27/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XXIII (chương cuối) - Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XXIII

HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1. Khái niệm hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hệ thống là khái niệm được dùng để chỉ những chỉnh thể (sự vật, hiện tượng) có kết cấu thống nhất, được tạo thành từ các thành tố có mối liên hệ chặt chẽ, có sự tác động qua lại với nhau và được tập hợp theo những trật tự nhất định. Trong khoa học pháp lí, khái niệm hệ thống pháp luật có thể được xem xét ở nhiều phương diện và cấp độ khác nhau.
Trước hết, dưới góc độ cấu trúc thì pháp luật của các nhà nước hiện đại không phải là tập hợp giản đơn các quy định pháp luật mà là hệ thống (hệ thống cấu trúc của pháp luật). Hệ thống cấu trúc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chỉnh thể gồm tất cả các quy định pháp luật có sự liên kết và thống nhất nội tại với nhau, được phân định thành những bộ phận nhỏ hơn, phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh.

Hệ thống cấu trúc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất phức tạp, nội bộ của nó gồm rất nhiều thành tố bộ phận, trong đó có các thành tố cơ bản là quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật. Ngoài ra còn có những thành tố khác như phân ngành luật (lớn hơn chế định pháp luật nhưng nhỏ hơn ngành luật), tổ hợp các ngành luật (lớn hơn ngành luật nhưng nhỏ hơn hệ thống cấu trúc của pháp luật quốc gia...)


+ Quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự được ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội chung có tính chất phổ biến, điển hình. Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất của hệ thống cấu trúc pháp luật, nó là tiểu hệ thống được cấu tạo từ các bộ phận như giả định, quy định hoặc chế tài pháp luật...

+ Chế định pháp luật

Chế định pháp luật là nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội đòi hỏi phải có những nhóm quy phạm pháp luật tương ứng để điều chỉnh vì thế mà hình thành nên chế định pháp luật. Việc xác định đúng tính chất nhóm của quan hệ xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành chế định pháp luật. Chế định pháp luật là thành tố cấu trúc của hệ thống pháp luật, nó là hệ thống các quy phạm pháp luật có tính chất nhóm nên chúng không tồn tại biệt lập trong hệ thống cấu trúc của pháp luật. Chẳng hạn, chế định sở hữu, chế định hợp đồng trong luật dân sự.

+ Ngành luật

Ngành luật là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại quan hệ xã hội (những quan hệ xã hội có chung tính chất thuộc lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội) bằng những phương pháp nhất định. Ngành luật là hệ thống có tính chất loại, là thành tố có tính độc lập tương đối trong hệ thống cấu trúc của pháp luật có quy mô lớn hơn chế định pháp luật. Chẳng hạn, ngành luật dân sự, ngành luật hành chính...

Giữa các bộ phận, thành phần tạo nên quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật và hệ thống cấu trúc của pháp luật luôn có sự liên kết, ràng buộc, tác động qua lại và thống nhất với nhau. Có thể nói, các quy định pháp luật có nhiều phạm vi liên kết và mức độ liên kết khác nhau, nhiều sự liên hệ, nhiều mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau rất phức tạp. Điều này xuất phát từ sự phức tạp của chính các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Có thể nói, hệ thống cấu trúc của pháp luật luôn chưa trong nó những thành tố nhất định, trong đó hệ thống lớn là môi trường của hệ thống nhỏ, nó chi phối hệ thống nhỏ, còn hệ thống nhỏ cũng có ảnh hưởng tích cực tới hệ thống lớn, tùy thuộc vào vị trí, vai trò của nó trong hệ thống lớn. Khi phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh tăng, số lượng các quy định pháp luật nhiều lên thì mức độ liên kết của chúng sẽ giảm đi. Chẳng hạn, sự liên kết của các quy định pháp luật trong chế định pháp luật thì chặt chẽ hơn so với sự liên kết của các quy định pháp luật trong ngành luật...

