13/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XII - Điều chỉnh pháp luật
CHƯƠNG XII

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

Nghiên cứu điều chỉnh pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận đối với việc tiếp cận, xem xét các hiện tượng pháp lí trong thể thống nhất dưới góc độ hệ thống; từ đó làm rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng bộ phận trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, tìm ra những ưu điểm, hạn chế của từng bộ phận, từng khâu để có những biện pháp kịp thời xử lí phù hợp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

I. KHÁI NIỆM ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

Tính chất cộng đồng của đời sống con người dẫn đến nhu cầu phải điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra sự trật tự, kỉ cương cần thiết bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển. Nếu không có sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, dưới sự tác động của con người, các quan hệ xã hội có thể phát triển lộn xộn, đi lệch quy luật, làm cho xã hội khó phát triển, thậm chí có thể dẫn đến suy vong. Chẳng hạn, vấn đề hôn nhân và gia đình có nên cho phép sự chung sống cùng giới (hôn nhân đồng tính) hay không; có nên quy định hôn nhân bắt buộc hay không; các gia đình sinh bao nhiêu con thì phù hợp… Để thiết lập được trật tự trong lĩnh vực nói trên cần phải dựa vào những công cụ điều chỉnh nhất định như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo, quy định của các tổ chức xã hội và quan trọng hơn cả là pháp luật.


Trong xã hội có giai cấp thì pháp luật là phương tiện quan trọng bậc nhất và không thể thiếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội vì lợi ích của con người. Điều chỉnh pháp luật hay quản lí bằng pháp luật là nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, sắp xếp, trật tự hóa và định hướng cho chúng phát triển theo những hướng nhất định nhằm đạt được những mục đích đề ra. Quản lí xã hội bằng pháp luật sẽ làm cho các quan hệ xã hội vận động theo đúng quỹ đạo của chúng, phù hợp với các quy luật khách quan nhằm thiết lập trật tự, trong đó các quan hệ xã hội phát triển theo những hướng mà nhà nước và xã hội mong muốn. Chẳng hạn, để quản lí các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế của đất nước thì nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật về kinh tế để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến các vấn đề như xác định các hình thức sở hữu trong xã hội, các thành phần kinh tế, các hoạt động kinh tế được phép và không được phép thực hiện, các cơ quan thực hiện việc quản lí nhà nước về kinh tế, thẩm quyền của các cơ quan này…

Điều chỉnh pháp luật là dạng điều chỉnh xã hội có tổ chức và có mục đích. Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú nên cần rất nhiều các công cụ điều chỉnh khác nhau, trong đó có pháp luật. Do vậy, điều chỉnh pháp luật được xem là dạng điều chỉnh xã hội nhưng đây là dạng điều chỉnh đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội mà tập trung điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng, có tính phổ biến, điển hình. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và các quan hệ xã hội rất đa dạng, phức tạp: Một mặt, các quan hệ xã hội (đặc biệt là những quan hệ kinh tế, chính trị) có vai trò quyết định đối với pháp luật; mặt khác, chính bản thân các quan hệ xã hội lại là đối tượng tác động có mục đích của pháp luật. Các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển một cách khách quan, nhà nước chỉ tác động vào chúng bằng pháp luật. Nói cách khác, pháp luật không thể làm phát sinh các quan hệ xã hội (các quan hệ xã hội phát sinh, phát triển, biến đổi phụ thuộc và các quy luật khách quan), pháp luật chỉ điều chỉnh chúng cho có trật tự, bảo vệ chúng và hướng chúng phát triển theo những định hướng nhất định. Do vậy, điều chỉnh pháp luật là dạng hoạt động quản lí xã hội có mục đích, có định hướng, có tổ chức và được thực hiện thông qua hệ thống các phương tiện, quy trình pháp lí (thông qua cơ chế điều chỉnh pháp luật).

Sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội thường xảy ra theo hai hướng:

- Đối với những quan hệ xã hội phù hợp với tiến trình phát triển xã hội, đáp ứng lợi ích của nhà nước và xã hội thì pháp luật bảo vệ, củng cố và tạo điều kiện cho chúng phát triển. Trong một số trường hợp, pháp luật còn tác động để thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển những quan hệ xã hội mới, đáp ứng đòi hỏi của đời sống xã hội.

