15/06/2014
Quy định của luật doanh nghiệp (2005) về công ti hợp danh - Bài tập học kỳ Luật Thương mại 1
Công ti hợp danh là một trong những hình thức công ti ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ti. Về hình thức, nó là loại hình công ti đối nhân trong đó các thành viên có mối quan hệ mật thiết với nhau về mặt nhân thân. Luật doanh nhiệp Việt nam 2005 cũng thừa nhận loại hình công ti này ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới các quy định của pháp luật nước ta về loại hình công ti này có ít nhiều khác biệt. Việc các quy định của pháp luật về công ti hợp danh có phù hợp hay không phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển loại hình công ti này. Đây cũng là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm xem xét để lựa chọn loại hình tổ chức kinh doanh cho phù hợp với lợi ích của mình.


Xuất phát từ nhận thức trên, với bài tập lớn học kỳ môn Luật Thương mại 1, em xin chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp (2005) về công ti hợp danh” nhằm làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về loại hình công ti này ở nước ta hiện nay.


NỘI DUNG CHÍNH

I. Cơ sở lý luận - Sơ lược về lịch sử hình thành và các quy định về công ti hợp danh trên thế giới.

1. Sơ lược lịch sử hình thành công ti hợp danh

Hợp danh theo nghĩa rộng xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Những chỉ dẫn đầu tiên tới hình thức này là trong Bộ luật Hammurabi của Babylon, khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Người Do Thái, vào khoảng những năm 2000 trước Công nguyên đã hình thành thuật ngữ shutolin (một dạng hợp danh phi thương mại). Sau này, những hợp danh mang tính chất thương mại của người Do Thái hình thành từ những đoàn hội buôn

Ở châu Âu, luật về hợp danh hình thành từ tập quán của các thương nhân. Người Pháp dùng các thuật ngữ như societas, societe en common dite để chỉ các hình thức hợp danh. Societas là hình thức hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh, còn societe en common dite bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn

Hợp danh được quy định trong Luật La mã (ví dụ như Bộ luật Justinian) với những điều khoản rất tương đồng với luật hiện đại. Người La mã cũng hình thành nên những quy định về đại diện, nền tảng của rất nhiều quy định của luật về hợp danh ngày nay. Ví dụ, Luật La mã có quy định qui facit per alium facit per se - người thực hiện hành vi thông qua hành vi của người khác cho bản thân người đó. Luật La mã cũng xác định sự lựa chọn tự nguyện của những người cộng tác với nhau bản chất của hợp danh, và nguyên tắc được gọi tên delectus personas - sự lựa chọn của cá nhân, cho đến nay vẫn là thành tố mang tính trung tâm của luật về hợp danh.

Người phương Đông cũng không xa lạ với phường, hội, cuộc và đủ loại liên kết bạn buôn. Tuy nhiên mô hình hội người (societas) theo dân luật – thương luật hay mô hình hợp danh (partnership) theo pháp luật Anh – Mỹ mới chỉ được du nhập trong một, hai thế kỷ trở lại đây.

2. Khái niệm - đặc điểm và vai trò của công ti hợp danh đối với các nước trên thế giới

a. Khái niệm – đặc điểm của công ti hợp danh

Khái niệm CTHD ở một số nước như sau:

- Pháp: “là công ti mà trong đó có các thành viên đều có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ti”.

- Mỹ: “là một hội gồm 2 thể nhân trở lên và với tư cách là những đồng sỡ hữu, họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi nhuận”.

- Thái Lan chia ra 2 loại:

+ CTHD đơn thường: là loại hình công ti mà ở đó tất cả các thành viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ti hợp danh.

+ CTHD hữu hạn: 1 hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp mà họ cam kết riêng rẽ đóng góp vào CTHD và 1 hay nhiều thành viên cùng nhau có trách nhiệm vô hạn đối với tất cả nghĩa vụ của CTHD.

* Như vậy, về bản chất: – Công ti hợp danh không có sự tách bạch về tài sản công ti đối với các thành viên hợp danh (TVHD), TVHD chịu trách nhiệm vô hạn (TNVH) đối với các nghĩa vụ của công ti. Đây là đặc trưng cơ bản của CTHD.

- Các thành viên đều trở thành đồng sở hữu trong công ti và họ có quyền quyết định ngang nhau trong quá trình quản lý, điều hành công ti mà không tính đến phần vốn góp vào công ti nhiều hay ít.

- Các thành viên trong CTHD phải có tư cách thương gia vì các thành viên này là đồng sở hữu, cùng nhau trực tiếp thực hiện việc quản lý điều hành công ti, đặc biệt là họ cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn về nghĩa vụ của công ti nên phải có hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm kinh doanh để giảm thiểu triệt để những rủi ro trong kinh doanh (pháp luật Pháp).

b. Vai trò của công ti hợp danh

Dựa vào pháp luật hiện hành về CTHD, đặc biệt là của các nước khác trên thế giới, chúng ta có thể thấy được vai trò của công ti hợp danh như sau:

1. So với các loại hình công ti đối nhân khác, loại hình này được ưa chuộng hơn cả. Tại Pháp hiện nay có 32.000 CTHD (chiếm 2,41% tổng số các công ti – Maurice Cozian – Alain Viandier “Droits des societes”, 1992, Pages 420). Ở Thụy Điển từ 15.765 công ti vào 01/01/1976 và 30.134 vào 1979 đến 76.573 công ti vào 1993.

2. Do cơ cấu tổ chức của công ti gọn nhẹ, việc thành lập công ti khá đơn giản nên thích hợp với việc tổ chức các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên phù hợp với xu hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của thế giới.

3. Với sự phát triển theo chiều sâu, sự phân hóa ngày càng đậm nét của các lĩnh vực đời sống kinh doanh đã chứng tỏ rằng tất cả loại hình công ti trách nhiệm hữu hạn, công ti cổ phần không thể phù hợp với tất cả ngành nghề kinh doanh. Một số ngành nghề đặc thù như: khám chữa bệnh, tư vấn pháp lý, kiểm toán…đòi hỏi trách nhiệm cao của những người hành nghề (chỉ cam kết theo khả năng chứ không thể cam kết theo kết quả hành nghề) nên công ti TNHH, công ti CP dường như không thích hợp.

