13/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XI - Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
CHƯƠNG XI

VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÍ

I. VI PHẠM PHÁP LUẬT

1. Những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật là hiện tượng xã hội, tệ nạn trong xã hội, là những hành vi phản ứng tiêu cực của một số cá nhân hoặc tổ chức đi ngược lại với ý chí nhà nước được quy định trong pháp luật. Những hành vi có tính chất tiêu cực đó luôn gây hại cho nhà nước, xã hội và nhân dân, do vậy chúng luôn bị nhà nước, xã hội và nhân dân lên án, đấu tranh đòi hỏi phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Để xóa bỏ hiện tượng vi phạm pháp luật trước hết cần tìm hiểu bản chất, những đặc điểm (dấu hiệu) của chúng, tìm cách loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện đã sinh ra chúng. Do vậy, nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội.


Vi phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản sau:

- Thứ nhất, là hành vi của con người: Như đã biết, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (là quy tắc, chuẩn mực cho hành vi con người) được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích, hạnh phúc của con người. Về vấn đề này, C. Mác đã nhấn mạnh: “Ngoài hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Những hành vi của tôi – đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực và như vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành”.  Từ đó cho thấy vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... (các chủ thể pháp luật) có tính nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là không thể thiếu được, nói cách khác, không có hành vi nguy hiểm của con người thì không có vi phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện bằng những thao tác nhất định. Chẳng hạn, trộm cắp tài sản của người khác, hành vi giao thông vào đường cấm... Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất định. Chẳng hạn, không tố giác người phạm tội, không cứu giúp những người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng...

Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con người nếu như chúng không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, những đặc tính cá nhân khác của con người và cả sự biến cho dù có nguy hiểm cho xã hội cũng không liên quan đến vi phạm pháp luật.

- Thứ hai, trái pháp luật: Vi phạm pháp luật không những là hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể pháp luật mà hành vi đó còn phải trái với pháp luật. Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện không đúng với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm hoặc tiến hành hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật... Những hành vi hợp pháp hay hành vi trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... mà không trái pháp luật thì không liên quan đến vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều xâm hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và bảo vệ. Một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coi là vi phạm pháp luật. 

- Thứ ba, có lỗi của chủ thể: Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của nó, nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý thực hiện hoặc không thể ý thức (nhận thức) được, từ đó không thể lựa chọn hoặc điều khiển được hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể hành vi đó không bị coi là có lỗi và hành vi đó không liên quan đến vi phạm pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong điều kiện bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Từ đây có thể khẳng định là mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật nhưng ngược lại, không phải mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.

- Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật có năng lực trách nhiệm pháp lí: Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện. Năng lực trách nhiệm pháp lí là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lí của chủ thể đối với hành vi của mình. Năng lực trách nhiệm pháp lí của các chủ thể do nhà nước quy định trong pháp luật. Các nhà nước thường quy định sự độc lập phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự cho mình và có tự do ý chí, nghĩa là người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử sự cho mình và khả năng tự chịu trách nhiệm độc lập về hành vi của mình. Năng lực trách nhiệm pháp lí của mỗi cá nhân thường được xác định dựa vào hai yếu tố là độ tuổi và khả năng nhận thức, điều khiến hành vi của chủ thể ở thời điểm hành vi được thực hiện. Đối với trẻ em ít tuổi có thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng do các em chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm sinh lí nên chúng chưa có khả năng nhận thức và đánh giá được hết những hậu quả do hành vi của chúng gây ra cho xã hội nên nhà nước không quy định năng lực phải chịu trách nhiệm pháp lí đối với chúng (không bắt chúng phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình). Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí của cá nhân được pháp luật quy định khác nhau đối với mỗi loại quan hệ xã hội khác nhau hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính chất của quan hệ xã hội đó. Đối với những người do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng tự lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi đó thì pháp luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm pháp lí, do vậy họ không phải chịu trách nhiệm pháp lí đối với trường hợp đó. Chẳng hạn, Điều 12 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Các nhà nước khác nhau có quy định về năng lực trách nhiệm pháp lí của cá nhân, tổ chức khác nhau. Như vậy, những hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện chúng các chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lí theo quy định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.

Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

2. Cấu thành vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật

a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật

Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:

- Hành vi trái pháp luật: Bất kì vi phạm pháp luật nào cũng được cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra.

- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội: Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây ra. 

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nghĩa là, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.

Ngoài ra, trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố khác như thời gian, địa điểm, phương tiện và cách thức vi phạm...

b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật

Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lí bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:

- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: Lỗi của trạng thái tâm lí của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cầu thả. 

+ Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra. 

+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. 

+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hi vọng, tin tưởng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. 

+ Lỗi vô ý vì cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc cần phải nhận thấy trước hậu quả đó. 

- Động cơ vi phạm: Động cơ vi phạm được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chủ thể được thúc đẩy bởi động cơ nhất định nào đó như vụ lợi, trả thù, đê hèn...

- Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được. Chẳng hạn, A chỉ muốn làm B đau (mục đích gây thương tích) nhưng kết quả thực tế B chết (cái chết của B nằm ngoài mong muốn của A). Hoặc M muốn giết chết N (mục đích giết người) nhưng kết quả thực tế N không chết (việc N không chết là nằm ngoài mong muốn của M)

c. Chủ thể vi phạm pháp luật

Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó. Nếu chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân thì họ phải là người đã đạt được độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được hoạt động của bản thân. Những người không có khả năng nhận thức hay điều khiển được hoạt động của bản thân thì không được coi là chủ thể vi phạm pháp luật. Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân, nhà chức trách, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các chủ thể pháp luật khác. 

d. Khách thể vi phạm pháp luật

Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tâm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật

Những vấn đề về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể của vi phạm pháp luật sẽ được làm rõ khi xem xét từng loại vi phạm pháp luật cụ thể. Vì vậy, ở đây chỉ nêu những vấn đề chung nhất của cấu thành vi phạm pháp luật.

3. Phân loại vi phạm pháp luật

Hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, do vậy cũng có rất nhiều cách để phân loại chúng.

- Căn cứ vào đối tượng (các loại quan hệ xã hội mà pháp luật xác lập và bảo vệ) bị xâm hại có thể phân chia vi phạm pháp luật thành vi phạm pháp luật về hành chính, vi phạm pháp luật về lao động, vi phạm pháp luật về đất đai...

- Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật có thể phân chia vi phạm pháp luật thành tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cao độ cho xã hội (về nội dung thể hiện ở tính chất của các quan hệ xã hội mà nó xâm hại, tính chất và mức độ thiệt hại mà nó gây ra cho xã hội...; về hình thức thể hiện ở chỗ chúng được quy định trong luật hình sự). Các vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm thì mức độ nguy hiểm không cao bằng tội phạm và được quy định trong các ngành luật khác.

- Căn cứ vào tính chất và đặc điểm của chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật, thông thường vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ bản sau:

+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự quy định, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.

+ Vi phạm hành chính là hành vi do các chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính

+ Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi do các chủ thể có năng lực trách nhiệm dân sự thực hiện, xâm hại tới những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản...

+ Vi phạm kỉ luật nhà nước là những hành vi có lỗi của những chủ thể có năng lực trách nhiệm kỉ luật trái với những quy định pháp luật xác lập trật tự trong cơ quan, tổ chức của nhà nước, nghĩa là, chủ thể đã không thực hiện đúng kỉ luật lao động, phục vụ được đề ra trong cơ quan, tổ chức đó... Cần chủ ý là chủ thể vi phạm kỉ luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công chức...) có quan hệ phụ thuộc với cơ quan, tổ chức đó của nhà nước.

Trong mỗi loại vi phạm pháp luật nói trên còn có thể phân chia thành từng nhóm nhỏ hơn. Chẳng hạn, trong Bộ luật hình sự Việt Nam tội phạm còn được chia thành các nhóm nhỏ như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, các tội xâm phạm sở hữu...

Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lí và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lí.

II. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÍ

1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lí

Với ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “’trách nhiệm” được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc ngữ cảnh cụ thể.

Trong lĩnh vực chính trị, đạo đức, “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa bổn phận, vai trò. Nó luôn mang tính tích cực xuất phát từ sự ý thức của con người về vị trí, vai trò của mình đối với xã hội, đối với những người thân thích, đối với thiên nhiên, môi trường... Chẳng hạn, trách nhiệm với gia đình, với bạn bè, trách nhiệm đối với đất nước, với nhân loại...

Trong lĩnh vực pháp lí, thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng theo hai nghĩa: Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói đến những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Chẳng hạn, pháp luật quy định “trách nhiệm” cho cơ quan nào đó phải tuyên truyền, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào đó hay cơ quan A chịu “trách nhiệm” trước cơ quan B; nghĩa thứ hai, “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi (tổ chức, cá nhân nào đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật). Đó là sự phản ứng, lên án của nhà nước và xã hội đối với những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Sau đây chúng ta nghiên cứu sâu về trách nhiệm pháp lí theo nghĩa hậu quả bất lợi.

Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lí, thực hiện sự trừng phạt đối với những chủ thể vi phạm pháp luật là vì: Thứ nhất, trong quy phạm pháp luật nhà nước đã đưa ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện (tình huống) đã được pháp luật dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã dự tính cho trường hợp đó; thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt động có lí trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã hội) và có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể lựa chọn cho mình cách xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn của mình. Nếu chủ thể chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho phép hoặc buộc phải thực hiện trong trường hợp đó) thì chủ thể phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lí. Như vậy, trách nhiệm pháp lí chỉ đặt ra đối với những chủ thể có lí trí và có tự do ý chí. 

Cơ sở của trách nhiệm pháp lí là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lí chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật, là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế không xảy ra vi phạm pháp luật thì cũng không tồn tại trách nhiệm pháp lí. Trách nhiệm pháp lí chỉ được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Không truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với các chủ thể có hành vi trái pháp luật được thực hiện trong trường hợp: a/ Chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lí (không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình); b/ Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra); c/ Do phòng vệ chính đáng; d/ Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết...

Trách nhiệm pháp lí luôn gắn liền với các quy định pháp luật, trong pháp luật luôn có sự quy định chặt chẽ về chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lí, về trình tự, thủ tục tiến hành xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lí, về các biện pháp cưỡng chế được phép áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật...

Pháp luật các nước đều quy định chỉ các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức hay cá nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, nhà chức trách hay các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định tiến hành các hoạt động cần thiết mà pháp luật cho phép để yêu cầu chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí giải thích rõ về hành vi của mình và buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi (về nhân thân, về tài sản, về tự do...) đã được quy định trong các quy phạm pháp luật.

Truy cứu trách nhiệm pháp lí về thực chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế (chế tài) đã được quy định trong pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lí không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định. Chủ thể vi phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những biện pháp cưỡng chế được quy định trong các quy phạm pháp luật. Như vậy, về nội dung thì trách nhiệm pháp lí là sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với chủ thể vi phạm pháp luật (những tổ chức, cá nhân ở vào những tình huống được nêu trong bộ phận giả định của quy phạm pháp luật) thực hiện các biện pháp cưỡng chế (chế tài) đã được dự liệu trong quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên, cũng cần chú ý là có một số biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng không liên quan gì tới trách nhiệm pháp lí, nghĩa là nó được áp dụng cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm cách li những người mắc một số bệnh truyền nhiễm; nhà nước có thể áp dụng biện pháp trưng thu, trưng dụng hay trưng mua một số tài sản nào đó khi thấy cần thiết...

Như vậy, trách nhiệm pháp lí là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định.

2. Truy cứu trách nhiệm pháp lí.

a. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lí.

Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá vỡ trật tự pháp luật, nó trực tiếp hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại nhất định về vật chất, tinh thần và những thiệt hại khác cho cá nhân, tổ chức, xâm hại đến các quan hệ xã hội mà pháp luật xác lập và bảo vệ. Vì thế, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với các hành vi vi phạm pháp luật là nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả.