- Đối với những quan hệ xã hội không đáp ứng được lợi ích của nhà nước, của xã hội, lạc hậu, không phù hợp với quy luật phát triển thì pháp luật ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của chúng và từng bước loại trừ chúng ra khỏi đời sống xã hội.

Pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội bằng cách quy định cho các chủ thể (các bên) tham gia các quan hệ đó một số quyền và nghĩa vụ pháp lí đồng thời pháp luật cũng xác định cả những điều kiện để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lí đó được thực hiện. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, các chủ thể buộc phải tự điều khiển hành vi của mình sao cho phù hợp với các quy tắc, các yêu cầu của pháp luật đối với chủ thể quan hệ pháp luật đó…

Thông thường, pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội với hai tư cách: Tư cách thứ nhất là công cụ điều chỉnh mang tính quy phạm và tính bắt buộc chung (sự tác động trực tiếp); tư cách thứ hai là phương tiện tác động về mặt tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, sự tác động về tư tưởng không nhằm mục đích thay đổi hành vi của chủ thể mà chỉ giúp chủ thể nhận thức sâu sắc hơn khi thực hiện hành vi đó. Cũng cần phân biệt giữa tác động pháp luật với điều chỉnh pháp luật. Tác động pháp luật là sự tác động của toàn bộ thượng tầng pháp lí đến toàn bộ đời sống xã hội (tất cả các quan hệ xã hội). Sự tác động có thể không mang lại kết quả cụ thể và không theo định hướng nào rõ ràng, lúc này pháp luật tác động lên đời sống xã hội với cả hai tư cách: Vừa là công cụ điều chỉnh mang tính quy phạm, tính bắt buộc chung vừa là phương tiện tác động về mặt tư tưởng. Còn điều chỉnh pháp luật là bộ phận của sự tác động pháp luật mà pháp luật chỉ với tư cách là công cụ điều chỉnh mang tính quy phạm và tính bắt buộc chung. Điều chỉnh pháp luật luôn phải theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đích định trước, có sự chuẩn bị, theo những thủ tục nhất định và có kết quả mong muốn. Điều chỉnh pháp luật chủ yếu liên quan đến những quan hệ xã hội cơ bản, điển hình, phổ biến và được thực hiện bởi những chủ thể cụ thể. Như vậy, điều chỉnh pháp luật là quá trình nhà nước dùng pháp luật (với tư cách là công cụ điều chỉnh) tác động lên các quan hệ xã hội theo những định hướng nhất định nhằm đạt được những mục đích đề ra.

Điều chỉnh pháp luật là nhà nước dụng pháp luật, thông qua pháp luật, bằng pháp luật để tổ chức đời sống xã hội phù hợp với sự vận động khách quan của các quan hệ xã hội , đảm bảo cho chúng vận động, phát triển phù hợp với ý chí của nhà nước mang lại lợi ích cho nhà nước, cho xã hội và nhân dân. Điều chỉnh pháp luật theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các khâu, các quá trình từ việc sáng tạo ra pháp luật đến việc đưa pháp luật vào cuộc sống; điều chỉnh pháp luật theo nghĩa hẹp là quá trình tác động của quy phạm pháp luật lên quan hệ xã hội theo định hướng nhất định (chỉ bắt đầu từ khi đưa quy phạm pháp luật vào cuộc sống, nghĩa là khi quy phạm pháp luật đã có hiệu lực, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí đó).

Điều chỉnh pháp luật có hai loại: Điều chỉnh chung và điều chỉnh riêng. Điều chỉnh chung có tính chất bắt buộc đối với mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Việc điều chỉnh này được thực hiện thông qua việc ban hành hệ thống các quy định pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước ban hành các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân trong xã hội. Điều chỉnh riêng là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật đưa ra những mệnh lệnh cá biệt, đơn hành đối với chủ thể cụ thể nào đó trong những tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Chẳng hạn, ủy ban nhân dân căn cứ vào các quy định pháp luật để ra quyết định công nhận hôn nhân hợp pháp giữa anh A và chị B khi họ đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của pháp luật hôn nhân và gia đình.

Tóm lại, điều chỉnh pháp luật là quá trình tác động có định hướng, có mục đích của pháp luật (với tư cách là công cụ điều chỉnh) lên các quan hệ xã hội nhằm sắp xếp chúng cho có trật tự, bảo vệ chúng và hướng chúng phát triển theo những định hướng nhất định để đạt được những mục đích đề ra.