4. Tạo khả năng để phát huy các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế. Không chỉ đơn thuần tăng khả năng đầu tư vốn mà cả các nguồn lực khác đặc biệt là khả năng hành nghề và khai thác trí tuệ, tạo ra các đảm bảo pháp lý cao hơn trong thị trường cũng như đối với xã hội do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh.

II, Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về công ti hợp danh

1. Khái niệm và đặc điểm của công ti của công ti hơp danh theo pháp luật Việt Nam

Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp (DN) Việt nam 2005 thì công ti hợp danh là doanh nghiệp, trong đó phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ti, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.

Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công ti; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ti trong phạm vi số vốn đã góp vào công ti; Công ti hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Trong quá trình hoạt động, công ti hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

Như vậy, nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì công ti theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm 2 loại. Loại 1 là loại chỉ gồm những thành viên hợp danh. Loại 2 là công ti có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn, loại này các nước gọi là công ti hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ti đối nhân. Nhưng 2 “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Điều này thực sự không hợp lý vì 2 loại này tuy gần như hoàn toàn giống nhau về quy chế pháp lý nhưng trong thực tế sẽ phát sinh những điểm không thỏa đáng, nhất là trong việc giải thể của công ti. Điều này đã chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành.

Ở một số nước, công ti hợp danh chỉ chấp nhân một loại thành viên là thành viên hợp danh, và tất cả thành viên hợp danh phải chịu đều phải chịu chung một chế độ trách nhiệm về những hoạt động của công ti. Luật doanh nghiệp Việt Nam cũng quy định hình thức công ti với tên gọi công ti hợp danh, nhưng lại bao gồm hai loại một có thể coi là công ti hợp danh hoàn toàn; một lại là thể hiện một bản chất công ti hợp danh không tuyệt đối hay là công ti hợp danh hữu hạn. Theo đó, trong công ti hợp danh hữu hạn có thể có cùng một lúc có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn với hai loại chế độ trách nhiệm khác nhau – các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn; các thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn.  

2. Chế độ trách nhiệm trong công ti hợp danh

Luật doanh nghiệp Việt Nam chia chế độ trách nhiệm của các thành viên thành hai loại, đó là chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp danh và trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Theo đó, thành viên hợp danh trong công ti phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ti, thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ti. 

Có thể thấy rằng, trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh có tính ràng buộc chặt chẽ trong mọi quan hệ. Bên thứ ba khi giao dịch với công ti không những được bảo đảm bằng tài sản của công ti mà còn được bảo đảm bằng tài sản riêng của mỗi thành viên hợp danh. Do phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ti nên các thành viên hợp danh đều có quyền bình đẳng trong quyền điều hành công ti và đại diện công ti. 

Như vậy, với tính cách là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại của công ti hợp danh, chế độ trách nhiệm của các thành viên công ti được xác lập ở các nội dung:

Thứ nhất, chế độ trách nhiệm của các thành viên trong công ti hơp danh là chế độ trực tiếp. 

Thứ hai, trách nhiệm của các thành viên hợp danh không chỉ hạn chế trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ti. Đặc trưng này là sự bảo đảm tuyệt đối với bên thứ ba tham gia giao dịch với công ti.

Thứ ba, thành viên hợp danh mới được tiếp nhận vào công ti phải chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ti sau khi đăng kí việc gia nhập với cơ quan đăng kí kinh doanh.

Thứ tư, nếu thành viên hợp danh rút khỏi công ti thì về nguyên tắc thành viên này phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ đã có trước khi ra khỏi công ti trong thời hạn hai năm.

Ngoài chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp danh, trong công ti còn tồn tại chế độ trách nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn. Đối với thành viên góp vốn, một khi đã góp đủ số vốn đã cam kết góp thì thành viên góp vốn hết trách nhiệm, điều đó có nghĩa là các chủ nợ không có quyền đòi nợ đối với thành viên góp vốn.  

Như vậy, có thể thấy rằng, chế độ trách nhiệm trong công ti hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp được chia thành hai loại đó là chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của thành viên hợp danh và chế độ trách nhiệm hữa hạn của thành viên góp vốn. 

3. Thành viên công ti và vấn đề quyền và nghĩa vụ của thành viên công ti

Điều 130 Luật doanh nghiệp quy định công ti hơp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Thành viên công ti là những người đã góp vốn vào công ti và trở thành đồng chủ sở hữu của công ti. 

a. Thành viên hợp danh

Thành viên hợp danh phải là cá nhân, và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ti. Như vậy, các đối tượng khác như là tổ chức, các hội, các pháp nhân… không thể trở thành thành viên hơp danh của công ti hợp danh. Khác với quy định của một số nước như Mỹ, Anh, Pháp thành viên hợp danh có thể là một pháp nhân. 

Xuất phát từ chế độ trách nhiệm vộ hạn của thành viên hợp danh mà luật doanh nghiệp tại Điều 134 quy định: thành viên hợp danh có quyền quản lí công ti; tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ti; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ti. Như vậy, thành viên hợp danh trong công ti hợp danh có quyền từ việc điều hành, quản lí công ti, sử dụng tài sản của công ti vào việc kinh doanh nhân danh công ti và đến những việc nội bộ khác của công ti cũng như được nhận biết những thông tin cơ bản về kinh doanh và hoạt động khác của công ti. Có thể nói, trong công ti hợp danh, thành viên hợp danh được quy định các quyền của một người chủ công ti thật sự. Đi đôi với quyền ấy là một chế độ trách nhiệm vô hạn mà thành viên hợp danh phải gánh vác. 