Truy cứu trách nhiệm pháp lí trước hết là nhằm mục đích trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định trong các quy phạm pháp luật. Ngoài mục đích trừng phạt, truy cứu trách nhiệm pháp lí còn có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật (ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật của chủ thể và cải tạo, giáo dục chủ thể ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng).

Truy cứu trách nhiệm pháp lí còn có tác dụng răn đe tất cả những chủ thể khác khiến họ phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giáo dục các tổ chức và các cá nhân ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin tưởng vào công lí, tích cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, từng bước hạn chế và tiến tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.

b. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí

Để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần phải xác định được cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn làm căn cứ cho việc truy cứu.

- Về cơ sở pháp lí đó là những quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến việc:
+ Xác định vi phạm pháp luật (gồm những quy định pháp luật cho phép xác định hành vi nào đó có phải là vi phạm pháp luật hay không).

+ Xác định thời hiệu về giải quyết vụ việc đó. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí là thời hạn (khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác) do pháp luật quy định mà khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể vi phạm pháp luật sẽ không bị truy cứu trách nhiệm pháp lí nữa. Khoảng thời gian đó có thể tính bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng sự kiện nào đó. Đối với các loại vi phạm pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí được quy định khác nhau. Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với một số loại vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.

Pháp luật cũng có thể quy định miễn trách nhiệm pháp lí cho một số chủ thể trong những trường hợp nhất định, do vậy, khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí còn phải xem xét cả những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lí (nếu có).

+ Xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc đó, các biện pháp mà pháp luật quy định có thể áp dụng đối với chủ thể vi phạm (gồm những quy định pháp luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thẩm quyền xem xét giải quyết vụ việc đó, những trình tự, thủ tục mà họ buộc phải thực hiện và những biện pháp gì mà họ có thể áp dụng khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với trường hợp đó).

+ Xác định hậu quả bất lợi (các biện pháp cưỡng chế nhà nước được chế tài pháp luật đã quy định) mà chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu.

- Về cơ sở thực tiễn để truy cứu trách nhiệm pháp lí thì phải xác định được có vi phạm pháp luật xảy ra trong thực tế. Khi xác định cơ sở thực tiễn cần chú ý từng yếu tố của cấu thành vi phạm pháp luật (mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật).

+ Về mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải xác định là trong thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật, nếu không xác định được hành vi trái pháp luật trong thực tế thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lí.

Đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thông qua việc xác định hậu quả (sự thiệt hại) về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Hành vi trái pháp luật nhưng gây nguy hiểm cho xã hội không nhiều (thiệt hại mà nó gây ra là không đáng kể hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội thấp) thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm pháp lí. Trong một số trường hợp, mức độ nguy hiểm của hành vi còn là căn cứ để xác định loại trách nhiệm pháp lí cần truy cứu. Chẳng hạn, căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính.

Xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại của xã hội), tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là phải xác định một cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra. Không thể bắt chủ thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa hành vi trái pháp luật của họ và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả).

Để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả khi truy cứu trách nhiệm pháp lí trong một số trường hợp cần phải xác định cả thời gian, địa điểm, phương tiện và cách thức... mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lí và đạt được hiệu quả cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật.

+ Về mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Việc xác định lỗi, động cơ và mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lí là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn được biện pháp cưỡng chế thích hợp.

Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lí chỉ áp dụng đối với các chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức là chủ thể hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với cả những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những nguyên nhân khách quan hoặc trường hợp thiệt hại do những nguồn nguy hiểm cao độ như phương tiện giao thông vận tài cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ... gây ra và một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi chủ thể vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lí. Chẳng hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do con mình (dưới mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Trong những trường hợp trên chỉ áp dụng những biện pháp tác động mang tính chất khôi phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.

+ Về chủ thể vi phạm pháp luật. Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới năng lực trách nhiệm pháp lí của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ thể. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lí trong trường hợp đó hay chưa và trạng thái tâm lí (thần kinh) của họ như thế nào ở thời điểm họ thực hiện hành vi trái pháp luật đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lí của tổ chức đó.

