16/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XVII - Nhà nước xã hội chủ nghĩa
CHƯƠNG XVII - NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I. SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Ý tưởng về xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng xã hội dân chủ, trong đó những giá trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát triển với tất cả mọi năng lực của mình.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách quan của xã hội, đã đưa ra lí thuyết khoa học về xã hội xã hội chủ nghĩa với lí tưởng dân chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.

- Những tiền đề kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là những quan hệ sản xuất tiến bộ so với quan hệ sản xuất phong kiến, tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng đến giai đoạn nhất định – giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ đó đã không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ xã hội hóa rất cao được nữa, đòi hỏi phải có kiểu quan hệ sản xuất mới thay thế - Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Những tiền đề chính trị - xã hội: Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, nhà nước tư sản trực tiếp tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế, trở thành công cụ trong tay giới tư sản độc quyền, bản chất của nhà nước tư sản ngày càng biến đổi, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản ngày càng trở nên gay gắt, cùng với sự phân hóa và mâu thuẫn ngay trong lòng giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh và dưới sự lãnh đạo của chính đảng của mình, có thể liên minh với các giai tầng nhân dân lao động khác để tiến hành cuộc cách mạng giành chính quyền và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.

- Ngoài những tiền đề trên, những yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong mỗi nước.

Thực tiễn lịch sử nhân loại đã cho thấy năm 1917, nhà nước Xô viết ra đời và có sự lan tỏa mạnh mẽ ra nhiều nước, các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành hệ thống có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quá trình phát triển của thế giới, tạo điều kiện cho cách mạng của nhiều nước, trong đó có những nước dân tộc thuộc địa, và các nước chế độ tư bản chủ nghĩa chưa phát triển. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra mạnh mẽ, nhiều nước đã giành thắng lợi và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Do cách mạng của mỗi nước diễn ra trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách mạng thành công cũng không hoàn toàn giống nhau. Mỗi nước sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử đã diễn ra dưới các hình thức cơ bản sau:

- Công xã Paris ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Paris năm 1971.

- Nhà nước Xô viết ra đời sau Cách mạng tháng Mười vĩ đại năm 1917.

- Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và Việt Nam.

- Nhà nước Cộng hòa Cuba.

Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, tình hình quốc tế có những diễn biễn phức tạp mới nhưng “các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn... Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất đó do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội quy định.

Trong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập, củng cố và phát triển phù hợp với tính chất xã hội hóa rất cao, đó là kiểu quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tác, tương trợ không có áp bức bóc lột. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được thiết lập nhằm bảo vệ chủ quyền nhân dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, chủ thể đó chiếm số đông trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và chính sách đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ trong xã hội để xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh của chính quyền, bảo đảm sự thống trị giai cấp và chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Bản chất và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau đây:

2.1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp, dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân.

Cũng như các nhà nước khác, nhà nước xã hội chủ nghĩa có bộ máy hành chính – cưỡng chế có đủ sức mạnh để tổ chức và quản lí có hiệu quả các mặt hoạt động của đời sống xã hội, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, trấn áp các lực lượng chống đối, phản động, vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy do nhân dân lao động tổ chức ra nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và luôn chịu sự giám sát của nhân dân. Theo đó, quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất phát từ quyền lực nhân dân và thống nhất nơi quyền lực nhân dân. Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa, có sự phân công, phân định quyền lực giữa các cơ cấu quyền lực lớn trong từng hệ thống cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, đó là sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực theo phương thức xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc cơ bản là “tập trung dân chủ”, bảo đảm sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Trong thời kì quá độ, sự trấn áp của nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn là tất yếu nhưng nó đã là sự trấn áp bằng quyền lực của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số các lực lượng chống đối mà theo V.I.Lênin: “Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng đó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa. Sự trấn áp ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, khiến cho sự cần thiết phải có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu mất dần”.

Tuy nhiên, do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp, việc củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy hành chính – cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng không thể coi nhẹ, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng thành công, cũng như trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình vận động và phát triển, cùng với những thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, vai trò làm chủ của nhân dân lao động ngày càng được phát huy, các phần tử bóc lột và phản cách mạng được cải tạo trở thành những người lao động chân chính... thì bộ máy hành chính cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ càng ngày càng tinh giản và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ được thực hiện trên cơ sở kết hợp cùng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và biện pháp kinh tế.