Trách nhiệm của thành viên hơp danh là trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành viên hợp danh phải chịu với các nghĩa vụ của công ti ngay từ khi đăng kí trở thành thành viên của công ti. Bên cạnh đó Đều 133 luật doanh nghiệp quy định “thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên của một công ti hợp danh khác”. Quy định này xuất phát từ lí do, thành viên hợp danh chỉ có thể chịu trách nhiệm vô hạn một lần, bởi lẽ, một cá nhân thì chỉ co một khối tài sản duy nhất và cá nhân ấy không thể chịu trách nhiệm nhiều hơn một lần. Mặt khác để thành viên hợp danh và công ti hợp danh tranh chấp quyền lợi với nhau, điều 133 cũng quy định không cho phép thành viên hợp danh được tự mình hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành nghề kinh doanh của công ti.

Xuất phát từ việc thành viên hợp danh chính là người trực tiếp thành lập quản lí công ti công ti hợp danh, cho nên, điều kiện để trở thành thành viên hợp danh cũng chính là điều kiện được quy định tại điều 13 luật doanh nghiệp. 

b. Thành viên góp vốn

Theo điểm c khoản 1 điều 130 thì thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ti trong phạm vi số vốn đã góp vào công ti.  

Khác với thành viên hợp danh thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân. Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ti hơp danh. Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và vào công ti hợp danh nói riêng là được quy định cụ thể tại khoản 4 điều 13 luật doanh nghiệp. Theo đó, những người nước ngoài, tổ chức nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể trở thành thành viên góp vốn của của công ti hơp danh vì họ không thuộc đối tượng bị cấm góp vốn vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định cho nhà đầu tư góp vốn vào công ti hợp danh do thành viên hợp danh quyết định. 

Quyền của thành viên góp vốn được quy định tại điều 140 luật doanh nghiệp: ngoài những quyền giống thành viên hợp danh là được chia lợi nhuận theo điều lệ công ti, được nhận thông tin cơ bản của công ti và các quyền khác thì thành viên góp vốn bị hạn chế một số quyền: thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỉ lệ được quy định tại điều lệ công ti; không được tham gia quản lí công  ti và hoạt động kinh doanh nhân danh công ti. Như vậy, luật doanh nghiệp không thừa nhận quyền được quản lí công ti của thành viên góp vốn, nhưng tôn trong quyền được hưởng lợi ích từ số vốn đã góp vào công ti. Sở dĩ có quy định như vậy là do luật doanh nghiệp quy định cho thành viên hợp danh một chế độ trách nhiệm vô hạn nên buộc họ phải cẩn trọng trong kinh doanh. Từ lí do đó, luật trao cho những thành viên hợp danh quyền quản lí, điều hành công ti là hợp lí, vừa đảm bảo lợi ích của chính họ, vừa đảm bảo lợi ích cho cả công ti. Đối với thành viên góp vốn, ngoài những nghĩa vụ chấp hành góp đủ vốn, chấp hành đúng nội quy công ti, không được tham gia quản lí thì họ chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ti trong phần vốn góp vào công ti. Chính vì thế mà các thành viên góp vốn có thể sẽ không cẩn trọng đến mức tối đa nếu trao quyền quản lí cho họ. Như vậy, sẽ tổn hại nghiêm trọng đến thành viên hợp danh.

Trong quy định của luật doanh nghiệp chỉ thành viên hợp danh mới được nhân danh công ti tham gia kinh doanh nhưng lại không quy định rõ nếu thành viên góp vốn vẫn tham gia quan hệ kinh doanh  nhân danh công ti thì sẽ chịu trách nhiệm như thế nào, giới hạn trách nhiệm đến đâu? Đây là điểm thiếu sót của luật doanh nghiêp Việt Nam cần được bổ sung. 

4. Góp vốn và phần vốn góp trong công ti hợp danh

Nếu ngành nghề kinh doanh không thuộc danh mục yêu cầu phải có vốn pháp định thì các sáng lập viên có thể tự do thỏa thuận mức vốn điều lệ, phần đóng góp của các bên, thỏa thuận các loại tài sản dùng làm vốn góp, cách thức định giá và chuyển giao chúng cho CTHD. Về nguyên tắc nhiều loại tài sản có thể được dùng làm vốn góp như tiền, vàng, nhà đất… và các loại tài sản khác do các bên tự thoả thuận. Người góp vốn phải chuyển giao sở hữu vốn góp sang cho công ti, từ khối tài sản đó hình thành nên tài sản riêng của công ti. Đối với nhà đất, bên giao và và bên nhận phải tiến hành thủ tục đăng ký trước bạ điền địa (chuyển sổ đỏ); đối với tài sản khác phải làm biên bản giao nhận (theo khoản 1 điều 29, khoản 1 điều 132 luật doanh nghiệp)

Các thành viên công ti phải thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn đủ và đúng hạn. Nếu vi phạm, số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đối với công ti. Nếu vi phạm đó mà gây thiệt hại cho công ti thì thành viên hợp danh có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho công ti, TVGV có thể bị khai trừ khỏi công ti.

Sau khi góp vốn, thành viên mất đi quyền sở hữu đối với tài sản đã góp và nhận lại được quyền lợi từ công ti. Quyền tài sản ấy được coi là phần vốn góp trong công ti, thường được thể hiện bằng một tỉ lệ nhất định. CTHD có thể cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho các thành viên đã thực hiện nghĩa vụ góp vốn; giấy này có thể được công ti cấp lại theo yêu cầu của thành viên và cần có nội dung tối thiểu theo luật định (khoản 4 điều 131 LDN).

5. Tư cách pháp nhân của công ti hợp danh: 

Tư cách pháp lý của công ti hợp danh theo pháp luật Việt Nam là một đặc điểm mang tính đặc thù. Theo quy định hiện hành, công ti hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tại sao pháp luật Việt Nam lại quy định công ti hợp danh có tư cách pháp nhân trong khi các quốc gia trên thế giới hầu hết quy định công ti hợp danh không có tư cách pháp nhân? Khi xây dựng Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định công ti hợp danh có tư cách pháp nhân đã dẫn đến nhiều tranh cãi. Một số quan điểm cho rằng, không nên công nhận tư cách pháp nhân của công ti bởi hai lý do chính như sau:

Thứ nhất, việc thừa nhận tư cách pháp nhân mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi hội đủ bốn điều kiện: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập.

