27/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương XXII - Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CHƯƠNG XXII

PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

1. Sự ra đời và bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Khi tiến hành cách mạng, nhân dân Việt Nam đã xoá bỏ pháp luật thực dân, phong kiến, cùng với việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới phù hợp với tình hình và điều kiện của đất nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phát triển và hoàn hiện cùng với sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt về số lượng và chất, từng bước đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Như các pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục nhất định; được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau; là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội; mang tính bắt buộc chung; được thể hiện dưới những hình thức nhất định... nhưng được hình thành và phát triển trên cơ sở chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội và tư tưởng mới , do vậy, bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:


- Tính xã hội của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất rộng lớn. Với tư cách là công cụ chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính quy phạm và tính bắt buộc chung, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng lớn, là phương tiện để nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội tổ chức và hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội... các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các cá nhân đều sống và làm việc trên cơ sở pháp luật. Những năm gần đây, khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang từng bước được củng cố, mở rộng và phát triển.

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ý chí nhà nước của nhân dân Việt Nam. Nhân dân thông qua nhà nước thể hiện ý chí của mình trong pháp luật, quy định và bảo vệ chính quyền nhân dân, đưa người lao động Việt Nam từ địa vị bị thống vị lên địa vị thống trị xã hội, đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện từng bước việc công hữu những tư liệu sản xuất cơ bản trong xã hội, bảo đảm cho người lao động khả năng thực tế tham gia vào các lĩnh vực hoạt động xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội... Bảo vệ lợi ích cho người lao động, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và bảo đảm các quyền tự do dân chủ thực sự cho nhân dân như quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan đại biểu, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền nghỉ ngơi, quyền học tập,... đáp ứng những lợi ích cơ bản của người lao động, mang lại tự do thực ự cho cả cộng đồng và mỗi người dân. Cũng với sự phát triển của xã hội, tính giai cấp của xã hội pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang chuyển dần thành tính nhân dân.


2. Đặc điểm của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau:

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang tính chất nhân dân.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật của nhân (thể hiện ý chí nhà nước của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và những người lao động khác), do nhân dân (nhà nước và xã hội tạo mọi điều kiện để nhân dân Việt Nam tham gia tích cực vào các hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật, kiểm tra, giám sát các hoạt động pháp luật), vì nhân dân (mang lại những lợi ích to lớn cho nhân dân Việt Nam trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội).

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam.

Xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ chuyển tải các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của nhà nước, của các tổ chức phi nhà nước và xử sự của các cá nhân trong xã hội. Có thể nói, các chủ trương, chính sách của Đảng về sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, xây dựng nhà nước... trong đối nội cũng như trong đối ngoại đều được nhà nước thể chế hoá thành pháp luật. Pháp luật là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, biến chúng thành hiện thực.

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận, tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam được củng cố và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Dù ở thời kì xây dựng, phát triển nền kinh tế tập trung trước đây cũng như thời kì xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện nay thì pháp luật Việt Nam luôn định hướng cho nền kinh tế đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi đất nước có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì hệ thống pháp luật Việt Nam có rất nhiều thay đổi tích cực, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như xác lập hợp lý các thành phần kinh tế và cơ chế quản lí kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện phát triển đồng bộ, quản lí có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thúc đẩy việc xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc củng cố, nâng cao địa vị, vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Pháp luật đã và đang là cơ sở pháp lí vững chắc cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, ghi nhận và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và mang lại hạnh phúc cho nhân dân.

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác nhau mà đặc biệt là đạo đức truyền thống Á Đông.

Là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với các công cụ điều chỉnh khác song chịu ảnh hưởng nhiều nhất là đạo đức Á Đông, bởi xã hội Việt Nam mang nặng yếu tố duy tinh, coi trọng đạo đức. Điều này ảnh hưởng lớn tới nội dung, cũng như các hoạt động pháp luật ở Việt Nam. Nội dung của pháp luật Việt Nam luôn thể hiện những tư tưởng nhân đạo, những giá trị chân – thiện – mỹ của xã hội Việt Nam. Các tư tưởng và quy tắc đạo đức truyền thống Việt Nam luôn hỗ trợ cho các hoạt động pháp luật để đảm bảo chúng được tiến hành vừa có lí vừa có tình.

- Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phạm vi điều chỉnh ngày càng được mở rộng, hiệu quả điều chỉnh ngày càng cao.

Cùng với sự phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp của các quan hệ xã hội hiện nay thì phạm vi điều chính của pháp luật Việt Nam ngày càng được mở rộng lên những quan hệ xã hội mới, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng ngày càng tăng cao. Có thể nói vị thế của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang được củng cố, phát huy trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của xã hội, là công cụ duy trì, quản lí đời sống xã hội không thể thay thế.

Tóm lại, Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước của nhân dân, là nhân tố điều chính các quan hệ xã hội vì lợi ích và mục tiêu của nhân dân, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


II. HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM.

1. Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam.

Hoạt động xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động cơ bản, không thể thiếu của nhà nước. Để tổ chức và quản lí các lĩnh vực quan trọng, khác nhau của đời sống xã hội được tốt, nhà nước phải tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội khác và sự tương ứng của cá nhân trong toàn xã hội.

Hoạt động xây dựng pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình điều chỉnh pháp luật nhằm mục đích trật tự hoà và định hướng sự phát triển đối với các quan hệ xã hội cho phù hợp với mong muốn đề ra của nhà nước và xã hội. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, các quy định pháp luật được ban hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Xây dựng, hoàn thiện phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, biến những đòi hỏi, những quy luật khách quan thành những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung để củng cố nhà nước, xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội... đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển đất nước.

Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam được hiểu là hoạt động đưa ý chí nhà nước của nhân dân Việt Nam lên thành pháp luật và là một trong những hình thức chính của việc thể hiện và thực hiện quyền lực nhà nước trong thực tiễn. Do vậy, hoạt động xây dựng pháp luật là hình thức pháp lí cơ bản để thực hiện chức năng nhà nước, được tiến hành thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động xây dựng (ban hành) pháp luật có thể được thực hiện bằng cách nhà nước (cũng có thể cùng với các tổ chức xã hội) phê chuẩn các quy tắc như tập quán, đạo đức... đã có sẵn trong xã hội thành pháp luật hoặc nhà nước ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật, tạo ra các nguồn luật từ hoạt động thực tiễn của các cơ quan hành chính và tư pháp trong việc giải quyết những vụ việc cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động xây dựng pháp luật của nhà nước Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.

Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, thông qua quá trình nhận thức các quy luật vận động, phát triển của các quan hệ xã hội, tầm quan trọng của chúng rồi từ đó tạo ra các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh chúng cho phù hợp với lợi ích của nhà nước và xã hội. Trong quá trình xây dựng pháp luật đòi hỏi nhà làm luật phải dự liệu trước cả những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong tương lai để có thể đặt ra các quy định pháp luật bảo đảm nhu cầu phát triển lâu dài, ổn định của đất nước.

Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo các quy trình nhất định với những nội dung cơ bản là: Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật đôi với các quan hệ xã hội, xác định đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh của pháp luật; thứ hai, công nghệ sáng tạo ra các quy định pháp luật (soạn thảo, thảo luận và thông qua... quy định pháp luật). Mỗi nước có quy định rất chặt chẽ trong pháp luật (hiến pháp, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, luật tổ chức bộ máy nhà nước...) về thẩm quyền, về tên gọi, về nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với từng loại hình thức pháp luật nhất định. Tất cả những quy định trên đều có tác dụng trong việc bảo đảm cho các quy định pháp luật được ban hành có chất lượng, mang tính khoa học, thể hiện được đầy đủ ý chí nhà nước và phát huy được hiệu lực trên thực tế.

Như xây, xây dựng pháp luật ở Việt Nam là quá trình hoạt động vô cùng quan trọng, phức hợp bao gồm nhiều các hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành nhằm chuyển hoá ý chí nhà nước của nhân dân Việt Nam thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất định và đươc thể hiện dưới những hình thức pháp lí nhất định mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật.

Hoạt động xây dựng pháp luật theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hoạt động ban hành pháp luật của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền. Còn theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả những hoạt động (của nhà nước và xã hội) có liên quan đến việc ban hành pháp luật.

Vì pháp luật là hệ thống nên khi ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bất kì quy phạm pháp luật nào cũng cần phải cân nhắc xem xét đến tính hệ thống của nó trong tổng thể hệ thống pháp luật đất nước, tức là sự phù hợp, tác động và hiệu quả của nó đối với các quy phạm pháp luật hiện hành. Do sự liên kết chặt chẽ giữa các quy phạm pháp luật, giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật cho nên sự thay đổi của các quy phạm pháp luật khác, sự thay đổi của các chế định pháp luật, các ngành luật khác, vì vậy không thể tuỳ tiện khi ban hành pháp luật.

2. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam.

Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát những sự việc khách quan liên quan tới quá trình “nâng” ý chí nhà nước lên thành pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi, ban hành hay bãi bỏ các quy phạm pháp luật phải nghiêm chỉnh tuân theo. Các nguyên tắc đó xuất phát từ thực tế khách quan và đường lối chính trị của đất nước. Chúng đảm bảo việc thực hiện đầy đủ ý chí và lợi ích của nhà nước trong các quy định pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam được tiến hành trên những nguyên tắc cơ bản sau:

- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam: nguyên tắc này xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Đường lối chính sách của Đảng luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật của nhà nước.

- Nguyên tắc khách quan: quá trình xây dựng pháp luật phải phản ánh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của các quy định pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, đảm bảo phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời sống xã hội.

- Nguyên tắc khoa học: nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi đối với nội dung của các quy định pháp luật mà còn đòi hỏi đối với cả hình thức thể hiện chúng. Về nội dung, các quy phạm pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở những thành tựu khoa học mới nhất, về hình thức bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật... phải mang tính khoa học. Xây dựng pháp luật trên cơ sở khoa học chính là điều kiện để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thực tế của các văn bản, quy phạm pháp luật.

- Nguyên tắc dân chủ: nguyên tắc này đảm bảo sự tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân và hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các thành viên trong xã hội. Mặt khác, nó cho phép pháp huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của nhân dân.

- Nguyên tắc pháp chế: để đảm bảo các quy định pháp luật khi đã được ban hành có giá trị pháp lí thì chúng phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục về nội dung cũng như hình thức. Mặt khác, nguyên tắc pháp chế còn đòi hỏi các quy định pháp luật phải thống nhất với nhau, không mâu thuẫn chồng chéo. Trong đó phải tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật (các văn bản pháp luật khác phải phù hợp với hiến pháp).

- Nguyên tắc bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội: việc đảm bảo hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện pháp luật, bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích cơ bản giữa các lực lượng xã hội, làm cho xã hội ổn định, đoàn kết và phát triển bền vững.

3. Các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam:

Xây dựng pháp luật là hiện tượng xã hội, là hoạt động chính trị xã hội đòng thời là hoạt động kĩ thuật phức tạp, một quy trình công nghệ bao gồm nhiều hoạt động nghiệp vụ nối tiếp nhau theo những trình tự nhất định. Quá trình xây dựng văn bản luật ở Việt Nam có thể được phân chia thành các giai đoạn cơ bản sau:

- Giai đoạn tiền chuẩn bị dự án văn bản luật: trong giai đoạn này, nhà làm luật phải nhận thức được nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các quy luật khách quan nảy sinh trong xã hội và cần đến sự điều chỉnh của pháp luật hoặc sự cần thiết phải thay đổi sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định (nhận thức nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội như ban hành, sửa đổi, bãi bỏ quy định hay văn bản pháp luật nào đó). Từ sự đề xuất của các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định về việc chuẩn bị dự án luật. Trong quyết định này phải xác định rõ tên văn bản, đề cương nội dung văn bản, những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm soạn thảo văn bản đó.

- Giai đoạn chuẩn bị dự thảo văn bản luật: cá nhân, tổ chức đã được xác định phải tiến hành các hoạt động cần thiết để soạn thảo văn bản. Trong quá trình soạn thảo văn bản phải thảo luận và sửa đổi chỉnh lí dự thảo văn bản trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhân, tổ chức có liên quan. Sau đó trình dự án đã được thảo luận và chỉnh lí lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ban hành văn bản.

- Giai đoạn thảo luận và thông qua dự án luật: cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản luật (quốc hội) tiến hành nghiên cứu dự thảo văn bản đã được trình sau đó thảo luận và nếu có thể được thì thông qua dự thảo văn bản luật đó.