II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT


Xác định đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật là xác định ranh giới của sự điều chỉnh và khả năng của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Như trên đã trình bày, pháp luật không phải là công cụ duy nhất điều chỉnh quan hệ xã hội mà còn có nhiều những công cụ điều chỉnh khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo… mỗi công cụ có đối tượng, phạm vi điều chỉnh khác nhau.

1. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội cơ bản, điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội mà tập trung điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, điển hình, phổ biến có liên quan đến cộng đồng xã hội, đến việc củng cố địa vị và lợi ích của lực lượng cầm quyền trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… cần đến sự điều chỉnh của pháp luật còn những quan hệ xã hội không cơ bản, không quan trọng có thể được điều chỉnh bằng các quy phạm xã hội khác. Những quan hệ riêng tư, liên quan đến nội bộ các tổ chức phi nhà nước, liên quan đến tình cảm riêng tư của con người, kể cả những quan hệ xã hội đơn lẻ chỉ xảy ra một vài lần trong cuộc sống thì pháp luật không điều chỉnh.

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật còn có thể là những quan hệ xã hội phát sinh, nghĩa là chúng chỉ tồn tại khi có quy phạm pháp luật. Chẳng hạn các quan hệ bảo hiểm, quan hệ tố tụng… những quan hệ này chỉ tồn tại khi có các quy định của pháp luật.

Việc xác định những quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh bằng pháp luật là rất quan trọng đối với đất nước. Chẳng hạn, đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình thì nam nữ đến độ tuổi nào thì được phép kết hôn, số lượng con cái trong mỗi gia đình, thời điểm sinh con, khoảng cách thời gian giữa các lần sinh (con thứ nhất với con thứ hai cách nhau bao nhiêu năm)… do họ tự quyết định hay do nhà nước quyết định và nhà nước quy định những vấn đề nào, đến đâu là phù hợp. Nếu không xác định đúng (nếu nhà nước không can thiệp mà để mỗi người, mỗi gia đình tự do quyết định có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường cho đất nước cũng như cho mỗi người dân, ngược lại nếu nhà nước sử dụng pháp luật can thiệp quá sâu, quá mức cần thiết thì có thể lại xâm phạm đến tự do, danh dự của con người…).

2. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật

Phạm vi điều chỉnh của pháp luật được xem xét ở hai khía cạnh: Thứ nhất, số lượng các quan hệ xã hội được điều chỉnh, trong đó có cả phạm vi về không gian, thời gian và đối tượng điều chỉnh; thứ hai, phạm vi về mức độ điều chỉnh. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật cũng thể hiện khả năng điều chỉnh của nó.

- Về số lượng, thông thường thời gian đầu khi mới hình thành pháp luật thì các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh chưa nhiều nhưng rồi sau đó chúng được mở rộng dần theo nhu cầu và điều kiện cho phép. Chẳng hạn, trước đây các quan hệ xã hội liên quan đến việc bảo vệ môi trường ít được pháp luật điều chỉnh thì ngày nay chúng được quan tâm điều chỉnh nhiều hơn. Điều này cũng có nghĩa là số lượng quy phạm pháp luật ban đầu chưa nhiều, sau này ngày càng nhiều thêm.

Mỗi quy phạm pháp luật thường được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong những khoảng thời gian, không gian và đối với những đối tượng nhất định. Điều này phụ thuộc vào việc quy phạm đó do cơ quan nào ban hành, mục đích ban hành nó và những yếu tố khác nữa.

- Về mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội thường liên quan đến tầm quan trọng và tính chất của quan hệ xã hội. Các văn bản pháp luật thường được dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng và có tính ổn định hơn nên chỉ điều chỉnh ở cấp độ chung, những vấn đề khái quát, có tính nguyên tắc. Chẳng hạn, các quy định của hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước… Những quan hệ xã hội nào chưa thật ổn định, phạm vi tác động hẹp hoặc dễ thay đổi thì nên điều chỉnh bằng các quy định của các văn bản dưới luật.