Thứ hai, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định công ti hợp danh không có tư cách pháp nhân.

Quan điểm ngược lại cho rằng, khó có thể chứng minh việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ti hợp danh là mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự và nếu chứng minh được thì cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận pháp lý, bởi Bộ luật Dân sự là luật chung còn Luật Doanh nghiệp là luật chuyên ngành; việc thừa nhận này có thể coi là một ngoại lệ của Bộ luật Dân sự. Đồng thời, khi trích dẫn pháp luật nước ngoài cho rằng công ti hợp danh không có tư cách pháp nhân, những người viện dẫn đã không xem xét cụ thể những quy định để công ti hợp danh có thể tham gia giao dịch với người thứ ba và tham gia hoạt động tố tụng. Để chứng minh cho tính hợp lý của việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ti hợp danh, ngoài việc phản biện hai ý nêu trên, một số nhà khoa học đưa ra thêm hai lý do sau: trước hết, pháp luật Việt Nam quy định rằng tổ chức tham gia một ngành nghề nào đó phải có tư cách pháp nhân. Vì vậy, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ti hợp danh cho phép loại hình doanh nghiệp này được quyền tham gia những ngành nghề đó; thứ hai, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ti hợp danh là điều đơn giản và dễ dàng hơn việc xây dựng một loạt khái niệm pháp luật và kỹ thuật pháp lý khác để công ti hợp danh có thể tham gia giao dịch với bên thứ ba và tham gia vào hoạt động tố tụng.

Luật Doanh nghiệp quy định chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của của công ti. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ti. Cụ thể hơn, đối với những khoản nợ của công ti, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ti nếu tài sản của công ti không đủ để trang trải số nợ của công ti. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho công ti hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ti. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh, như đã nói ở trên, xác lập việc các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm trả nợ bằng tài sản cá nhân của mình đối với các khoản nợ công ti không có khả năng thanh toán. Nếu chiểu đặc điểm này vào thì trái hoàn toàn. 

Đó là những tranh luận từ trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ban hành. Đến thời điểm này, các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đi vào cuộc sống. Có thể thấy, việc quy định này theo luật doanh nghiêp 2005 cũng mang lại những lợi ích nhất định. Trước khi luật doanh nghiệp 2005 ra đời, số lượng công ti hợp danh còn rất hạn chế, vai trò của công ti hợp danh trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam là không cao. Đến khi luật doanh nghiệp 2005 ra đời đã công nhận công ti hợp danh có tư cách pháp nhân là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển loại hình công ti này. Với việc có tư cách pháp nhân, công ti hợp danh có thể được tham gia thực hiện các hành vi kinh doanh một cách rộng rãi và ở mức độ cao hơn.   

6. Tổ chức quản lí và điều hành công ti hợp danh

Về tổ chức quản lí công ti hợp danh: Việc tổ chức và quản lí công ti hợp danh phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật đối với công ti hơp danh. Theo đó, công ti hơp danh có một cơ quan quản lí cao nhất, đó chính là hội đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Quy định này hoàn toàn khác với quy định của luật doanh nghiêp năm 1999, theo luật doanh nghiệp năm 1999 thì hôi đồng thành viên chỉ bao gồm có thành viên hợp danh. Hội đồng thành viên bầu ra một thành viên hợp danh là chủ tịch hội đồng thành viên kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc (nếu điều lệ công ti không quy định khác). 

Việc tiến hành họp hội đông thành viên do chủ tịch hội đồng thành viên triệu tập hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp chủ tịch hội đồng thành viên không triệu tập họp theo yêu cầu thì thành viên hợp danh đó có quyền triệu tập họp hội đồng. Cuộc họp hội đồng phải được ghi vào sổ biên bản của công ti. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các công việc kinh doanh của công ti. Nếu điều lệ công ti không quy định thì khi quyết định những vấn đề quan trọng phải được ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp danh chấp thuận (khoản 3 điêu 135 luật doanh nghiệp 2005). Còn khi quyết định những vấn đề khác không quan trong thì chỉ cần 2/3 tổng số thành viên hợp danh chấp thuận. Tỉ lệ cụ thể do điều lệ công ti quy định. Khi tham gia họp thảo, thảo luận về các vấn đề của công ti, mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết hoặc có số phiếu biểu quyết khác quy định tại điều lệ công ti. Quyền tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn có phần bị hạn chế hơn (điểm a khoản 1 điều 140), theo đó, thành viên góp vốn chỉ tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung  điều lệ công ti, sửa đổi bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ti và các nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn.

Về điều hành công ti hợp danh: tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền nhân danh tên hãng chung và đại diện cho hợp danh trong các giao dịch. Hành vi của một thành viên hợp danh có thể xác lập nghĩa vụ cho công ti; nếu công ti thua lỗ, hành vi ấy có thể dẫn tới trách nhiệm trả nợ vô hạn và liên đới của tất cả TVHD khác. Tuy nhiên, các TVHD có thể thỏa thuận hạn chế quyền đại diện của một số thành viên; các hạn chế này chỉ có giá trị với bên thứ 3 khi người đó biết về hạn chế đó (điều 137 LDN). Ngoại lệ này có thể giúp các TVHD giới hạn trách nhiệm liên đới của mình; việc áp dụng chúng trên thực tế sẽ phụ thuộc đáng kể vào quyền giải thích pháp luật của các thẩm phán, nhất là những trường hợp bên thứ 3 biết hay buộc phải biết về hạn chế quyền đại diện. Nếu các bên thứ 3 không thể biết về các hạn chế mang tính nội bộ đó, thẩm quyền nhân danh và đại diện cho hợp danh của các thành viên hợp danh về nguyên tắc là đại diện toàn quyền, không bị hạn chế.