- Giai đoạn công bố và đưa văn bản quy phạm pháp luật vào hiệu lực thi hành: đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình xây dựng văn bản luật.  Cơ quan có thẩm quyền (chủ tịch nước) sẽ chính thức công bố văn bản luật.

Tùy theo tầm quan trọng và tính chất của văn bản luật mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyển trong quá trình ban hành có thể bổ sung hoặc đơn giản bớt đi một số thủ tục, hoạt động nhất định.

III. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM.

1. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam và nội dung của chúng:

Văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay gồm có:

- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

- Nghị định của Chính phủ.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.

- Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quôc hội hoặc Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.

- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

- Nghị quyết của hội đồng nhân dân.

- Quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân.

Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay được quy định như sau:

- Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước và xã hội như bản chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước… Hiến pháp là văn bản pháp lí đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Hiến pháp ghi nhận những thành tựu quan trọng của quá trình xây dựng nước và giữ nước của dân tộc đồng thời khẳng định những định hướng quan trọng trong sự phát triển đất nước. Hiến pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với hiến pháp.

- Luật là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ công dân…

- Nghị quyết của Quốc hội chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để quyết định nhiệm vụ và sự phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; điều chỉnh nhân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, các ủy ban và hội đồng của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội; đại biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

- Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành để quy định về những vấn đề được Quốc hội giao. Sau thời gian thực hiện, pháp lệnh có thể có được Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật.

- Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh; hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để thự chiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.


- Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề:

+ Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

+ Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lí, điều hành của Chính phủ.

+ Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền Chính phủ.

+ Quy định những vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Việc ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để quy định:

+ Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
+ Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính Phủ, ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước.

- Thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành để:

+ Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, nghị quyết của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

+ Quy định về quy trình, quy chuẩn kĩ thuật, định mức kinh tế - kĩ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

+ Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lí ngành, lĩnh vực do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.

- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.

- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để thực hiện việc quản lí các tòa án nhân dân địa phương và tòa án quân sự về tổ chức; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân địa phương, viện kiểm sát quân sự; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước có chứa quy tắc xử sử chung được ban hành để quy định, hướng dẫn các chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy định cụ thể quy trình và hồ sơ kiểm toán.

- Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia quản lí nhà nước.

- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát tối caol giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.

- Thông tư liên tịch giữa các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ đó.

- Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng trên các lĩnh vực thuộc phảm vi thẩm quyền được giao. Hội đồng nhân dân căn cứ vào các quy định thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên ra những nghị quyết để thi hành ở địa phương.

- Quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân các cấp có chứa quy tắc xử sự chung ban hành căn cứ vào các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong các lĩnh vực xã hội ở địa phương và để thực hiện việc chỉ đạo công tác của các ủy ban nhân dân cấp dưới.

2. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam:

a. Hiệu lực về thời gian:

Thời điểm có hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2004 quy định như sau:

- Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày kể từ ngày công bố hoặc kí ban hành.

Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc kí ban hành nhưng phải được đăng ngay trên trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất là sau hai ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc kí ban hành.

- Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp hoặc liên quan đến việc phòng chống thiên tai, dịch bệnh.

- Văn bản quy phạm pháp luật của hội động nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày, cấp huyện có hiệu lực sau bảy ngày, cấp xã có hiệu lực sau năm ngày, kể từ ngày hội đồng nhân dân thông qua hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân kí ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn hoặc sớm hơn.

- Hiệu lực trở về trước của các văn bản quy phạm pháp luật. Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước, đối với văn bản của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân không quy định hiệu lực trở về trước.

Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau:

+ Quy định trách nhiệm pháp lí mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lí.

+ Quy định trách nhiệm pháp lí nặngn hơn.

- Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ việc thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ thì văn bản hết hiệu lực, nếu không hủy bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.

Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lí văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lí văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp:

+ Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.

+ Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.

+ Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

+ Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực thì cũng đồng thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới.

b. Hiệu lực về không gian:

- Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, trừ trường hợp văn bản có quy định khác.

- Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị hành chính đó, trừ trường hợp văn bản có quy định khác.

- Văn bản quy phạm pháp luật cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác.

c. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật:

- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có quy định hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn.

- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.

- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân.

- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lí hoặc quy định trách nhiệm pháp lí nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.




No comments:

Post a Comment