Phạm vi, khả năng điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội chịu ảnh hưởng của cả yếu tố chủ quan và khách quan như:

- Ý chí của những nhà xây dựng pháp luật;

- Tầm quan trọng và tính chất của các quan hệ xã hội;

- Điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội (điều kiện kinh tế cho phép thực hiện các quy phạm định luật về bảo vệ môi trường; vệ sinh an toàn thực phẩm; truyền thống duy lí hay duy tình; xã hội đã phát triển hay chưa phát triển…);

- Ý thức pháp luật của nhân dân, của cán bộ, công chức nhà nước, của những nhà chính trị (ý thức pháp luật cao thì khả năng điều chỉnh dễ dàng và hiệu quả điều chỉnh sẽ cao…).;

- Sự thống nhất của hệ thống chính trị, đặc biệt là sự thống nhất giữa ý chí và lợi ích giữa các lực lượng trong xã hội (xã hội càng thống nhất thì khả năng điều chỉnh pháp luật càng tốt, hiện tượng không thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật sẽ giảm…);

- Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật (mức độ chính xác, đồng bộ, phù hợp của pháp luật; hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo trong pháp luật…).

Có thể nói phạm vi điều chỉnh của pháp luật luôn thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, phụ thuộc và rất nhiều điều kiện khác nhau. Hiện nay, đang tồn tại nhiều xu hướng trong việc xác định phạm vi và mức độ điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội: Một số muốn mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội mới (những quan hệ trước đây được điều chỉnh bằng những công cụ khác, những quan hệ xã hội mới phát sinh); số khác lại muốn thu hẹp phạm vi và mức độ điều chỉnh của pháp luật, hạn chế bớt sự can thiệp của pháp luật lên hành vi của các chủ thể, đưa lại nhiều tự do hơn cho các chủ thể pháp luật (đề cao khả năng tự điều chỉnh của xã hội, nhà nước chỉ sử dụng pháp luật để can thiệp khi xã hội không tự giải quyết được hoặc giải quyết không có hiệu quả).

Việc xác định phạm vi điều chỉnh pháp luật lên các quan hệ xã hội có ý nghĩa rất to lớn cho việc quản lí, duy trì sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho xã hội phát triển nhanh và bền vững, đồng thời còn có tác dụng nâng cao hiệu quả pháp luật. Điều này phụ thuộc vào sự sáng suốt của các cơ quan xây dựng pháp luật của đất nước. Xu thế chung là không nên điều chỉnh bằng pháp luật quá nhiều nhưng quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh bằng pháp luật thì phải có pháp luật điều chỉnh; mức độ điều chỉnh sâu, nông là phụ thuộc và từng loại hoặc từng quan hệ xã hội cụ thể sao cho có hiệu quả nhất. Cần tránh hiện tượng lạm dụng pháp luật để can thiệp quá mức cần thiết vào một số hoạt động của các chủ thể pháp luật. Ví dụ như trong thời kì phát triển nền kinh tế tập trung, bao cấp, pháp luật Việt Nam đã can thiệp khá sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế trong xã hội hay pháp luật phong kiến Việt Nam quy định cả việc buộc người đàn ông phải bỏ vợ, người đàn bà phải bỏ chồng trong những trường hợp nhất định…


III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT


Phương pháp điều chỉnh của pháp luật là những cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội để đạt được mục đích đề ra. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật phụ thuộc vào đối tượng điều chỉnh pháp luật (nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội) và ý muốn chủ quan của những người trực tiếp ban hành pháp luật thông qua sự nhận thức, ý thức của họ về lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong mỗi giai đoạn lịch sử.

Các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh rất đa dạng, phong phú, phức tạp với nhiều tính chất và đặc điểm khác nhau nên các phương pháp tác động của pháp luật đối với mỗi loại cũng rất đa dạng, phong phú.  Phương pháp điều chỉnh của pháp luật có những đặc điểm là: Do nhà nước quyết định; được ghi nhận trong quy phạm pháp luật; được nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong những trường hợp cần thiết.

Cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội có thể là: Cấm (không cho phép tiến hành một số hoạt động nhất định, chẳng hạn, cấm các loại xe dừng, đỗ, cấm rẽ trái…); bắt buộc (buộc phải thực hiện một số hoạt động nhất định, chẳng hạn, công dân được quyền khiếu nại, tố cáo hay các phương tiện tham gia giao thông được phép rẽ phải khi đèn đỏ…).

Các phương pháp điều chỉnh của pháp luật thường có sự khác biệt ở chỗ: Chúng xác định chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật khác nhau thì khác nhau; trật tự hình thành các quan hệ pháp luật khác nhau cũng khác nhau; quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên tham gia quan hệ pháp luật khác nhau thì khác nhau và các biện pháp đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí đối với mỗi loại quan hệ pháp luật khác nhau cũng khác nhau.
Trong các ngành luật hiện nay, nhiều phương pháp điều chỉnh pháp luật khác nhau thường sử dụng kết hợp để đảm bảo hiệu quả điều chỉnh cao hơn.