Mặt khác, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, đảm bảo thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc xây dựng và củng cố bộ máy hành chính cưỡng chế phải đặc biệt chú ý củng cố và tăng cường bộ máy quản lí kinh tế - xã hội. Bởi vì, theo V.I.Lênin: “Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, phải bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó là giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản, đây là thực chất của vấn đề. Đây là nguồn sức mạnh là điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản”.

Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp trọng đại nhưng đồng thời cũng hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lí và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó việc tổ chức quản lí kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp đồng thời phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, các thế thực thù địch thường xuyên tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập của nhân dân ta. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội lại càng khó khăn phức tạp hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã nhấn mạnh phải xây dựng nhà nước vững mạnh: “Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỉ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

2.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước có bản chất dân chủ thật sự

Từ nguyên lí tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước do nhân dân thành lập ra để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính kết tinh sâu sắc bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa nhà nước với nhân dân và đảng cầm quyền. Nhà nước là đại biểu cho quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh lợi ích nhân dân, đồng thời là người tổ chức, thu hút đông đảo nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngược lại, nhân dân bên cạnh các quyền, còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thực thi những chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước.

Bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau với nhiều phương pháp và hình thức hết sức phong phú, đa dạng, trong đó có một số vấn đề cơ bản như: Bảo đảm quyền bầu cử của người dân theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín và quyền bãi miễn của cử tri đối với đại biểu do họ bầu ra mà không còn tín nhiệm; bảo đảm quyền được thông tin về các chủ trương, chính sách pháp luật và các hoạt động của nhà nước; bảo đảm quyền được tham gia vào xây dựng chính sách, pháp luật, tham gia vào quản lí nhà nước và quản lí xã hội...

Tuy nhiên, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ nhà nước, vì vậy, như V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu của nhà nước và quản lí nhà nước”.( ) Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lí về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lí nhà nước, thực sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền, có khả năng và điều kiện thực tế để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan nhà nước, bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra nhưng không còn xứng đáng nữa. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đó là phương châm mở rộng dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lí nhà nước của mình. Nhà nước phải thi hành các biện pháp kiên quyết để xóa bỏ tệ quan liêu, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử phạm pháp, thực hiện dân chủ hóa và bảo đảm công bằng xã hội.

2.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất nhân văn và nhân đạo sâu sắc

Mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa là vì tự do, hạnh phúc của con người, là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn chủ trương đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò và năng lực của mọi tầng lớp xã hội, thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

Xuất phát từ mục đích và cách tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với các quy luật vận động khách quan của xã hội và nhà nước phải giữ vai trò chủ động sáng tạo, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung và của mỗi người nói riêng.

Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nêu vấn đề, muốn xây dựng xã hội mới thì nhà nước phải tổ chức được đời sống chung của nhân dân, bảo đảm được sự tự do tối đa và sự phát triển toàn diện của con người. Theo cách luận giải của C.Mác trong “Tuyên ngôn đảng cộng sản” thì “tự do” được hiểu “là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao của xã hội, thành cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội”. Tự do ở mức độ tối cao hay thấp hơn được xác định bởi mức độ hạn chế tự do của nhà nước. Giới hạn đó được xác định bằng pháp luật và có sức mạnh bắt buộc đối với nhà nước và các nhân viên nhà nước.

Với bản chất dân chủ, nhân văn và đề cao tính pháp quyền với ý nghĩa là giá trị phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, sự phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là bước chuyển thực sự từ quan niệm “nhân dân của nhà nước” sang chế độ “nhà nước của nhân dân, vì nhân dân”. Từ đây, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự là dân chủ xuất phát từ con người và vì con người; dân chủ phải được thể hiện thành chính sách, pháp luật vì con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều kiện thiết yếu để giải phóng con người với tư cách là cá nhân, là chủ thể và là công dân trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội. Những điều kiện, đảm bảo đó được bảo đảm bằng pháp luật và sức mạnh của quyền lực nhà nước.

2.4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất chính trị sâu sắc, do đảng cộng sản lãnh đạo

Là nhà nước của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động, trong quá trình hình thành và phát triển, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn gắn với vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, người đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.

Sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên một số bình diện cơ bản như:

 Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước để đảm bảo giữ vững bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và thực hiện hóa các chủ trương, chính sách của đảng trong thực tiễn đời sống.

- Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.

- Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức.


II. CÁC CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn chịu sự chi phối của thực tế khách quan của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của mỗi nước. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có những chức năng cơ  bản dưới đây:


1. Các chức năng đối nội

1.1. Chức năng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Đây là chức năng hết sức quan trọng, vì tất cả các chức năng khác của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện được một cách có hiệu quả khi an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Nội dung chủ yếu của chức năng này là: Thiết lập và tổ chức vận hành một hệ thống các thiết chế quyền lực nhà nước thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả; chuẩn bị các điều kiện và tiến hành các hoạt động để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; trấn áp các phần tử phản động có những hành vi chống đối chế độ, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân; xác lập các điều kiện pháp lí và tạo điều kiện để phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân vào tham gia các hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

1.2. Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế

Đây là chức năng cơ bản, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa xã hội, nhà nước không những là tổ chức của quyền lực chính trị mà còn là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, trực tiếp tổ chức và quản lí nền kinh tế đất nước. Việc tổ chức và quản lí kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ, nhằm cải tạo và xóa bỏ quan hệ sản xuất bóc lột người lao động, để xác lập củng cố và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu của người lao động.

Chức năng tổ chức quản lí kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nội dung chủ yếu như: Nhà nước xác lập và bảo vệ chế độ kinh tế phù hợp với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa và trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì; ban hành các chính sách, kế hoạch về phát triển kinh tế của đất nước; tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, pháp luật để tác động, quản lí và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực kinh tế.

1.3. Chức năng xã hội

Chức năng xã hội phản ánh thuộc tính xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững; nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết hài hòa các lợi ích giữa nhà nước, cá nhân và cộng đồng.

Nội dung chủ yếu của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm: Nhà nước đề ra các chính sách, pháp luật và tạo các điều kiện để giải quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế, lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội...

1.4. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân

Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thiết lập, củng cố và điều chỉnh hệ thống các quan hệ xã hội bảo đảm sự phát triển đúng hướng, phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, việc bảo vệ trật tự xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không những đề ra pháp luật quy định quyền và lợi ích của công dân mà còn tạo những điều kiện và có những biện pháp để đảm bảo cho các quyền lợi đó được thực hiện. Nhà nước cần phải có những biện pháp đồng bộ về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, xử lí nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời phải giáo dục để nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lí nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

2. Các chức năng đối ngoại

Chức năng đối ngoại là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trên trường quốc tế, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có các chức năng đối ngoại chủ yếu sau đây:

2.1. Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống sự xâm lược từ bên ngoài

Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật trong thời kì quá độ. Các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải chú trọng tới chức năng bảo vệ tổ quốc, coi việc củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện hòa bình ổn định trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên lâu dài. Nền quốc phòng trong các nước xã hội chủ nghĩa là nền quốc phòng vì mục đích tự vệ nhưng đòi hỏi phải có đầy đủ sức mạnh và khả năng tác chiến cao để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại và xâm lược của các thế lực đế quốc.

2.2. Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;  không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội

Chức năng này phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại. Nội dung của chức năng này bao gồm những điểm cơ bản sau đây:

- Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa.

- Mở rộng quan hệ với các nước có chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

- Mở rộng mối quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế.

- Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

2.3. Tham gia vào các hoạt động quốc tế vì lợi ích chung của cộng đồng và vì mục đích nhân đạo

Nội dung chức năng này bao gồm: bảo vệ môi trường, chống khủng bố, buôn lậu ma túy và các tội phạm quốc tế khác như ủng hộ và tham gia các hoạt động cứu trợ quốc tế trong các trường hợp khẩn cấp như động đất, sóng thần, bão lũ...


III. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



1. Sự hình thành và phát triển của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa


Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện lần đầu tiên ở Công xã Paris. Mặc dù còn là bộ máy chưa hoàn chỉnh và trên thực tế nó chỉ tồn tại trong 72 ngày nhưng Công xã Paris có ý nghĩa như một “hình mẫu phác thảo” cho một mô hình của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tương lai. V.I.Lênin đã nhận xét “Công xã Paris dường như đã thay thế bộ máy nhà nước bị đập tan bằng một chế độ dân chủ “chỉ” hoàn bị hơn mà thôi... cái “chỉ” đó là một sự thay thế vĩ đại. Thay những cơ quan này bằng những cơ quan khác hẳn về nguyên tắc. Đó chính là một trong những trường hợp lượng biến thành chất"

Cách mạng tháng Mười thành công, giai cấp vô sản Nga đã tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước của giai cấp mình dưới dạng Cộng hòa Xô Viết. Đây là bước phát triển cao hơn của mô hình bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự ra đời của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa lại có những bước phát triển đa dạng hơn.

Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức xuất phát từ bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu tố như truyền thống dân tộc, điều kiện tự nhiên và xã hội... của mỗi nước trong từng thời kì cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội và những điều kiện chính trị, kinh tế văn hóa xã hội... thay đổi thì bộ máy nhà nước cũng phải có những cải cách hoặc đổi mới tương ứng.

2. Các loại cơ quan nhà  nước xã hội chủ nghĩa

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân loại các cơ quan của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa

- Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cách phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối và cũng chỉ chủ yếu sử dụng để xem xét bộ máy nhà nước ở trung ương.

- Xét theo trình tự thành lập, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra. Các cơ quan đại diện hình thành do kết quả bầu cử, thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân, vì vậy chúng nhân danh quyền lực nhân dân và mang tính chất là hệ thống cơ quan quyền lực. Các hệ thống cơ quan khác đều do cơ quan quyền lực trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra.

- Xét theo tính chất thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng.

- Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Ngoài ra còn có thể xem xét từ góc độ thời hạn thực hiện quyền có thể chia thành các cơ quan hoạt động thường xuyên và các cơ quan lâm thời. Mỗi cách tiếp cận trên đều có ý nghĩa nhất định. Tùy thuộc vào mục đích và yêu cầu cụ thể về những vấn đề đặt ra, chúng ta có thể xét từ một hay một số góc độ nhất định để đi sâu phân tích, làm rõ những nội dung cần thiết.

Dưới đây, sẽ xem xét bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa theo quan điểm cấu trúc hệ thống, có tính đến một cách toàn diện cả ba khía cạnh là trình tự thành lập, nội dung hoạt động và hình thức hoạt động của các loại cơ quan nhà nước.

2.1. Các cơ quan quyền lực nhà nước

Các cơ quan quyền lực nhà nước còn gọi là cơ quan đại diện, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Các cơ quan này được nhân danh quyền lực nhân dân để tiến hành các hoạt động theo quy định của pháp luật, phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo trước nhân dân (cử tri) về mọi mặt hoạt động.

2.2. Chủ tịch nước

Chủ tịch nước là một trong những thành tố rất quan trọng và trong hiến pháp thường có hẳn một chế định pháp luật về chủ tịch nước. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn có liên quan đến các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, chủ tịch nước không phải là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lí nhà nước... Xét trên nhiều phương diện, chủ tịch nước là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2.3. Cơ quan quản lí nhà nước

a. Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước

Các cơ quan quản lí nhà nước còn được gọi là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc các cơ quan hành chính nhà nước. Những tên gọi đó đều có nội dung cụ thể, phản ánh vị trí, chức năng, tính chất của các cơ quan quản lí nhà nước khi chúng được xem xét từ những góc độ khác nhau. Chẳng hạn, khi tiếp cận từ góc độ địa vị pháp lí và đặt trong mối quan hệ với cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan quản lí nhà nước được gọi là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước.

Bộ máy quản lí nhà nước bao giờ cũng là bộ máy lớn nhất, vì nó phải trực tiếp tổ chức việc thực thi pháp luật, trực tiếp thực hiện các chức năng quản lí, điều hành mọi công việc thường nhật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

2.4. Các cơ quan xét xử

Hệ thống các cơ quan xét xử là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tính đặc thù của loại cơ quan này thể hiện ở chỗ chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước nhưng trong hoạt động lại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

2.5. Các cơ quan kiểm sát

Hệ thống các cơ quan kiểm sát của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có đặc thù riêng đó là chúng được tổ chức ra không chỉ để thực hiện quyền công tố mà còn để kiểm sát các hoạt động tư pháp; góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Hệ thống viện kiểm sát được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng.

3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nguyên lí, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước.

Hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa rất phong phú, trong đó có những nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc.

3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: Trong chủ nghĩa xã hội quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc này phản ánh sự thay đổi về chất: nhân dân lao động từ chỗ đứng bên ngoài quyền lực nhà nước đã trở thành người nhập cuộc, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, từ chỗ phải phục tùng, khuất phục, lệ thuộc vào quyền lực nhà nước đã trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân không những chỉ tham gia tổ chức và thực hiện quyền lực mà còn có quyền kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước và các nhân viên của bộ máy đó.