Như vậy, xét một cách khách quan, luật doanh nghiệp đã quy định rất chi tiết về việc một công ti hợp danh được tổ chức như thế nào và trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận trong bộ máy quản lí công ti hợp danh. Luật quy định theo hướng mở như vây là tạo ra quyền tự tự chủ cho các thành viên hợp danh trong quản lí công ti, làm cho các thành viên này thực hiện được tối đa quyền tự do kinh doanh của mình.

7. Quyền và nghĩa vụ của công ti hợp danh

a. Quyền của công ti hợp danh

Về cơ bản, công ti hợp danh có tất cả các quyền của một doanh nghiệp được quy định tại điều 8 luật doanh nghiệp 2005, một trong các quyền đó được thể hiện: 

Thứ nhất: công ti hợp danh có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của công ti. Cũng giống như các doanh nghiệp khác, tài sản của công ti hợp danh được hợp thành từ tài sản góp vốn từ thành viên công ti.  Tài sản của công ti tuy khó tách bạch so với tài sản riêng của các thành viên (thành viên hợp danh), tuy nhiên, theo quy định chung của luật doanh nghiệp, khi góp vốn, các thành viên, bao gồm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn) phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho công ti. Sau khi chuyển quyền sở hữu, tài sản góp vốn sẽ không còn thuộc sở hữu riêng của thành viên nữa mà thuộc sở hữu của công ti hợp danh, tất cả thành viên chở thành đông sở hữu với khối tài sản chung này. Tài sản của công ti hơp danh không chỉ bao gồm tổng hợp các phần vốn góp của các thành viên mà nó còn là các tài sản khác như lợi nhuận sinh ra trong quá trình kinh doanh cũng được nhập vào khối tài sản chung đấy. 

Việc trao cho doanh nghiệp nói chung và công ti hợp danh nói riêng chủ quyền sở hữu đối với tài sản của chính mình là một trong những quy định mà luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho chúng hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở tự quyết, linh hoạt đối với việc sử dụng vốn. 

Thứ hai: công ti hợp danh có quyền chủ động lựa chọn ngành nghề kinh doanh, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư, kể cả liên doanh, góp vốn vào doanh nghiệp khác, chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh. Đông thời, công ti hợp danh có quyền chủ động tìm kiến thị trường, khách hàng và kí kết hợp đồng. Quyền này xuất phát từ nguyên tắc tự do kinh doanh: công ti hợp danh sau khi được thừa nhân về mặt pháp lí, trở thành chủ thể kinh doanh độc lập sẽ có quyền kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng kí – đó có thể là bất cứ ngành nghề gì, thuộc bất cứ lĩnh vực nào không thuộc danh mục ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật cấm kinh doanh. công ti hợp danh còm có một quyền cơ bản nữa, đó là quyền góp vốn vào các doanh nghiệp, quyền liên doanh, liên kết. Tuy nhiên, đối với một loại hình công ti không có khối tài sản độc lập thì việc góp vốn vào doanh nghiệp khác không phải là đơn giản. Công ti hợp danh có quyền tự mình tìm kiếm khách hàng và kí kết hợp đồng nghĩa là tự quyết định xem ai sẽ là đối tác của mình trên thương trường. Đây là một loại công cụ mới để cho công ti hợp danh tìm được chỗ đứng trong môi trường kinh doanh mà cạnh tranh là động lực chủ yếu của sự phát triển. 

Thứ ba, công ti hợp danh có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn. Yếu tố vốn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của công ti nói chung, ngay cả đối với những loại hình công ti mang bản chất đối nhân như công ti hợp danh, vốn cũng là yếu tố không thể thiếu. Khi đề cập đến vốn của công ti hợp danh là đề cập đến vốn theo cách hiểu cơ bản gồm có tài sản và tiền mặt, nói cách khác là đề cập tới vốn cơ bản. thiếu vốn chính là đặc điểm thường thấy của công ti đối nhân do xuất phát từ bản chất trọng nhân hơn trọng vốn. 

Luật doanh nghiệp 2005 đã cho phép công ti hợp danh được lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn linh hoạt. Theo các cách huy động vốn truyền thống, công ti hợp danh có thể tăng vốn điều lệ của mình bằng cách kết nạp thêm thành viên mới hoặc có thể di vay vốn của các tổ chức, cá nhân khác, vốn điều lệ được tăng có thể bằng cách các thành viên của của công ti cùng nhau đóng góp thêm. Như vậy, việc tăng vốn điều lệ bao giờ cũng ẩn chứa nguy cơ thay đổi nhân sự trong công ti hợp danh – một việc thường bị hạn chế đến mức tối đa trong các công ti đối nhân. Nếu việc kết nạp thành viên mới để tăng vốn điều lệ là một trong những hình thức huy động vốn hiệu quả nhất đối với các công ti khác thì với công ti hợp danh lại là hình thức khó có thế phát huy được.

Nhưng cũng xuất phát từ bản chất đối nhân, chế độ trách nhiệm không đồng nhất của các thành viên công ti hợp danh mà luật doanh nghiệp không cho phép công ti hợp danh được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào. Đây là một điểm hạn chế khả năng huy động vốn của công ti hợp danh. 

Thứ tư: một quyền nữa rất quan trọng đối với công ti hợp danh đó là công ti hợp danh có quyền xuất khẩu và nhập khẩu. với tư cách là một doanh nghiệp hoạt động theo quy định của luật doanh nghiệp, công ti hợp danh cũng có những quyền này, có thể nói quy định về quyền này là quyền chung của mọi doanh nghiệp là rất phù hợp. Việc quy định này tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài doanh nghiệp, hơn thế nữa, việc này sẽ tự động dẫn các doanh nghiệp Việt Nam đến chỗ tự phải kinh doanh các ngành nghề có lợi thế so sánh của Việt Nam để cạnh tranh trên thị trường nội địa và nước ngoài, và đây cũng là biện pháp mạnh và tự nhiên để các doanh nghiệp ra sức phát huy thế mạnh của Việt Nam. Trong tình hình hiện nay, đây hoàn toàn là công cụ để công ti hợp danh sử dụng để cạnh tranh với các công ti đối vốn trên thị trường. 