Ngoài việc xem xét pháp luật dưới góc độ cấu trúc của các quy định pháp luật (hệ thống cấu trúc của pháp luật) còn có thể xem xét pháp luật dưới giác độ pháp luật thực định (hệ thống pháp luật thực định hay còn gọi là hệ thống nguồn pháp luật). Hệ thống pháp luật thực định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tập hợp gồm tất cả các nguồn pháp luật (chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật) của quốc gia có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp theo trật tự thang bậc hiệu lực pháp lí của chúng, bảo đảm sự thống nhất, phù hợp của chúng trong chỉnh thể. Các nguồn pháp luật của quốc gia rất phong phú và đa dạng, được ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau và tạo nên hệ thống pháp luật thực định. Các thành tố của hệ thống pháp luật thực định được sắp xếp theo trật tự thức bậc hiệu lực pháp lí của chúng, phù hợp với thẩm quyền của các chủ thể ban hành ra chúng. Chẳng hạn, trong hệ thống pháp luật thực định thì hiến pháp là luật cơ bản có hiệu lực pháp lí cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp, bởi hiến pháp do cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ban hành. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật thực định có ý nghĩa rất lớn đối với việc ban hành và áp dụng pháp luật (nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí thấp không được ban hành trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn và tất cả chúng không được trái với hiến pháp; khi áp dụng pháp luật phải ưu tiên các quy định của hiến pháp, của các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn....

Trong luật học so sánh, hệ thống pháp luật còn được xem xét không chỉ dưới phương diện cấu trúc của các quy định pháp luật (liên quan đến các ngành luật, chế định pháp luật, quy phạm pháp luật), phương diện pháp luật thực định (liên quan đến các nguồn luật) mà còn xem xét cả các thiết chế thực thi và bảo vệ pháp luật, thậm chí cả nghề luật và công tác đào tạo luật... của quốc gia. Khái niệm hệ thống pháp luật trong trường hợp này được mở ra rất rộng, gồm tất cả những gì liên quan đến pháp luật và hoạt động pháp luật của quốc gia, tất cả chúng đều có mối liên hệ, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và được tập hợp, sắp xếp, vận hành theo những trật tự, quy trình nhất định.


Như vậy, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hiện tượng vừa đa dạng vừa thống nhất, có thể xem xét nó dưới nhiều phương diện khác nhau.

Cần chú ý là trong khoa học pháp lí hiện nay thuật ngữ “hệ thống pháp luật” không chỉ dùng để chỉ cấu trúc pháp luật của quốc gia mà còn được dùng để chỉ cả những cấu trúc (tập hợp) pháp luật lớn hơn, vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia như hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật châu Âu lục địa... là tập hợp pháp luật của nhóm quốc gia có những điểm đặc thù giống nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau (còn gọi là dòng họ hay gia đình pháp luật); hệ thống pháp luật quốc tế gồm tổng thể các quy định pháp luật hình thành trong quá trình kí kết và thỏa thuận của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các chủ thể khác để điều chỉnh các quan hệ chủ yếu giữa các quốc gia.

Việc xem xét pháp luật dưới góc độ hệ thống không chỉ cho phép thấy được những thuộc tính của pháp luật, sự thống nhất nội tại, sự liên hệ, các mối quan hệ chặt chẽ giữa các quy định pháp luật, các nguồn pháp luật... mà còn có điều kiện đánh giá về tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp... của các quy định pháp luật, nguồn pháp luật để phục vụ cho công tác xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, lí luận về hệ thống pháp luật còn giúp cho việc nghiên cứu, hệ thống hóa pháp luật, sắp xếp một cách khoa học, logic các quy định pháp luật, phát hiện kịp thời những quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, những thiếu sót của pháp luật để loại bỏ những quy định không còn phù hợp, kịp thời bổ sung những quy định mới nhằm tạo ra được những quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật và hệ thống pháp luật hoàn thiện. Hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ có hiệu quả cao hơn, sẽ là nhân tố quan trọng tạo ra sự ổn định và phát triển đất nước.

2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Mỗi hệ thống pháp luật đều có lịch sử riêng của mình, gắn liền với đặc điểm của đất nước về lịch sử, dân cư, địa lí, tính cách con người, truyền thống.... Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình thành cùng với sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nó không ngừng phát triển và hoàn thiện cùng đất nước với những nguyên tắc chống áp bức, bóc lột, thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, vì con người. 