Nội dung của các nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện trên ba phương diện cơ bản là:

Thứ nhất, phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ máy nhà nước.

Thứ hai, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lí các công việc nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.

Thứ ba, phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lí một số công việc của nhà nước.

Để thực hiện tốt nguyên tắc này trong thực tế đời sống, nhà nước ta cũng cần có những biện pháp để nhân dân có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, pháp luật, quản lí đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân làm, dân kiểm tra các hoạt động của nhà nước.

3.2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước

Sự lãnh đạo của đảng giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia vào công việc của nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước còn nhằm giữ vững bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu là: Đề ra đường lối, chủ trương và phương hướng lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; chỉ đạo và quyết định những vấn đề lớn về tổ chức bộ máy và nhân sự; chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của đảng thành pháp luật; theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn. chỉ đạo các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng đường lối của đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước.

3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ

Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa chỉ đạo tập trung thống nhất của các cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Xét ở bình diện rộng hơn, nguyên tắc tập trung dân chủ còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể và đề cao trách nhiệm, ý thức kỉ luật của cán bộ, công chức nhà nước. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ áp dụng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới mà còn có thể áp dụng cho mỗi cấp trong cơ cấu tổ chức, cũng như trong cơ chế hoạt động cụ thể của nó.

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là tổ chức, cơ chế hoạt động (quyền lực) và chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lí các vấn đề khen thưởng và kỉ luật.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản được áp dụng cho toàn thể bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đối với mỗi hệ thống cơ quan, mỗi cơ quan thuộc các lĩnh vực và cấp bậc khác nhau nhưng cũng đòi hỏi phải có sự sáng tạo, linh hoạt trong việc áp dụng nguyên tắc này.

3.4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật; mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lí nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy được hiệu lực quản lí của nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội.

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc phản ánh nhu cầu tự nhiên của bộ máy nhà nước đồng thời là đòi hỏi, là yêu cầu từ phía nhân dân đối với bộ máy nhà nước và nhân viên nhà  nước.

3.5. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc

Xuất phát từ bản chất của mình, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy mọi khả năng của dân tộc mình tham gia tích cực vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.



IV. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



Xét theo khái niệm chung, hình thức nhà nước gồm ba yếu tố cấu thành là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

Các nhà nước xã hội chủ nghĩa có cùng bản chất dân chủ, cho nên về mặt hình thức chúng có nhiều điểm chung giống nhau.

- Về hình thức chính thể, tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có chính thể cộng hòa dân chủ (mặc dù tên gọi của mỗi nước có thể khác nhau).

- Về hình thức cấu trúc nhà nước, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể là nhà nước liên bang cũng có thể là nhà nước đơn nhất.

- Chế độ chính trị, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều sử dụng một hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ thực sự, rộng rãi để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Mặc dù các nhà nước xã hội chủ nghĩa có cùng bản chất và có một số đặc điểm chung về hình thức biểu hiện nhưng trong điều kiện cụ thể, cách tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi nước lại có những đặc điểm riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu về hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có quan điểm hệ thống, đặt các yếu tố đó trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong một hệ thống, phản ánh bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần mở rộng khái niệm, tìm ra những đặc điểm riêng của mỗi hình thức cụ thể. Ở đây, khái niệm hình thức nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng đồng nghĩa với khái niệm các dạng nhà nước xã hội chủ nghĩa khác nhau.

2. Các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa

2.1. Công xã Paris

Công xã Paris ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 18/3/1871 của công nhân thủ đô Paris. Hình thức Công xã Paris có một số đặc điểm sau đây:

- Công xã Paris đã xóa bỏ chế độ đại nghị tư sản, thành lập hệ thống cơ quan đại diện mới. Hội đồng công xã Paris là cơ quan quyền lực cao nhất, bao gồm các ủy viên xuất thân chủ yếu từ thành phần công nhân, do nhân dân lao động thủ đô Paris bầu ra theo nguyên tắc phổ thông. Các ủy viên này có thể bị bãi miễn nếu họ không còn uy tín hoặc không còn khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

- Công xã Paris đã thực hiện việc đào tạo bộ máy nhà nước cũ để thành lập bộ máy nhà nước mới của giai cấp công nhân. Sắc lệnh đầu tiên mà Công xã Paris đã xóa bỏ quân đội thường trực, lấy nhân dân vũ trang để thay thế; đã thực hiện việc giải tán lực lượng cảnh sát để thành lập lực lượng an ninh mới, giải tán các tòa án và viện công tố, thành lập các tòa án và viện công tố mới và thành lập các tòa án đặc biệt. Đến ngày 19/4/1871 ở Công xã Paris đã có chính phủ của giai cấp công nhân.