Thứ năm, nhóm quyền tiếp theo của công ti hợp danh thể hiện rõ hơn nữa quyền tự do kinh doanh, tự quyết mọi vấn đề phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đó là các quyền: tuyển thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; tự chủ kinh doanh, chủ động áp dụng phương thức quản lí khoa học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. 

Thứ sáu, luật doanh nghiệp đã nâng cao tính tự chủ của công ti hợp danh trong việc tự mình hạn chế sự can thiệp quan liêu, tiêu cực tới chính hoạt động của công ti bằng cách quy định cho các công ti này có quyền từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp nguân lực không được pháp luật quy định của bất kì cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, trừ những khoản tự nguyên đóng góp vì mục đích nhân đạo và công ích. Quy định như vậy là hết sức hợp lý, có thể nói là phù hợp với xu thế chung của sự phát triển. Không những vậy, điều này có thể hạn chế được sự sách nhiễu của các cơ quan chức năng, những người có thế lực đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

b. Nghĩa vụ của công ti hợp danh 

Luật doanh nghiệp nhìn chung đã quy định rất rõ nghĩa vụ của doanh nghiệp tại điều 9 của luật doanh nghiệp2005. Theo đó doanh nghiệp nói chung có ít nhất là 7 nghĩa vụ cụ thể và các quyền khác theo quy định của pháp luật. Theo đó doanh nghiệp trước hết phải đảm bảo kinh doanh việc kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng kí; bảo đảm chất lượng hang hóa thoe tiêu chuẩn đã kí; bảo đảm các nghĩa vụ thuế, các nghĩa vụ khác với nhà nước; ghi chép sổ sách kế toán, quyết toán theo quy định; ngoài ra, các doanh nghiệp còn có nghĩa vụ ưu tiên sử dụng lao động trong nước, tôn trọng các quyền mà pháp luật đã trao cho người lao động. Những nghĩa vụ cơ bản này, luật doanh nghiệp cũng quy định cho các doanh nghiệp nghĩa vụ kê khai và định kì báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan có thẩm quyền; khi phát hiên các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo là không chính xác, không đầy đủ hoặc giả mạo thì phải kịp thời đính chính lại với cơ quan có quyền. 

Nằm trong hệ thống các doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của luật doanh nghiệp, công ti hợp danh cũng phải tuyệt đối tuân thủ các nghĩa vụ nêu trên. Như vậy, có thể nói Luật doanh nghiệp đã đưa ra những giải pháp mới mẻ cho việc phát huy tối đa những khả năng của doanh nghiệp nói chung và của công ti hợp danh nói riêng bằng cách quy định một hệ thống các quyền mở rộng và các nghĩa vụ chủ động cho doanh nghiệp. Thực chất, những quy định này rất quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp Viêt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới bởi những quy định này kéo gần lại khoảng cách về những việc được làm và những việc không được làm giữa một bên là các doanh nghiệp Việt Nam, một bên là các đối tác nước ngoài

8. Giải thể và phá sản công ti hợp danh

a. Giải thể công ti hơp danh

Theo điều 157 luật doanh nghiệp, công ti hợp danh sẽ được giải thể theo các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, kết thúc thời hạn đã ghi trong điều lệ mà không có quyết định gia hạn: Một trong những nội dung quan trọng của điều lệ công ti hợp danh, cũng như các doanh nghiệp khác, đó là thời hạn hoạt động của công ti do các thành viên hợp dạnh cùng nhau thỏa thuận và ghi nhận (không được trái luật).thời hạn ghi trong điều lệ đã kết thúc, tức là khi cam kết về sự tồn tại của công ti hợp danh hết hiệu lực mà các thành viên công ti không gia hạn hoạt động thêm thì công ti đương nhiên áp dụng thủ tục giải thể để giải tán liên kết và giải quyết quyền lợi cho những người có liên quan.

Thứ hai là theo quyết định của tất cả các thành viên: có thể coi đây là trường hợp giải thể tự nguyện. Với quy định này, luật doanh nghiệp đã trao cho các thành viên hợp danh được quyết định việc có giải thể doanh nghiệp hay không nếu không thuộc trường hợp giải thể bắt buộc. Như vậy, cũng đảm bảo được một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và tự do tổ chức và quản lí, định đoạt doanh nghiệp theo quy định của các nhà đầu tư. Đối với thành viên hợp danh, thẩm quyền của họ một lần nữa được đề cao, họ có toàn quyền quyết định sự tồn tại hay không tiếp tục tồn tại của công ti.  

Thứ ba, công ti không còn đủ số thành viên tối thiểu theo quy định của pháp luật: luật doanh nghiêp quy định công ti hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp vốn. Sự biến động số lượng thành viên trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp là điều không thể chánh khỏi. Công ti hợp danh nếu dơi vào trường hợp có biến động về số lượng thành viên đến mức số lượng thành viên còn lại không đạt số lượng tối thiểu theo quy định của pháp luật mà vẫn tồn tại với số lượng thành viên không đủ đó trong thời gian là 6 tháng liên tục thì sẽ phải giải thể. Yếu tố liên tục ở đây là rất quan trọng, như vậy, sự cộng dồn về thời gian không được công nhận để bắt buộc để giải thể. Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng không thực sự quá khắt khe so với một số nước khác.