Sự thống nhất nội tại là nguyên tắc rất quan trọng của hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó biểu hiện ở sự gắn bó hữu cơ khăng khít với nhau giữa các quy định pháp luật, ở những nguyên tắc của pháp luật, ở xu hướng loại trừ dần những mâu thuẫn giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật. Cơ sở trực tiếp của sự thống nhất đó là sự thống nhất về bản chất, về nội dung, về chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành tố cũng như của cả hệ thống pháp luật. Điều này được xác định khách quan bởi sự thống nhất của toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:

+ Sự thống nhất và phát triển của hệ thống kinh tế dựa trên cơ sở các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;

+ Sự thống nhất giữa các lực lượng trong xã hội, lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác về cơ bản là thống nhất;

+ Sự thống nhất của hệ thống chính trị biểu hiện ở mục đích cuối cùng, ở nhiệm vụ và nội dung hoạt động cơ bản của từng bộ phận trong hệ thống chính trị;

+ Sự liên kết chặt chẽ và tác động qua lại của tất cả các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mĩ... mà cơ sở của chúng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

+ Ý thức chủ quan của những nhà làm luật, họ mong muốn có được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, đồng bộ.

Hệ thống pháp luật Việt Nam chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, truyền thống dân tộc... của đất nước trong mỗi thời kì phát triển. Việt nam chưa phát triển lắm so với các quốc gia khác nên hệ thống pháp luật cũng chậm phát triển, thêm vào đó là nhận thức về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của hcunsg ta có thời kì còn chưa được chú trọng vì vậy, việc ban hành pháp luật chậm so với sự phát triển của đất nước, dẫn đến hệ thống pháp luật Việt Nam có những giai đoạn phát triển thiếu cân đối, chưa phù hợp.

Mỗi hệ thống pháp luật luôn chịu sự chi phối, tác động của môi trường (hệ thống lớn là môi trường của hệ thống nhỏ). Sự chi phối của hệ thống lớn đối với hệ thống nhỏ thông qua các nguyên tắc chung của nó. Hệ thống nhỏ chịu sự chi phối và phải phù hợp với môi trường song nó cũng có ảnh hưởng rất lớn trở lại đối với môi trường. Hệ thống pháp luật Việt Nam chịu sự chi phối của pháp luật châu Âu lục địa mà trực tiếp là pháp luật của Pháp, sau này là pháp luật xã hội chủ nghĩa Xô viết. Còn bây giờ là sự giao thoa, đan xen của nhiều trường phái, quan điểm pháp luật khác nhau. 

Hệ thống pháp luật Việt Nam luôn là tập hợp động, tính ổn định chỉ là tương đối, nó luôn vận động thay đổi (được bổ sung thêm các quy phạm pháp luật mới và loại bỏ dần những quy phạm pháp luật lạc hậu, không còn giá trị), phát triển từ thời kì này sang thời kì khác phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước. Khi kinh tế, xã hội thay đổi thì hệ thống pháp luật của đất nước cũng thay đổi, phát triển theo.

II. CĂN CỨ ĐỂ PHÂN ĐỊNH NGÀNH LUẬT VÀ CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1. Căn cứ để phân định ngành luật

Việc phân định ngành luật ở Việt Nam thường dựa vào hai căn cứ là đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh pháp luật. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật là những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có chung tính chất (cùng loại), phát sinh trong lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Số lượng các quan hệ xã hội trong đối tượng điều chỉnh của ngành luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào ý chí của nhà nước và các điều kiện chính trị, xã hội khác... Phương pháp điều chỉnh pháp luật là những cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội (đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó) và ý muốn chủ quan của những người trực tiếp ban hành pháp luật thông qua sự nhận thức, ý thức của họ về lợi ích nhà nước, của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử. Nói cách khác, việc sử dụng cách thức nào để điều chỉnh quan hệ xã hội nào đó là phụ thuộc ý chí của người ban hành pháp luật và nội dung, tính chất của quan hệ xã hội đó.

Trên thực tế, việc nhận thức đối tượng điều chỉnh và xác định phương pháp điều chỉnh của ngành luật để phân định pháp luật thành các ngành luật là vấn đề rất phức tạp, vì không phải lúc nào cũng có thể chỉ ra được sự tương đồng giữa các quan hệ xã hội cùng loại. Việc phân định ranh giới các ngành luật luôn là vấn đề khoa học phức tạp nên có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định hệ thống các ngành luật và việc phân định chúng cũng chỉ mang tính chất tương đối. Bởi sự phân định pháp luật thành các bộ phận nhỏ khác nhau vừa mang tính khách quan (phụ thuộc tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh) vừa mang tính chủ quan (phụ thuộc ý chí của nhà nước, của các chuyên gia pháp lí). Ngoài ra, sự phân định đó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu điều chỉnh pháp luật ở mỗi thời kì phát triển của đất nước. Hệ thống pháp luật là hiện tượng năng động, các quan hệ xã hội càng phát triển, càng đa dạng, phức tạp bao nhiêu thì hệ thống pháp luật cũng càng phát triển, đa dạng và phức tạp bấy nhiêu.

2. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay có các ngành luật như: Luật hiến pháp, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng dân sự, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật tài chính, luật ngân hàng, luật đất đai, luật kinh tế, luật lao động, luật hôn nhân và gia đình...

* Luật hiến pháp (còn gọi là luật nhà nước) là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất gắn liền với việc tổ chức quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là ngành luật chủ đạo của hệ thống pháp luật. Đối tượng điều chỉnh của luật hiến pháp là những quan hệ xã hội quan trọng liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước như nguồn gốc của quyền lực nhà nước, bản chất của nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, quan hệ giữa nhà nước và công dân... là những quan hệ cơ sở cho những quan hệ xã hội khác. Phương pháp điều chỉnh của luật hiến pháp là phương pháp định nghĩa bắt buộc, quyền uy áp đặt. Nguồn cơ bản của luật hiến pháp là hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức tòa án nhân dân, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân...

* Luật hành chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh chính trị trong cả nước, ở từng địa phương hay từng ngành. Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật hành chính là phương pháp quyền uy mệnh lệnh: Quyền lực phục tùng. Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên đại diện cho nhà nước có quyền ra lệnh còn bên kia phải phục tùng. Nguồn chủ yếu của luật hành chính là hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính, các nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ....

* Luật hình sự là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm xác định những hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm đồng thời quy định các hình phạt đối với những người có hành vi phạm tội. Luật hình sự được chia thành hai phần:

- Phần chung gồm những quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật hình sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt...

- Phần các tội phạm (phần riêng) gồm những quy phạm pháp luật quy định các tội phạm cụ thể, loại và mức hình phạt với các loại tội phạm đó.

Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp quyền uy. Các chủ thể pháp luật đại diện cho nhà nước có quyền tối cao trong việc định đoạt số phận của người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi phạm tội của họ. Nguồn chủ yếu của luật hình sự là Bộ luật hình sự.

* Luật tố tụng hình sự là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và quá trình kiểm sát việc điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là phương pháp quyền uy và phối hợp, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Nguồn chủ yếu của luật tố tụng hình sự là Bộ luật tố tụng hình sự.

* Luật dân sự là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa tiền tệ và một số quan hệ nhân thân trên nguyên tắc bình đẳng, độc lập của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của các thành viên trong xã hội. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là cách thức tác động mang tính bình đẳng về pháp lí giữa các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền tự định đoạt về các quyền và lợi ích của mình trong quan hệ dân sự. Nguồn cơ bản của luật dân sự là Bộ luật dân sự.

* Luật tố tụng dân sự là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa tòa án, viện kiểm sát, các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án dân sự. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa tòa án, viện kiểm sát với những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án dân sự. Luật tố tụng dân sự được xây dựng và áp dụng theo các nguyên tắc cơ bản như: Quyền tự định đoạt của đương sự; nghĩa vụ cung cấp và thu thập chứng cứ của đương sự; bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự; trách nhiệm hòa giải của tòa án... Nguồn cơ bản của luật tố tụng dân sự là Bộ luật tố tụng dân sự.

* Luật hôn nhân và gia đình là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ. Đối tượng điều chỉnh của luật hôn nhân và gia đình là các quan hệ hôn nhân và gia đình. Các quan hệ này gồm có quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể giữ vai trò chủ đạo, trong đó quyền và nghĩa vụ không được chuyển giao, không đền bù ngang giá. Phương pháp điều chỉnh của luật hôn nhân và gia đình có đặc điểm mang tính hướng dẫn, thuyết phục nhiều hơn là tính cưỡng chế. Nguồn cơ bản của luật hôn nhân và gia đình là Luật hôn nhân và gia đình.

* Luật kinh tế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lí và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lí nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ xã hội liên quan tới sự hình thành, hoạt động và giải thể hoặc phá sản của các chủ thể kinh doanh. Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế bao gồm cả phương pháp mệnh lệnh và phương pháp thỏa thuận. Nguồn chủ yếu của luật kinh tế gồm các luật về công ti, Luật đầu tư, Luật về doanh nghiệp...