- Công xã Paris đã xác lập những nguyên tắc mới về tổ chức bộ máy nhà nước của giai cấp công nhân. Tuy nhiên vì các cơ quan nhà nước lúc đó còn đang trong thời kì hình thành nên việc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan còn chưa hoàn toàn hợp lí, vị trí và vai trò của các cơ quan còn chưa được xác định một cách chính xác và cụ thể.

- Công xã Paris đã xác lập chế độ dân chủ mới, đã thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội như: Xóa bỏ chế độ đặc quyền của các viên chức nhà nước; quy định quyền bầu cử và ứng cử của công nhân vào các cơ quan nhà nước; tổ chức cho công nhân vào các cơ quan nhà nước, tổ chức cho công nhân quản lí các xí nghiệp; thành lập các câu lạc bộ đỏ, thư viện công nhân, vườn trẻ... Đồng thời đã thực hiện một số biện pháp chuyên chính với những thành phần chống đối cách mạng và những phần tử bóc lột như: thành lập các tòa án đặc biệt để xử bọn phản cách mạng, đóng cửa các báo chí phản động, cấm cúp lương, cấm làm đêm trong các xưởng bánh...

Khi tổng kết về kinh nghiệm của công xã Paris, Mác đã viết: “Bí quyết thật sự của nó là ở chỗ: Về thực chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân là kết quả của cuộc đấu tranh của giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt; là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện việc giải phóng lao động về mặt kinh tế.”


2.2. Hình thức nhà nước Xô viết


Xô viết xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành phố Petrôgrát năm 1905 với tư cách là hội đồng đại biểu công nhân, đấu tranh đòi lợi ích kinh tế và chính trị cho giai cấp công nhân. Khi nghiên cứu về phong trào công nhân, V.I.Lênin đã phát hiện ra hình thức Xô viết và coi đó là mầm mống của một hình thức có thể sử dụng để tổ chức nhà nước vô sản ở Nga. Sau đó, Xô viết đã trở thành hình thức nhà nước độc đáo, góp phần tạo ra sức mạnh của nhà nước vô sản ở nước Nga và các nước Cộng hòa khác cũng như Liên xô sau này:

Hình thức Xô viết có một số đặc điểm như sau:

- Xô viết xuất hiện trong giai đoạn đầu của cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, khi hệ thống tư bản chủ nghĩa còn mạnh và các nước xã hội chủ nghĩa chưa hình thành, các phương pháp để giành và tổ chức chính quyền chủ yếu là các phương pháp kiên quyết không hòa hoãn, không nhượng bộ; có hệ thống cơ quan đại diện phức tạp: các Xô viết từ quận (huyện) trở xuống thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp, từ cấp tỉnh trở lên áp dụng hình thức đại hội Xô viết. Đại hội Xô viết chỉ có quyền lực trong thời kì tiến hành đại hội, khi đại hội chấm thì không còn quyền lực nữa.

- Xô viết không có tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc, không có sự thỏa hiệp giữa các đảng trong việc cử người tham gia vào các cơ quan nhà nước. hệ thống cơ quan nhà nước được xây dựng dựa trên cơ sở lãnh đạo của một đảng thống nhất ( là Đảng Bônsêvich)

- Công khai quy định quyền ưu tiên trong bầu cử các cơ quan đại diện.
- Xô viết thể hiện tính giai cấp công khai và không khoan nhượng. Đối với các phần tử bóc lột không những bị tước đoạt quyền bầu cử mà còn bị hạn chế các quyền chính trị khác như cấm hội họp, cấm tự do báo chí và ngôn luận... Đồng thời tiến hành nhiều biện pháp kiên quyết trừng trị những phần tử  chống lại cách mạng. Ngược lại giai cấp công nhân được quy định một số quyền ưu tiên đồng thời mở rộng dân chủ đối với những nông dân nghèo và binh sĩ.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hình thức Xô viết cũng có những thay đổi để phù hợp với tình hình cụ thể của xã hội.