IV. CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT


1. Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật

Điều chỉnh pháp luật là dạng điều chỉnh xã hội có tổ chức, có mục đích được thực hiện thông qua hệ thống các phương tiện, quy trình pháp lí được gọi là cơ chế điều chỉnh pháp luật. Cơ chế điều chỉnh pháp luật là khái niệm phức tạp, nó được xem xét, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau từ chức năng, mục đích xã hội, tâm lí, hệ thống… Trong phạm vi giáo trình này, cơ chế điều chỉnh pháp luật được tiếp cận dưới góc độ hệ thống. Do vậy, cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu là hệ thống thống nhất các phương tiện, quy trình pháp lí có liên quan mật thiết với nhau, thông qua đó thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những nhiệm vụ và mục đích mà nhà nước đặt ra.

Cơ chế điều chỉnh pháp luật có nhiều yếu tố tạo thành như quy phạm pháp luật, văn bản cá biệt, quan hệ pháp luật, chủ thể pháp luật, ý thức pháp luật, pháp chế , trách nhiệm pháp lí… Mỗi yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có vị trí, vai trò và những nhiệm vụ nhất định trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Giữa các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật luôn có sự liên kết mật thiết, thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Thông thường yếu tố này là tiền đề, cơ sở và bổ sung cho yếu tố khác để tạo ra sự vận hành đồng bộ, nhịp nhàng của cả cơ chế nhằm thực hiện sự tác động, điều chỉnh pháp luật lên các quan hệ xã hội. Do vậy, nếu thiếu đi yếu tố nào đó thì cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể không vận hành được hoặc vận hành nhưng không hiệu quả.

Cơ chế điều chỉnh pháp luật hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lí xã hội, là sự kết hợp giữa cái khách quan (do nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội) và cái chủ quan (phụ thuộc vào ý chí nhà nước, ý chí của các chủ thể pháp luật). Do vậy, cơ chế điều chỉnh pháp luật là cơ chế sống động, nó luôn biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã hội và nhu cầu hoàn thiện, nâng cao hiệu quả việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

Cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể giản đơn (không có giai đoạn áp dụng pháp luật) cũng có thể là cơ chế phức tạp (thông qua giai đoạn áp dụng pháp luật, với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau, được tiến hành thông qua nhiều trình tự, thủ tục với nhiều công đoạn khác nhau mà pháp luật quy định). Khi tiến hành điều chỉnh pháp luật đòi hỏi tất cả các tổ chức và cá nhân phải tuân theo cơ chế điều chỉnh pháp luật một cách chính xác, có như vậy thì việc điều chỉnh pháp luật mới đạt được mục đích mong muốn, mới có hiệu quả.

2. Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật

a. Quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Quy phạm pháp luật có vị trí vô cùng quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, không có quy phạm pháp luật cũng có nghĩa là không có sự điều chỉnh pháp luật. Nhiệm vụ của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là xác định đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh của văn bản hay quy phạm pháp luật như:
- Xác định những tổ chức, cá nhân nào chịu sự tác động của quy định pháp luật;

- Xác định những hoàn cảnh, điều kiện mà trong đó các chủ thể cần phải tiến hành (chỉ đạo) các hành vi của mình theo quy định của pháp luật;

- Nêu cách (quy tắc) xử sự bằng việc chỉ ra quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đó;

- Một số quy phạm còn xác định cả phương pháp tiến hành, thời gian, không gian tác động của quy phạm, thậm chí cả kết quả hoặc hậu quả của việc điều chỉnh pháp luật.

Các văn bản giải thích pháp luật chính thức cũng có vị trí, vai trò quan trọng như quy phạm trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Chúng là phương tiện để đảm bảo cho sự nhận thức thống nhất và thực hiện thống nhất các quy định pháp luật.

b. Quyết định áp dụng pháp luật

Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật mà chủ yếu là văn bản áp dụng pháp luật có vai trò cụ thể hóa những quy tắc xử sự chung thành những quy tắc xử sự cụ thể cho những tổ chức và cá nhân xác định, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể hoặc các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong trường hợp truy cứu trách nhiệm pháp lí. Quyết định áp dụng pháp luật có thể tham gia vào cơ chế điều chỉnh pháp luật ở hai giai đoạn khác nhau:

- Giai đoạn đầu dùng để cá biệt hóa quy tắc xử sự chung thành quy tắc xử sự cá biệt khi quy phạm pháp luật quy định (đòi hỏi) là sự cá biệt hóa các quyền và nghĩa vụ đó phải do các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành chứ không phải những chủ thể tham gia quan hệ đó tự tiến hành.

- Giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lí được dùng để cá biệt hóa các biện pháp cưỡng chế nhà nước mà chế tài các quy phạm pháp luật đã quy định đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự cá biệt hóa các quyền và nghĩa vụ pháp lí được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật trong văn bản quy phạm pháp luật không nhất thiết phải thực hiện bằng văn bản cá biệt. Chẳng hạn, một số quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình.

Quyết định áp dụng pháp luật là sự kiện pháp lí, nó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lí trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là chiếc cầu nối giữa ý chí nhà nước (thể hiện trong quy phạm pháp luật) và quan hệ pháp luật, cụ thể hơn, là các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi trong thực tế cuộc sống xuất hiện các sự kiện pháp lí tương ứng.

c. Quan hệ pháp luật

Nhà nước dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội đã làm cho quan hệ xã hội mang tính chất pháp lí, nghĩa là đã tạo ra cho các bên tham gia quan hệ xã hội đó các quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định. Quan hệ pháp luật vừa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật và là yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật, thông qua quan hệ pháp luật cụ thể mà quy phạm pháp luật được thể hiện trong cuộc sống. Quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể của các tổ chức, cá nhân cụ thể đã có khả năng thực hiện được trên thực tế.

Tuy nhiên, quy phạm pháp luật không thể tự mình tác động lên quan hệ xã hội được mà sự tác động đó phải được tiến hành thông qua hành vi thực tế thực hiệc các quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể pháp luật. Như vậy, bằng hành vi thực tế của mình, các tổ chức, cá nhân làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống (làm cho việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thực hiện trên thực tế).

d. Ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó là cơ sở tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình điều chỉnh pháp luật để việc điều chỉnh pháp luật được tiến hành đúng đắn, có cơ sở khoa học và đạt hiệu quả cao. Ý thức pháp luật vừa giúp cho việc xây dựng pháp luật có chất lượng vừa giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật có hiệu quả, việc xét sử chính xác, nghiêm minh. Do vậy, trình độ văn hóa pháp lí và ý thức pháp luật của các tổ chức và cá nhân mà đặc biệt là của độ ngũ những người trực tiếp xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả điều chỉnh pháp luật.

đ. Trách nhiệm pháp lí

Trách nhiệm pháp lí thể hiện ở sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Vai trò của trách nhiệm pháp lí trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là phương tiện để xóa bỏ hiện tượng vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình điều chỉnh pháp luật, bảo đảm cho cơ chế điều chỉnh pháp luật hoạt động bình thường và ngăn chặn những hành vi tương tự như vậy trong tương lai.

e. Pháp chế

Pháp chế là nguyên tắc cơ bản của quá trình điều chỉnh pháp luật, nó đòi hỏi mọi hoạt động điều chỉnh pháp luật phải phù hợp với các quy định pháp luật. Chỉ quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế mới xóa bỏ được sự quản lí tùy thuộc vào các tình tiết ngẫu nhiên, vào tâm trạng và tính cách của nhà quản lí, làm cho các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể liên kết được với nhau trong thể thống nhất, hoạt động nhịp nhàng và đồng bộ nhằm đạt được các mục đích đặt ra.

f. Chủ thể điều chỉnh pháp luật

Chủ thể là yếu tố không thể thiếu và có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Chủ thể trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là tổ chức, cá nhân thực hiện sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Chất lượng của chủ thể có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của điều chỉnh pháp luật. 

Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật gồm hệ thống phức tạp các phương tiện, quy trình pháp lí liên quan chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau thông qua đó thực hiện sự tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích mong muốn. Do vậy, trong quá trình điều chỉnh pháp luật không được xem nhẹ yếu tố nào, chất lượng của mỗi yếu tố và sự vận hành đầy đủ của các quy trình pháp lí sẽ là những đảm bảo cho việc điều chỉnh pháp luật đạt hiệu quả tốt nhất.


V. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

Điều chỉnh pháp luật là quá trình phức tạo với những trình tự, thủ tục chặt chẽ được pháp luật quy định. Sau đây là một số giai đoạn cơ bản có liên quan tới quá trình điều chỉnh pháp luật (cần chú ý là việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối).