Thứ tư, bị thu hồi giấy kinh doanh: quy định này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong việc áp dụng luật. Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là một trong những giấy tờ quan trong nhất của công ti, có được giấy này, chứng tỏ nhà nước công nhận công ti hợp danh là một chủ thể kinh doanh có thẩm quyền về kinh tế. Hay nói khác đi, giấy này chứng minh tính hợp pháp hay bất hợp pháp của hoạt động kinh doanh do công ti hợp danh tiến hành. Bị thu giấy chứng nhận kinh doanh cũng có nghĩa là nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với công ti. Tuy nhiên, công ti hợp danh là một liên kết, trong đó, mỗi sự thay đổi của nó đều ảnh hưởng, liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mỗi thành viên, vì vậy, pháp luật bắt buộc công ti hơp danh nếu dơi vào trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh thì nhất thiết phải thực hiện một thủ tục để giải quyết thỏa đáng quyền lợi quyền lợi của những người có liên quan.

Về thủ tục giải thể doanh nghiệp: điều 158 quy định như sau:

Bước 1: Thông qua quyết định giải thể CTHD (quyền thuộc về tất cả các thành viên hợp danh).

Bước 2: Thanh lí tài sản.

Bước 3: Thông báo quyết định giải thể đến cơ quan ĐKKD, chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan…Các TVHD tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông qua việc niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của Doanh Nghiệp, đăng báo địa phương và trung ướng trong 3 số liên tiếp

Bước 4: Thanh toán nợ. Thứ tự như sau: lương, trợ cấp thôi việc, thuế và các nợ khác.

Bước 5: Cơ quan ĐKKD nhận hồ sơ đầy đủ về giải thể từ tổ thanh lý tài sản và xóa tên công ti hợp danh khỏi sổ dăng kí kinh doanh.

Như vậy, so với luật doanh nghiệp 1999 thì quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 không có sự thay đổi. Không những thế, luật doanh ngiệp còn quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Điều đó tao cho các doanh nghiệp khi tiên hành thủ tuc giải thể không còn vướng vào những kho khăn, co cách hiểu cụ, rõ ràng về vấn đề này khi áp dụng.

b. Phá sản công ti hợp danh 

Trong phá sản, thành viên hợp danh khi nhận thấy công ti hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản đối với công ti. Nhưng thủ tục giải quyết phá sản của công ti HD có điểm khác biệt so với các loại hình khác. Kể cả khi công ti được xóa tên khỏi sổ ĐKKD sau khi thanh lí theo thủ tục phá sản, điều đáng lưu ý là các thành viên hợp danh không được tuyên bố miễn trách nhiệm trả nợ; ngược lại, họ vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ti (khoản 1 điều 90 Luật phá sản). Một số vấn đề được đặt ra thêm như: 

Thành viên hơp danh cũng là một thương nhân, có quyền tạo lập các hành vi kinh doanh, ký kết hợp đồng và hoàn toàn có thể có nợ. Trong khi đó, họ lại chịu trách nhiệm vô hạn với tư cách là thành viên hợp danh của công ti hợp danh. Một điều được đặt ra là họ sẽ phải thanh toán nợ của công ti trước (trong trường hợp công ti không thể thanh toán hết nợ) rồi mới đến nợ của họ đối với người khác hay ngược lại? Việt Nam chưa quy định rõ điều này. 

- Nếu công ti hơp danh chưa trả hết, thành viên hợp danh sẽ phải trả bằng tài sản của mình nhưng theo cách thức nào? Điểm e, khoản 2 điều 134 luật doanh nghiệp có quy định: thành viên hợp danh phải chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ti (LDN 1999 không quy định cách thức nào cả). Hiện nay, theo tinh thần Luật phá sản 2004, việc này phụ thuộc việc định giá và đánh giá lại tài sản góp vốn, đây cũng là một vấn đề không dễ giải quyết.   

III. Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật về công ti hợp danh.

1. Thực trạng về công ti hợp danh  

Mặc dù luật doanh nghiệp  đã thừa nhân loại hình hợp danh từ khá lâu (từ năm 1999), nhiều người chưa nhận thức được bản chất của nó nên còn xem CTHD là một trong những loại hình DN đại diện cho chủ sỡ hữu tư nhân. Các nhà kinh doanh khi tìm hiểu pháp luật cũng dễ dàng nhận ra những điểm yếu: CTHD không thể trở thành một bên của hợp đồng kinh tế theo pháp luật về hợp đồng của Việt Nam; khả năng huy động vốn hạn chế; những tranh chấp liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động dễ xảy ra.

Nhiều người chưa nhận thức được vai trò của việc Luật DN ghi nhận thêm một loại hình doanh nghiệp mới, không hiểu rõ về CTHD. Do đó, một số nhóm kinh doanh, hộ kinh doanh có thể có điều kiện để chuyển thành CTHD nhưng không muốn chuyển đổi. 

2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ti hợp danh.

Qua những phân tích đánh giá trên đây, chúng ta có thể đề cập đến một số biện pháp để hoàn thiện pháp luật về công ti hơp danh và làm cho loại hình này phổ biến hơn như sau:

Thứ nhất: phân chia rõ ràng thành hai loại công ti hơp danh: Đó là: Hợp danh thông thường và Hợp danh hữu hạn. Hiện nay chỉ có 1 quy định duy nhất về CTHD nên 2 loại này về cơ bản chỉ được ghi nhận trong 1 định nghĩa. Điều này dẫn đến 1 số khó khăn nhất định khi xem xét các trường hợp giải thể bắt buộc của CTHD ( vì lý do không có đủ số lượng thành viên tối thiểu theo yêu cầu trong 6 tháng liên tục). TVGV không có quyền quản lý nhưng không phủ nhận được vai trò của họ. Hai loại trên có bản chất tương đối giống nhau nhưng vẫn có những đặc điểm pháp lý khác biệt. Nên quy định việc giải thể bắt buộc rõ ràng như sau:

- Đối với công ti chỉ có thành viên hợp danh: không còn đủ hai thành viên hợp danh.