2.3. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân

Hình thức dân chủ nhân dân xuất hiện sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trong một số nước ở châu Âu như: Anbani, Ba Lan, Bungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc... và ở châu Á như: Việt Nam, Triều Tiên, Trung Quốc.

Vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỉ XX, trước tai họa chủ nghĩa phát xít đã gây ra trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. Ở châu Âu trong nhiều nước đã nổi lên phong trào đấu tranh chống phát xít giành độc lập tự do cho dân tộc. Mặt trận dân tộc thực sự đã trở thành tổ chức đoàn kết các lực lượng tiến bộ trong xã hội để tiến hành cuộc đấu tranh. Chiến thắng của Hồng quân Liên xô tiêu diệt bọn phát xít Đức đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của mỗi nước. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của đảng cộng sản, cách mạng đã thành công, nhiều nước xã hội chủ nghĩa mới đã ra đời hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Với điều kiện trong nước và thế giới như vậy cần thiết phải có hình thức nhà nước phù hợp với tình hình mới để tổ chức và phát huy hiệu lực của chính quyền trong mỗi nước. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân đã ra đời với những đặc điểm riêng phù hợp với tình hình lịch sử, đáp ứng được yêu cầu cách mạng trong điều kiện mới.

Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân có một số đặc điểm sau đây:

- Xuất hiện trong hoàn cảnh quốc tế và trong nước như vậy, cho nên các nhà nước đều có đặc trưng chung là sử dụng kết hợp các phương pháp hòa bình và bạo lực (trừ Việt Nam và Bungari) để giành và tổ chức chính quyền, đều thực hiện bước chuyển tiếp từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Trong các nước đều tồn tại hình thức tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc (với các tên gọi khác nhau như mặt trận tổ quốc, mặt trận nhân dân...) trong đó bao gồm nhiều đảng phái, nhiều lực lượng xã hội khác nhau, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Mặt trận giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia vào thành lập và củng cố bộ máy nhà nước.

- Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân có sử dụng một số chế định pháp lí cũ được bổ sung nội dung mới. Đặc biệt ở Việt Nam đặc điểm này có nét rất độc đáo và đã mang lại kết quản đáng kể, phù hợp với điều kiện của đất nước ta ở thời kì đầu sau khi cách mạng thành công.

- Nhìn chung trong các nước dân chủ nhân dân đều thực hiện nguyên tắc bầu cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp bỏ phiếu kín, ngoại trừ một số nước có quy định mức độ hạn chế những người không được tham gia bầu cử.

- Trong nhà nước dân chủ nhân dân có chế độ dân chủ rộng rãi hơn đối với chế độ dân chủ trong hình thức Xô viết. Điều đó xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của cách mạng là nhiều lực lượng thuộc nhiều giai cấp khác nhau đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh giành chính quyền và tổ chức chính quyền mới. Mặt khác, tình hình đối sánh lực lượng trên trường quốc tế đã thay đổi cho phép các nhà nước dân chủ nhân dân có thể thực hiện nhiều phương pháp và hiến pháp dân chủ rộng rãi hơn.

Ngoài các hình thức nêu trên, còn có hình thức nhà nước của Cộng hòa Cuba. Hình thức nhà nước Cộng hòa Cuba không có những đặc điểm hoàn toàn giống với hình thức Xô viết hay hình thức dân chủ nhân dân, đồng thời lại có những đặc điểm rất riêng gây ra sự tranh luận về mặt lí luận. Nhiều người cho rằng nước Cộng hòa Cuba là một hình thức độc đáo cần nghiên cứu kĩ, một số người khác lại cho rằng đó là hiện tượng cá biệt chỉ có thể xảy ra ở Cuba. Trên thực tế, hình thức nhà nước Cuba đã có nhiều biến đổi cơ bản so với thời kì mới thành lập nước. Tuy vậy việc nghiên cứu để thấy những đặc điểm độc đáo và bước phát triển của nước Cộng hòa Cuba là cần thiết và có ý nghĩa cần được tiếp tục thực hiện.

Sự phong phú và đa dạng của nhiều hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ là một yếu tố khách quan. V.I.Lênin viết: “Tất cả các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, loại này hay loại khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.


No comments:

Post a Comment