* Luật lao động là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân, tổ chức). Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là những quan hệ lao động và các quan hệ xã hội khác có liên quan tới lao động. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động bao gồm cả phương pháp mệnh lệnh và phương pháp thỏa thuận. Nguồn chủ yếu của luật lao động là Bộ luật lao động

* Luật tài chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước, trong quá trình thành lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể hoạt động phân phối của cải dưới hình thức giá trị. Đối tượng điều chỉnh của luật tài chính là quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị, phát sinh trong quá trình tạo lập, quản lí và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ nhất định. Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính bao gồm cả phương pháp mệnh lệnh bắt buộc và phương pháp bình đẳng, thỏa thuận. Nguồn cơ bản của luật tài chính là các luật và pháp lệnh thuế, Luật ngân sách nhà nước...

* Luật ngân hàng là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí, kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối. Luật ngân hàng sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh và phương pháp bình đẳng thỏa thuận. Nguồn cơ bản của luật ngân hàng là Luật ngân hàng nhà nước và Luật tổ chức tín dụng.

* Luật đất đai là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc sở hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất. Đối tượng điều chỉnh của luật đất đai là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và cá nhân trực tiếp chiếm hữu, quản lí và sử dụng đất đai nhằm sử dụng đất hợp lí, tiết kiệm và có hiệu quả. Phương pháp điều chỉnh của luật đất đai là phương pháp mệnh lệnh hành chính, mang tính quyền uy và phương pháp bình đẳng thỏa thuận. Nguồn chủ yếu của luật đất đai là Luật đất đai.

Ngoài các ngành luật nói trên, một số học giả còn phân định thêm một số ngành luật khác nữa như: Luật an sinh xã hội (gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội... để bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội); luật môi trường (gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ các hoạt động quản lí, bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, môi trường đô thị, khu dân cư...)...


III. NHỮNG TIÊU CHÍ ĐỂ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Để đánh giá về hệ thống pháp luật Việt Nam, xác định mức độ hoàn thiện của nó cần phải dựa vào những tiêu chí được xác định về mặt lí thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và rút ra những kết luận, làm sáng rõ những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống pháp luật. 

Có nhiều tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, ngôn ngữ, kĩ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của hệ thống pháp luật.

1. Tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật

Tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, các quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến, điển hình cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có đầy đủ pháp luật để điều chỉnh. Hệ thống các nguồn pháp luật mà đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành toàn diện và đồng bộ, không chủ có các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà còn có đầy đủ các quy định pháp luật để điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đời sống dân sinh như dân sự, thương mại, đầu tư..., không chỉ có các quy định pháp luật nội dung mà còn có đủ các quy định pháp luật về hình thức (trình tự, thủ tục thực hiện chúng). Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng được ban hành đầy đủ, kịp thời.

Tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống pháp luật cần phải được đánh giá ở nhiều cấp độ khác nhau như từng quy phạm pháp luật phải có cấu trúc logic, chặt chẽ; mỗi chế định pháp luật có đầy đủ các quy định pháp luật theo cơ cấu của ngành luật; còn hệ thống pháp luật có đủ các ngành luật đáp ứng được nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. 

2. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Giữa các bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật không chỉ có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ mà còn phải luôn có sự thống nhất nội tại với nhau. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật. Tính thống nhất phải được thể hiện trong cả hệ thống pháp luật cũng như trong từng bộ phận hợp thành của nó ở tất cả các cấp độ khác nhau, nghĩa là giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật, giữa các chế định pháp luật trong ngành luật, giữa các quy phạm pháp luật trong chế định pháp luật. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy định pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi các nguồn pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hòa về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi loại nguồn về hiệu lực pháp lí cao nhất, mọi văn bản pháp luật và các loại nguồn khác của pháp luật phải phù hợp với hiến pháp.

3. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, pháp luật không thể cao hơn hoặc quá thấp hơn so với trình độ phát triển đó. 
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật biểu hiện ở những mặt cụ thể như phù hợp với các điều kiện kinh tế, điều kiện chính trị của đất nước mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của đảng cẩm quyền; phù hợp với các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác như đạo đức, tập quán, truyền thống... Ngoài ra, pháp luật còn phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, hài hòa hóa với pháp luật nước ngoài. Xác định hình thức nguồn pháp luật và phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp với mỗi loại quan hệ xã hội.