- Đối với công ti hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn: không còn đủ ba thành viên (không còn đủ hai thành viên hơp danh và hay không có thành viên góp vốn nào). Nếu có quy định đối với Công ti hợp danh hữu hạn thì nếu loại này không đáp ứng điều kiện về số lượng thành viên có thể chuyển đổi sang công ti hơp danh thông thường nếu vẫn còn đủ 2 thành viên hơp danh. Công ti hợp danh là loại hình công ti đặc thù nên bất kỳ một biến động nào của phạm vi thành viên hay cơ cấu vốn góp cũng để ngỏ khả năng phá vỡ nền tảng cơ sở của công ti và buộc chuyển đổi loại hình. Thay vì giải thể, có thể quy định thêm một số trường hợp chuyển đổi loại hình từ công ti hợp danh hữu hạn sang thông thường và ngược lại.

Thứ hai, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn: những quy định về thành viên góp vốn hiện nay còn khá sơ sài, nhất là chưa có chế tài xử lí và dự liệu những vi phạm của thành viên góp vốn này. Nên quy định thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những thương vụ do mình tạo lập do vượt quá thẩm quyền. Việc chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn còn phụ thuộc thành viên hợp danh là một bất cập góp phần làm hạn chế hoạt động của công ti hơp danh. Thành viên hợp danh mới cần có sự hiện diện của yếu tố nhân thân nên quy định khắt khe về chuyền nhượng vốn là đúng. Còn thành viên góp vốn chẳng qua chỉ hiện diện thông qua phần vốn góp. Luật Doanh nghiệp quy định theo hướng bắt buộc thành viên góp vốn phụ thuộc quá nhiều vào điều lệ. Cần đưa ra những điều kiện cụ thể hơn để các thành viên hợp danh ở một mức độ nào đó không thể hạn chế việc chuyển nhượng vốn của các thành viên góp vốn và họ được rút khỏi công ti nếu được đa số thành viên hơp danh chấp nhận. 

Thứ ba là cho phép công ti hợp danh phát hành trái phiếu:  Trên thế giới chỉ quy định CTHD không được phát hành cổ phiếu. Việc phát hành trái phiếu không ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp nhận thành viên của loại công ti này bởi: người mua trái phiếu thực chất là chủ nợ của công ti chứ không phải là thành viên của công ti. Điều này sẽ giúp cho công ti hợp danh huy động vốn một cách dễ dàng hơn, thu hút được các nhà đầu tư hơn, thuận lợi hơn trong quá trình kinh doanh, nhất là thực tế CTHD ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại mang bản chất đối vốn nên rất thiếu vốn hoạt động.

Thứ tư, đẩy mạnh  hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến giáo dục công ti hơp danh: Biện pháp này nhằm góp phần phổ biến sâu rộng loại hình CTHD vào đời sống xã hội và đời sống doanh nghiệp hơn qua các diễn đàn, phương tiện thông tin đại chúng bởi một thực tế hiện nay ngay cả những diễn đàn của luật sư và doanh nghiệp cũng ít đề cập, thậm chí là không đề cập đến mô hình công ti hợp danh này. Bên cạnh đó, số lượng công trình nghiên cứu khoa học về Công ti hợp danh cũng chỉ ở mức hạn chế. Việc tuyên truyền sâu rộng bằng những bài viết chất lượng, đi sâu làm nổi bật bản chất và vai trò của CTHD có thể giúp mọi người hiểu rõ được bản chất pháp lý của mô hình có nhiều tiềm năng và ý nghĩa to lớn này. Làm được điều này cùng với sự điều chỉnh lại quy định của Luật Doanh Nghiệp sẽ góp phần đưa loại hình này vào cuộc sống một cách nhanh chóng và mạnh mẽ hơn, bởi: không có loại hình nào là không cần thiết cả.

KẾT LUẬN

Dù mang trong mình cả những ưu điểm lẫn hạn chế nhưng công ti hợp danh vẫn tồn tại với tư cách một loại hình doanh nghiệp được quy định theo pháp luật Việt Nam. Về cơ bản, mỗi loại hình doanh nghiệp lại có những đặc điểm đặc trưng nhất định. Thiết nghĩ, việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là đặc biệt quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong kinh doanh, việc lựa chọn loại hình phù hợp với ý tưởng và khả năng của mình, các thương nhân luôn cân nhắc và đánh giá toàn diện. Với những quy định hiện nay của Pháp luật Việt Nam về công ti hợp danh thì loại hình này khó mà phát triển được như mong muốn. Môi trường kinh doanh ngày càng năng động, mở rộng với nhiều phương thức phong phú nên loại hình nào cũng cần cho nền kinh tế thị trường. Để Công ti hợp danh thực sự là một mô hình hay, đi vào đời sống một cách mạnh mẽ, thể hiện được tập trung ý chí của các thành viên tham gia và nhất là tạo được sự tin cậy của bạn hàng kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, chúng ta cần một tư hợp lý trong xây dựng và áp dụng pháp luật, đặc biệt là trong bối cảnh mới, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.

Trên đây là toàn bộ bài tập lớn học kỳ môn Luật Thương Mại 1 của em. Vì khuôn khổ bài làm và kiến thức có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Tập 1 – Nhà xuất bản CAND, Hà Nội 2009
2. Nguyễn Thị Khế, Pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh, Nxb, Tư pháp, 2007.
3. Vũ Đặng Hải Yến, Những vấn đề pháp lí có bản về công ti hợp danh, luận văn thạc sĩ luật học 2003
4. Trần Thùy Anh, Một số khía cạnh pháp lí về công ti hợp danh, Luận văn thạc sỹ luật học 2001 
5. Về tư cách pháp nhân của công ti hợp danh, Lê Việt Anh
6. Những vấn đề pháp lý về công ti hợp danh, Trương Hông Quang
7. Luật Doanh nghiệp năm 2005
8. Nghị định 139/2007/NĐ – CP
9. Luật phá sản 2004
10. Các website:
http://vi.wikipedia.org
http://danluat.thuvienphapluat.vn/

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment