của ngân sách phải được hạch toán đầy đủ vào ngân sách Nhà nước. Các khoản thu do cơ quan thu trực tiếp thu phải nộp tiền vào kho bạc và phải báo cáo với cơ quan tài chính, kho bạc để hạch toán và làm các thủ tục cấp phát, thanh toán.
Tính phân cấp đòi hỏi nguồn thu của ngân sách cấp nào phải tập trung vào ngân sách cấp đó, không được sử dụng quỹ của ngân sách cấp này để chi cho ngân sách cấp khác.
Hoạt động quản lý quỹ ngân sách Nhà nước bao gồm các nội dung sau:
Xây dựng kế hoạch tạo lập và sử dụng quỹ Ngân sách Nhà nước, lập và cụ thể hóa thu chi ngân sách Nhà nước cả năm và theo định kỳ kế hoạch.
Tập trung các nguồn thu là việc sử dụng hệ thống pháp luật thu hiện hành, các nghiệp vụ và kế hoạch thu được phân bổ để tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước, kể cả việc thực hiện các nghiệp vụ vay.
Tổ chức điều tiết nguồn thu cho từng cấp ngân sách Nhà nước trên cơ sở kế hoạch đã được phân bổ, bảo đảm nguồn kinh phí kịp thời cho các cấp ngân sách Nhà nước.
Thực hiện chi trả, cấp phát cho các đối tượng, kiểm tra việc sử dụng kinh phí theo chế độ chi tiêu của Nhà nước.

2. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước:

2.1. Hệ thống cơ quan tài chính Nhà nước và nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước.
Hệ thống quản lý quỹ ngân sách Nhà nước được diễn ra liên tục ở tất cả các khâu của hệ thống cơ quan tài chính. Mỗi tổ chức trong hệ thống cơ quan tài chính có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể đối với công tác quản lý quỹ ngân sách Nhà nước.
Bộ Tài chính cùng với các cơ quan tài chính địa phương là hệ thống cơ quan quản lý chuyên môn tổng hợp, có chức năng quản lý ngân sách Nhà nước, bảo đảm điều kiện vật chất để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước một cách có hiệu quả và tiết kiệm. Dựa vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và khả năng thu của các cơ quan thu, cơ quan tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thu và chi ngân sách toàn bộ hệ thống, đồng thời tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động có liên quan tới quỹ ngân sách Nhà nước.
Cơ quan thuế là một bộ phận trong hệ thống cơ quan tài chính có chức năng xác định khả năng thu những khoản nộp bắt buộc để tạo nguồn cho ngân sách. Hoạt động này của cơ quan thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì các khoản thu về thuế đóng vai trị quyết định cho việc hình thành quỹ ngân sách Nhà nước, cơ quan thuế các cấp phải có những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ thu, nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính.
Cơ quan thuế được tổ chức thành hệ thống thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách trên địa bàn hoạt động.
Kho bạc Nhà nước là một tổ chức trong hệ thống cơ quan tài chính, có chức năng quản lý quỹ ngân sách Nhà nước. Nhiệm vụ chủ yếu của kho bạc là tập trung và phản ánh các khoản thu ngân sách Nhà nước, thực hiện điều tiếu số thu ngân sách Nhà nước cho các cấp ngân sách Nhà nước và thực hiện chi trả, kiểm soát chi ngân sách Nhà nước theo từng đối tượng thụ hưởng theo dự toán được duyệt. Trong kho bạc Nhà nước được tổ chức theo hệ thống dọc, thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo 3 cấp.

2.2. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý tài chính Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước:

2.2.1. Hoạt động xây dựng kế hoạch ngân sách Nhà nước:

Cơ quan tài chính có trách nhiệm cùng các đơn vị Trung ương và địa phương xây dựng dự án ngân sách Nhà nước và dự án phân bổ ngân sách Nhà nước Trung ương để trình Chính phủ, đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.
Cơ quan thuế có trách nhiệm đánh giá tình hình thực hiện các khoản thu trong năm kế hoạch dựa trên những dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội để dự kiến số thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác.
Cơ quan Hải quan các cấp lập dự toán thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các khoản thu khác liên quan đến xuất nhập khẩu cấp mình quản lý gởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2.2.2. Tập trung các nguồn thu ngân sách:
Theo Luật Ngân sách Nhà nước, chỉ có cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan hải quan và các cơ quan khác được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước (gọi chung là các cơ quan thu) mới được tổ chức thu ngân sách Nhà nước.
Cơ quan thuế có trách nhiệm xác định mọi nguồn thu từ thuế, lệ phí, và các khoản thu khác. Tất cả các nguồn thu và khoản thu đều do cán bộ thuộc ngành thuế viết biên lai. Trường hợp đặc biệt cần ủy nhiệm cho các ngành, các tổ chức hoặc cá nhân, Nhà nước có quy định cụ thể về phương thức thu, thời gian nộp tìên vào kho bạc Nhà nước và báo cáo định kỳ để tránh tình trạng biển thủ, tham ô tiền thuế.
Cơ quan Hải quan Việt Nam là cơ quan Nhà nước được giao trách nhiệm quản lý mọi hoạt động di chuyển hàng hóa qua biên giới Việt Nam, giữ vững an ninh kinh tế và trật tự an toàn xã hội cũng như giữ vững những truyền thống văn hóa dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ này trong hoạt động của mình, cơ quan hải quan cũng tiến hành thu những khoản thu nhất định mà chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu và các khoản khác như phí, lệ phí, tiền phạt v.v… Vì vậy, trong nhiệm vụ tập trung các nguồn của quỹ ngân sách Nhà nước, cơ quan Hải quan có những trách nhiệm xác định rõ thuế xuất, nhập khẩu, kể cả xuất nhập khẩu tiểu ngạch của đơn vị để đối tượng nộp trực tiếp tại kho bạc (nếu là tiền mặt) hoặc chuyển vào tài khoản chuyên thu của cơ quan Hải quan mở tại kho bạc; có trách nhiệm chủ động bố trí cán bộ, phương tiện đảm bảo thu hết số thiền thuế theo kế hoạch.
Đối với các tổ chức kinh tế và tư nhân có địa điểm sản xuất kinh doanh cố định, có mức thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước khác bằng tiền mặt lớn, kho bạc thu trực tiếp tại các điểm thu theo quy định. Việc bố trí các điểm thu của kho bạc (nhất là các điểm lưu động), phải đảm bảo được sự thuận tiện và an toàn cho đối tượng nộp, cho việc vận chuyển tiền về Kho bạc nhằm tập trung các nguồn thu vào ngân sách Nhà nước nhanh và có hiệu quả, giảm hiện tượng xâm tiêu thuế cũng như nợ đọng thuế, thực hiện sự kiểm tra giám sát lẫn nhau giữa cơ quan phát lệnh thu và cơ quan thu.
Đối với các doanh nghiệp nếu nộp thuế và các khoản phải nộp khác bằng chuyển khoản, có thể nộp vào tài khoản tiền gửi của kho bạc Nhà nước mở tại Ngân hàng nơi doanh nghiệp đó mở tài khoản chuyên thu tại Kho bạc Nhà nước để nộp thuế và các khoản phải nộp khác. Quan hệ thu nộp này được thực hiện do hệ thống Kho bạc được phép mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh. Các doanh nghiệp thực hiện nộp thuế vào tài khoản của Kho bạc tại Ngân hàng theo thời hạn và mức thuế được xác định.
Đối với các khoản thu từ thuế và thu khác thực hiện bằng ngoại tệ, kho bạc có thể mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng ngoại thương để các đối tượng thực hiện nghĩa vụ của mình theo lệnh của cơ quan tài chính hoặc cơ quan thuế, căn cứ vào tỷ giá tại thời điểm thực hiện giao dịch để quy đổi tương đương với giá trị của đồng Việt Nam.
Đồng thời với hoạt động thu, Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm hạch toán đầy đủ kịp thời mọi khoản thu ngân sách Nhà nước vào ngân sách Nhà nước, đảm bảo an toàn về số tiền thu được và thực hiện nhập kho tiền theo quy định. Sau khi hạch toán vào tài khoản thu ngân sách Nhà nước, kho bạc phải gửi giấy hồi báo cho cơ quan thuế hoặc cơ quan Hải quan về khối lượng tiền đã thu của từng đối tượng nộp nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng nộp.
Để đảm bảo nguồn thu được tập trung nhanh, kịp thời và đầy đủ vào ngân sách Nhà nước cũng như hạn chế những hiện tượng tiêu cực, Kho bạc có quyền quy định mức tồn quỹ hàng ngày hoặc định kỳ cho cơ quan thuế, cơ quan Hải quan.
2.2.3. Thực hiện điều tiết nguồn thu cho từng cấp ngân sách Nhà nước.
Dựa trên tỷ lệ điều tiết được Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ cho các cấp ngân sách, cơ quan tài chính tổng hợp chuyển cho Kho bạc cùng cấp thực hiện điều tiết thực tế.
Kho bạc Nhà nước căn cứ vào kế hoạch thu và tỷ lệ điều tiết được thông báo khi thực hiện thu, chuyển trả ngay vào sổ thu điều tiết cho ngân sách Nhà nước địa phương, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chi, tránh tình trạng dồn vào cuối quý, cuối năm.
2.2.4. Thực hiện chi trả, cấp phát cho các đối tượng, tiến hành kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước:
Chi ngân sách Nhà nước không phải là những hành vi riêng lẻ, độc lập mà là hành vi sử dụng vốn qua một quy trình từ phân phối cho đến khi sử dụng. Do nhu cầu quản lý kinh tế ngày càng cao, đòi hỏi hoạt động chi ngân sách Nhà nước phải được thực hiện thông qua nhiều các cơ quan khác nhau.
Dựa trên quyết định phân bổ của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp theo phương án phân bổ của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân, gửi đến cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nơi giao dịch kế hoạch tài chính của mình. Các cơ quan tài chính lập kế hoạch bố trí đều kinh phí trong năm để chi và quản lý, theo dõi đối với các khoản chi thường xuyên và có kế hoạch chi chủ động đối với những khoản chi đầu tư.
Kho bạc Nhà nước các cấp dựa vào hạn mức chi do cơ quan tài chính thông báo và lệnh chuyển chi của Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, thực hiện thanh toán cho bên thụ hưởng. Tất cả các khoản chi ngân sách đều được thực hiện trực tiếp tại Kho bạc cho bên thụ hưởng và phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về chi ngân sách Nhà nước.


V. XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


1. Khái niệm vi phạm pháp luật về ngân sách nhà nước

Hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách nhà nước là hành vi làm trái các quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước do chủ thể là tổ chức, cá nhân thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý gây phương hại đến trật tự công cộng và do đó phải gánh chịu những chế tài tương ứng theo qui định của pháp luật .

2. Các hành vi vi phạm pháp luật về NSNN

Những hành vi sau đây là những hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách :

1) Không kê khai hoặc kê khai sai doanh thu, thu nhập, chi phí, giá và các căn cứ tính các khoản phải nộp ngân sách; trì hoãn, nộp không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, trừ trường hợp được phép chậm nộp do cơ quan có thẩm quyền quyết định.

2)Cho miễn, giảm và cho phép chậm nộp các khoản phải nộp ngân sách nhà nước sai thẩm quyền, trái nội dung quy định; giữ lại nguồn thu của ngân sách sai chế độ, sử dụng các nguồn thu được để lại để chi không đúng mục đích, vượt tiêu chuẩn, chế độ, định mức quy định.

3)Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, hoặc chiếm dụng nguồn thu ngân sách.

4) Thực hiện phân chia sai nguồn thu giữa các cấp ngân sách.

5) Thu sai quy định của pháp luật.

6) Chi sai chế độ, không đúng mục đích, không đúng dự toán ngân sách được giao.

7) Duyệt quyết toán sai quy định của pháp luật.

8) Hạch toán sai chế độ kế toán của Nhà nước và Mục lục Ngân sách nhà nước gây thiệt hại cho ngân sách.

9) Tổ chức, cá nhân được phép tự kê khai, tự nộp thuế mà kê khai sai, nộp sai chế độ quy định gây thiệt hại cho ngân sách.

10) Quản lý hoá đơn, chứng từ sai chế độ; mua bán, sửa chữa, làm giả hoá đơn và chứng từ thanh toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp;

11) Trì hoãn việc chi ngân sách khi đã bảo đảm có đủ các điều kiện chi theo quy định; quyết toán ngân sách chậm so với thời hạn quy định.

12) Các hành vi khác trái với quy định của những văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân sách.

3. Các hình thức xử lý

Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho công quỹ thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Các hình thức xử lý vi phạm bao gồm:

- Chế tài hành chính áp dụng cho các vi phạm hành chính trong lĩnh vực NSNN. Chế tài này có thể tước đi một số quyền lợi về vật chất và tinh thần của người vi phạm nhằm khôi phục lại hậu quả và răn đe, giáo dục đối với người vi phạm .

- Chế tài hình sự. Về mặt nguyên tắc, để áp dụng chế tài hình sự đối với một hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách  thì cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh rằng hành vi vi phạm đó là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự .

- Chế tài dân sự. Bất kể hành vi nào gây thiệt hại cho quyền tài sản hay lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào họat động NSNN thì đều phải chịu trách nhiệm dân sự . 

No comments:

Post a Comment