4. Ngôn ngữ và kĩ thuật xây dựng pháp luật

Ngôn ngữ và trình độ kĩ thuật xây dựng pháp luật cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Điều này thể hiện ở việc xác định đúng đắn những nguyên tắc trong hoạt động xây dựng pháp luật, những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình hoạt động đó nhằm tạo ra được những quy định, nguồn pháp luật, đặc biệt là những văn bản quy phạm pháp luật tốt nhất, phù hợp với các quy định đã có và cơ chế thực thi pháp luật của đất nước; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của hệ thống pháp luật, của mỗi nguồn pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng trong pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, logic, một nghĩa và dễ thực hiện đối với cán bộ và nhân dân. Việc sử dụng thuật ngữ trong các nguồn pháp luật phải thống nhất, đặc biệt là khi dùng để biểu đạt đối với cùng một nội dung. Đối với những thuật ngữ chuyên môn nếu có sự nhận thức không thống nhất đều được xác định rõ nội dung trong văn bản.

Mức độ hệ thống hóa cao và sự tồn tại của nhiều bộ luật, bộ pháp điển cũng được coi là biểu hiện của hệ thống pháp luật hoàn thiện.


5. Tính khả thi của hệ thống pháp luật

Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong những điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội hiện tại của đất nước.

Tính khả thi của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở việc các quy định pháp luật được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn hóa và kiến thức pháp lí của nhân dân...

IV. HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT

Hệ thống hóa pháp luật là hoạt động tập hợp, sắp xếp các quy định pháp luật hoặc các loại nguồn (các văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp...) theo những trật tự nhất định. Nói cách khác là từ hệ thống pháp luật hiện hành (các quy định pháp luật trong các nguồn luật) tiến hành tập hợp, sắp xếp thành những hệ thống khác nhau để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, xây dựng, sử dụng, áp dụng pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

Hệ thống hóa pháp luật là hoạt động góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhất là việc tạo ra các văn bản luật, bộ pháp điển làm cho hệ thống pháp luật trở nên hoàn chỉnh, thống nhất hơn, trong đó vai trò của các đạo luật ngày càng quan trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu hụt trong hệ thống pháp luật, từng bước làm cho nội dung của pháp luật đáp ứng được những đòi hỏi của đời sống xã hội và có hiệu quả cao hơn. Hệ thống hóa pháp luật còn có vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện và áp dụng pháp luật. Nó giúp các chủ thể thực hiện và áp dụng pháp luật dễ dàng tìm kiếm, lựa chọn quy phạm pháp luật cần thiết, đồng thời chủ thể cũng dễ dàng nhận thức và thực hiện chúng một cách đúng đắn, chính xác hơn. Ngoài ra hoạt động hệ thống hóa pháp luật còn tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu, phổ biến, giáo dục pháp luật tốt hơn.

Hệ thống hóa pháp luật được thực hiện dưới hai hình thức là tập hợp hóa và pháp điển hóa.

a. Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp các quy định pháp luật hoặc các nguồn luật thành tập luật lệ theo những trật tự nhất định như theo chuyên đề, theo ngành quản lí, cơ quan ban hành, tên gọi, thời gian ban hành...

Hình thức tập hợp hóa pháp luật không làm thay đổi nội dung, hiệu lực của các quy định pháp luật, các nguồn luật được tập hợp hóa. Các quy định pháp luật, các chương, các mục hoặc toàn bộ nguồn luật được giữ nguyên như bản gốc kể cả số thứ tự cũng như cách trình bày... trong quá trình tập hợp hóa không được sửa đổi, không được bổ sung các quy định pháp luật mới (không thay đổi nội dung và cả cấu trúc hình thức của quy định... của nguồn pháp luật gốc). Tự bản thân tập luật lệ được tập hợp hóa không có hiệu lực pháp lí, do vậy, không được coi là căn cứ pháp lí để viện dẫn khi áp dụng pháp luật.


b. Pháp điển hóa là hình thức tập hợp các quy định, các nguồn luật và sắp xếp chúng lại trong một chỉnh thể thống nhất, khoa học để tạo thành một văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc bộ pháp điển.
Thông thường, pháp điển hóa được tiến hành theo hai cách cơ bản là pháp điển hóa về nội dung và pháp điển hóa về hình thức. Pháp điển hóa về nội dung (substantive codification) là việc xây dựng một bộ luật trên cơ sở tập hợp các quy định pháp luật hện hành, loại bỏ các quy định không còn phù hợp, bổ sung, dự liệu thêm những quy định mới để đáp ứng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đang phát triển. Pháp điển hóa về hình thức (formal codification) là tập hợp, sắp xếp các quy định pháp luật, các nguồn luật đang có hiệu lực pháp luật thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề với những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết (chủ yếu về mặt kĩ thuật) nhằm làm cho các quy định này phù hợp với nhau nhưng vẫn đảm bảo trật tự pháp lí của chúng. 