+ Về khách thể vi phạm pháp luật. Khi xác định khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và tầm quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.

Trách nhiệm pháp lí sẽ chấm dứt khi xảy ra sự kiện pháp lí thích ứng như có quyết định ân xá, thời hạn trừng phạt đã kết thúc, nộp phạt xong...

Truy cứu trách nhiệm pháp lí là quá trình hoạt động phức tạp và rất khó khăn của các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền trong việc xem xét, tìm hiểu sự việc bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định giải quyết vụ việc và tổ chức thực hiện quyết định đó.

3. Các loại trách nhiệm pháp lí

Trách nhiệm pháp lí có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành: Trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất

- Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do tòa án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội. 

- Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm hành chính. 

- Trách nhiệm kỉ luật là loại trách nhiệm pháp lí do thủ trưởng các cơ quan, tổ chức của nhà nước áp dụng đối với cán bộ, công chức... của cơ quan, tổ chức của mình khi họ vi phạm pháp luật.

- Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lí do tòa án hoặc các chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự.

- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan, xí nghiệp... áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân... của cơ quan, xí nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.

Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lí.

4. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí.

Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đòi hỏi phải bảo đảm những yêu cầu cơ bản sau:

- Chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với những hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.

- Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí. Tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí là điều kiện vô cùng quan trọng để việc truy cứu được tiến hành chính xác, đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục, đúng pháp luật.

- Bảo đảm sự công bằng và nhân đạo trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí như không áp dụng những biện pháp trừng phạt nhằm làm nhục con người; không áp dụng hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố) khi luật quy định trách nhiệm pháp lí mới hoặc quy định trách nhiệm pháp lí nặng hơn; nếu sự thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra: a/ có thể khôi phục được thì phải có biện pháp khôi phục lại, b/ không thể khôi phục được thì sự trừng phạt phải tương xứng với sự thiệt hại, c/ nếu có ảnh hưởng về lâu dài thì cần áp dụng cả các biện pháp bảo đảm khắc phục thiệt hại về dài; đối với mỗi vi phạm pháp luật chỉ bị trừng phạt một lần và chỉ áp dụng một biện pháp trừng phạt, trừ trường hợp cần phải áp dụng biện pháp trừng phạt bổ sung hoặc trường hợp phải áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra; chịu trách nhiệm pháp lí phải là đích danh chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (trong một số lĩnh vực như pháp luật dân sự, kinh tế... có thể cho phép chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho chủ thể khác).

- Bảo đảm tính phù hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lí, tức là cần cá biệt hóa biện pháp trừng phạt đối với mỗi chủ thể cụ thể phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm do hành vi của họ gây ra, nhân thân của chủ thể, hoàn cảnh xảy ra vi phạm...; có thể sử dụng cả những tình tiết giảm nhẹ mà pháp luật không quy định; lựa chọn biện pháp cưỡng chế phải phù hợp với mục đích truy cứu trách nhiệm pháp lí và nếu mục đích truy cứu đã đạt được trước thời hạn so với luật định thì có thể giảm nhẹ (chuyển từ tù giam sang cải tạo lao động...) hoặc chấm dứt việc thi hành hình phạt.

- Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng, công bằng, chính xác theo đúng pháp luật và phải đạt hiệu quả cao. Truy cứu trách nhiệm pháp lí trước hết phải kịp thời, nhanh chóng, công bằng và chính xác thì tác dụng phòng ngừa và giáo dục mới cao. Trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, điều quan trọng không phải là trừng phạt nặng mà là mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm đều bị phát hiện kịp thời, mọi tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật đều bị xử lí nghiêm minh theo đúng pháp luật. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với mỗi trường hợp cụ thể cần phải lựa chọn biện pháp cưỡng chế cho phù hợp (nên phạt cảnh cáo, phạt tù hay phạt tiền...) mức độ cưỡng chế bao nhiêu thì phù hợp (bao nhiêu năm tù, bao nhiêu tiền...). Ngoài ra, còn phải tính đến khả năng thực hiện trên thực tế biện pháp cưỡng chế đã lựa chọn, ảnh hưởng của việc truy cứu trách nhiệm pháp lí cụ thể đó đối với chính bản thân chủ thể vi phạm, đối với gia đình họ hoặc những người có liên quan, tác dụng đối với công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong xã hội như thế nào... Chẳng hạn, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí ngoài mục đích trừng phạt có cải tạo, giáo dục được chủ thể vi phạm pháp luật hay không, có tìm ra được những nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội hay không, có đưa ra được những giải pháp gì cho việc phòng ngừa, đấu tranh chống lại hiện tượng vi phạm pháp luật trong tương lai hay không, có tác dụng răn đe đối với những chủ thể chưa vi phạm pháp luật hay không... Hiệu quả của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí còn thể hiện ở mức độ, tốc độ và phạm vi xóa bỏ được các hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội, những chi phí về sức người, về vật chất, về thời gian và những chi phí khác cho hoạt động này.

III. ĐẤU TRANH PHÒNG VÀ CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG XÃ HỘI

1. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng và phức tạp không thể nêu ra hết được.

Về khách quan: Thường liên quan đến trình độ phát triển của xã hội, mức sống và điều kiện sống của các bộ phận dân cư; sự lạc hậu trong nhận thức của một số người so với sự phát triển của xã hội; sự chống phá của các thể lực thù địch...
Về chủ quan: Thường liên quan đến sự yếu kém, sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lí xã hội; sự hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống pháp luật; công tác giáo dục, pháp luật và đạo đức; tệ nạn và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội; chất lượng hoạt động kiểm tra giám sát đối với các biện pháp lao động, phân phối lưu thông và tiêu dùng; hoạt động của các cơ quan chuyên môn đấu tranh phòng, chống tội phạm và những hiện tượng tiêu cực trong xã hội và rất nhiều những nguyên nhân khác.

2. Những phương hướng cơ bản phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội

Để phòng ngừa và đấu tranh xóa bỏ tội phạm, xóa bỏ những hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội trước hết và quan trọng hơn cả là phải nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến tình trạng nảy sinh hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội để rồi từng bước có kế hoạch xóa bỏ những nguyên nhân và điều kiện đó. Lấy phương châm giáo dục, phòng ngừa là chính, kết hợp răn đe với trừng phạt nghiêm minh, giữ nghiêm kỉ cương, phép nước.

Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm, các viện nghiên cứu về khoa học pháp lí nói chung, nghiên cứu về tội phạm học và các loại vi phạm pháp luật nói riêng. Thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước. Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, giáo dục, giải thích, hướng dẫn việc thi hành pháp luật. Tiến hành quản lí nhà nước, quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, phát hiện và xử lí kịp thời các hiện tượng vi phạm pháp luật. Kiện toàn và củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật để các cơ quan này có đầy đủ khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đấu tranh có hiệu quả, xử lí nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Tạo mọi điều kiện để các tổ chức cũng như mọi cá nhân tích cực tham gia vào việc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật.

Đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật là nhiệm vụ cần tiến hành thường xuyên, kiên trì của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội và của mọi công dân. Do vậy, phải kết hợp sức mạnh của mọi tổ chức và cá nhân, huy động mọi phương tiện có thể, áp dụng linh hoạt giữa cưỡng chế và thuyết phục để phòng ngừa vi phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo các chủ thể vi phạm pháp luật, hạn chế và tiến tới loại trừ tội phạm và những hiện tượng tiêu cực khác ra khỏi đời sống xã hội.

Tạo ra môi trường xã hội, tập thể và gia đình lành mạnh, an toàn, mang tính nhân văn cao, tạo ra những hoàn cảnh và điều kiện tốt để mọi người có cơ hội phát huy được những cái tốt, cái tích cực, loại trừ cái tiêu cực, cái xấu ra khỏi đời sống xã hội tiến tới xây dựng xã hội không còn vi phạm pháp luật, công bằng, văn minh.

No comments:

Post a Comment