- Giai đoạn thứ nhất – Xác định nhiệm vụ, mục đích của điều chỉnh pháp luật để lập chương trình điều chỉnh pháp luật.

Nhiệm vụ của điều chỉnh pháp luật cần được xác định ở nhiều cấp độ khác nhau, có nhiệm vụ của toàn bộ hoạt động điều chỉnh pháp luật, có nhiệm vụ của từng lĩnh vực, từng trường hợp nói riêng. Xác định mục đích, nhu cầu điều chỉnh pháp luật (điều chỉnh nhằm mục đích gì, cần đạt được những gì) để lập chương trình xây dựng pháp luật. Giai đoạn này cần tiến hành phân tích tình hình, chính sách cho thật chính xác, trên cơ sở đó tìm kiếm phương án điều chỉnh tốt nhất trong điều kiện hiện tại để giải quyết vấn để và phải luôn chú ý là pháp luật không phải là công cụ vạn năng có thể giải quyết được mọi việc mà nó cũng có những hạn chế nhất định.

Khi lập phương án giải quyết các nhiệm vụ đã được xác định cần nghiên cứu kĩ kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đã được tích lũy ở trong nước và thế giới, tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những tư liệu đã nghiên cứu về vấn đề đó.

Trong những trường hợp phức tạp còn nhiều nghi ngờ, bàn cãi về hiệu quả của việc điều chỉnh pháp luật đối với những trường hợp đó cần cân nhắc thận trọng, nếu có thể thì nên tổ chức những thực nghiệm xã hội – pháp lí (làm thí điểm) trước rồi mới tiến hành trên quy mô toàn xã hội để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.

- Giai đoạn thứ hai – Ban hành pháp luật.

Việc ban hành pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành và phải theo những hình thức, thủ tục, trình tự luật định. Nội dung các quy định pháp luật được ban hành phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội… của nhà nước cũng như các điều kiện sinh hoạt, ý thức pháp luật của nhân dân.

Sau khi ban hành các quy định pháp luật, các cơ quan nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết để đưa chúng vào thực hiện như công bố, thông báo cho các đối tượng phải thực hiện biết được nội dung các quy định của pháp luật…

Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước còn phải tiến hành những công việc như ban hành các quy định chi tiết, giải thích pháp luật, hướng dẫn việc thi hành, cung cấp phương tiện, ngân sách cho việc tiến hành các hoạt động pháp luật; tuyển dụng, đào tạo cán bộ, công chức… thì quy định, văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành mới có khả năng được thực hiện bình thường.

- Giai đoạn thứ ba – Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật đã có hiệu lực.

Việc thực hiện pháp luật có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức như tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng pháp luật. Các chủ thể pháp luật bằng hành vi thực tế của mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình theo những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật làm cho các quy định pháp luật đi vào cuộc sống.

- Giai đoạn thứ tư – Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và đánh giá kết quả tác động của pháp luật.

Trong suốt quá trình điều chỉnh pháp luật cần tiến hành thường xuyên hoạt động kiểm tra, giám sát các hoạt động pháp luật và cần có những tổng kết, đánh giá kết quả tác động của pháp luật trên thực tế, phục vụ việc đánh giá hiệu quả của pháp luật, từ đó hoàn thiện quá trình điều chỉnh pháp luật trong hiện tại và tương lai.

Trong quá trình điều chỉnh pháp luật nếu xảy ra hiện tượng vi phạm pháp luật ở bất kì giai đoạn nào thì có thể xuất hiện thêm giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lí. Khi xảy ra vi phạm pháp luật thì các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền phải tiến hành hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, đảm bảo cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường, thông suốt, nghiêm minh, hiệu quả nhằm đạt được những mục đích đề ra cho việc điều chỉnh pháp luật.

Đời sống xã hội luôn vận động, biến đổi không ngừng, vì vậy điều chỉnh pháp luật cũng là quá trình không ngừng, không nghỉ trong xã hội hiện nay. Các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật cứ liên tiếp nối tiếp, đan xen bổ sung và gắn bó chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của pháp luật. Quá trình điều chỉnh pháp luật cần có sự kết hợp chặt chẽ với các loại điều chỉnh xã hội khác để phát huy được vai trò của pháp luật cũng như các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp, hạnh phúc hơn.











No comments:

Post a Comment