Quá trình hệ thống hóa pháp luật đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, phải tiến hành phù hợp với các yêu cầu của kĩ thuật lập pháp, đảm bảo tính khoa học và tính khách quan cũng như các nguyên tắc của hoạt động xây dựng pháp luật.

Cần chú ý là hiện nay ở mỗi nước có quan niệm và cách thức tiến hành hệ thống hóa pháp luật khác nhau, nhất là đối với hình thức pháp điển hóa.


V. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã và đang diễn ra trên tất cả các lĩnh vưc, đòi hỏi pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng và phát triển theo những phương hướng cơ bản sau:

- Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước để khắc phục những hạn chế kém phát triển, tạo ra sự ổn định, phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Sự hoàn thiện các quy định pháp luật phải phù hợp với sự đổi mới kinh tế, chính trị-xã hội của đất nước. Hình thành và hoàn thiện những nhận thức lí luận mới về chủ nghĩa xã hội nói chung, về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở những nhận thức lí luận mới về chủ nghĩa xã hội nói chung, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng từ đó hình thành những cơ sở mới để chỉ đạo quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam phải nhanh chóng góp phần vào việc chuyển dần những ưu việt của chủ nghĩa xã hội về mặt lí luận sang những ưu việt về thực tiễn, từng bước biến những lí tưởng, mục tiêu giải phóng người lao động thành hiện thực.

- Củng cố và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lí kinh tế, pháp luật Việt Nam cần tạo ra sự đổi mới có hiệu quả trong lĩnh vực kinh tế; hoàn thiện các chính sách kinh tế, thiết lập trật tự, kỉ cương trong hoạt động kinh tế, tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lí, giải phóng và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; phát triển mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần xây dựng, củng cố cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường, hoạt động theo nguyên tắc thị trường, lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực, có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả các thị trường cơ bản; phát triển các thành phần kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Do vậy, cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật để ghi nhận những yêu cầu khách quan của việc phát triển nền kinh tế thị trường, tạo lập hành lang pháp lí cho các hoạt động kinh tế đất nước đồng thời tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển các yếu tố đồng bộ của nền kinh tế thị trường, các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của đất nước. Thực hiện việc giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự phát triển, nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần cho nhân dân. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật hiệu quả trong các hoạt động kinh tế, có những giải pháp để bảo đảm vững chắc kỉ cương, trật tự trong hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá nhân, xử lí nghiêm minh các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh tế.

- Giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước, củng cố khối đoàn kết toàn dân, thực hiện mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết là sức mạnh vô địch, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân phải được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Pháp luật cần có những quy định để phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong pháp luật phải đưa ra được những chính sách cụ thể đối với giai cấp công nhận, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, các doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo khác nhau, đồng bào định cư ở nước ngoài. Kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, nghề nghiệp, vị trí xã hội, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.

- Tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống pháp luật của đất nước cần được hoàn thiện theo hướng pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho: Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; thừa nhận vị trí tối thượng của hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước luôn được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và pháp luật; trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, thể hiện vai trò phục vụ của Nhà nước đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân trước Nhà nước và xã hội; được xây dựng gắn với xã hội công dân; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế; luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Do vậy, phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và có năng lực quản lí nhà nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Đối với hệ thống chính trị, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội trước nhân dân.

- Phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong điều kiện mới.

- Tạo điều kiện để giải phóng người dân Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Giải phóng con người Việt Nam khỏi những mưu sinh cực nhọc và những bất công xã hội, làm cho lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao tạo điều kiện cho những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển một cách tự nhiên đúng với quy luật vận động và phát triển của chúng nhằm đáp ứng ngày một nhiều hơn, tốt hơn những nhu cầu vật chất của con người là nhiệm vụ quan trọng của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Việc giải phóng người lao động Việt Nam phải được tiến hành trên nhiều lĩnh vực quan trọng như kinh tế, chính trị và tinh thần. Chỉ khi nào đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người (của mỗi người và của tất cả mọi người) thì mới có điều kiện vật chất thực sự để giải phóng con người, trả lại cho con người Việt Nam bản chất đích thực của nó. Khi đó con người Việt Nam mới thật sự làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, khi đó nhân dân lao động-người sáng tạo đồng thời phải là người được quyền hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại. Nhà nước và xã hội còn phải tạo ra môi trường thuận lợi để khuyến khích, nuôi dưỡng và thúc đẩy mọi năng lực sáng tạo của mỗi người, mỗi cộng đồng người Việt Nam. Nhân dân Việt Nam thông minh và sáng tạo trong quá khứ dựng nước và giữ nước và sẽ tiếp tục sáng tạo trong lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với điều kiện pháp luật phải được ban hành phù hợp, kích thích sự sáng tạo và phát triển.

- Dân chủ hóa các hoạt động nhà nước và xã hội. Mục tiêu và động lực của quá trình đổi mới, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước Việt Nam hiện nay là dân chủ. Do vậy, pháp luật phải ghi nhận và mở rộng các thiết chế dân chủ, những hình thức dân chủ phong phú do nhân dân sáng tạo; thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; đẩy mạnh việc cải cách bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ hóa trong đó có việc phân công, phối hợp một cách hợp lí giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước; tiến hành công khai hóa các hoạt động nhà nước, các chính sách, pháp luật với phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đẩy mạnh việc phân công, phân cấp, nâng cao quyền tự chủ của địa phương, của cấp dưới; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tạo cơ chế và hình thức tổ chức thích hợp để thu hút, tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tham gia các công việc chung của Nhà nước và xã hội. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để nhân dân có thể thụ hưởng và thực hiện các quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...

Mở rộng dân chủ xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ghi nhận đầy đủ và bảo đảm tính hiện thực các quyền, tự do dân chủ của công dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa-xã hội... chống tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trên các lĩnh vực ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

- Ngày càng nhân đạo, vì con người. Ngoài việc giải phóng con người thì pháp luật còn ghi nhận, tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội; xóa bỏ dần hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự; giảm bớt các hành vi bị coi là tội phạm; bỏ bớt một số hình phạt; xóa bỏ việc hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự; đẩy mạnh việc bảo vệ quyền công dân, giải quyết các tranh chấp bằng con đường tư pháp...

Giảm bớt các thủ tục, đặc biệt là thủ tục hành chính trong giải quyết các công việc của công dân và các tổ chức kinh tế. Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tự do sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện pháp luật cho phù hợp hơn với đạo đức, văn hóa và truyền thống dân tộc, thể hiện tính nhân văn, nhân bản trong các quy định pháp luật và các hoạt động pháp luật.

- Công khai, minh bạch và hài hòa. Tiến hành công khai, minh bạch hóa việc hoạch định, ban hành và thực thi các chính sách, các quy định pháp luật của đất nước. Từng bước nâng cao an toàn pháp lí cho các tổ chức và các cá nhân trong và ngoài nước trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, mô hình điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường ở các nước khác, nhất là những nước đã có nhiều kinh nghiệm xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường để vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam. Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với pháp luật quốc tế, nhất là các chế định pháp luật mà trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có, làm cho pháp luật Việt Nam tương thích hơn với các quy định của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập, phục vụ quá trình hội nhập.

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của đất nước. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cũng chính là đảm bảo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của đất nước. Pháp luật phải góp phần củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có đạo đức, có phương thức lãnh đạo khoa học.

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia và các tổ chức quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình vì sự phát triển của đất nước. Đồng thời phải tăng cường quốc phòng và an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để giữ vững định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của đất nước. 

- Mở rộng phạm vi điều chỉnh lên các quan hệ xã hội, đẩy mạnh hoạt động pháp điển hóa pháp luật, đa dạng hóa các loại nguồn luật. Nâng cao vai trò của pháp luật bằng cách mở rộng phạm vi điều chỉnh pháp luật lên những quan hệ xã hội quan trọng. Đẩy mạnh hoạt động pháp điển hóa pháp luật, từng bước đa dạng hóa các loại nguồn luật đáp ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.

No comments:

Post a Comment