19/11/2014
Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản - Bài tập học kì - môn Luật Thương Mại
I. Đặt vấn đề

Cũng như pháp luật phá sản của các nước khác trên thế giới, Luật phá sản của Việt Nam quan tâm trước hết đến quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ, của người lao động và của doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Kế thừa nội dung quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993(Luật PS DN 1993), Luật PS 2004 vẫn tiếp tục dành cho các chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản còn chủ doanh nghiệp hoặc đại người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra, Luật phá sản còn bổ sung quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, các cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh của công ty hợp danh.

Để góp phần hiểu hơn về các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, em xin chọn đề tài :’’Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản’’.

II. Giải quyết vấn đề

1. Thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ xuất hiện khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Vậy khi nào doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản theo pháp luật Việt Nam? Theo quy định tại khoản 1 các điều 13, 14, 15, 16, 17 và điều 18 Luật phá sản: ‘’Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản...’’ chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 13); người lao động (Điều 14); đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16); các cổ đông công ty cổ phần (Điều 17); thành viên hợp danh Công ty hợp danh đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó; chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.

Việc xác định chính xác thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là rất quan trọng, không chỉ đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, mà còn đối với các chủ nợ, với người lao động và những người có quyền nộp đơn khác. Nếu nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sớm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu, họ sẽ bị mất bạn hàng, giảm uy tín, nếu không có sự can thiệp kịp thời có thể do hậu quả đó mà dẫn họ đến tình trạng phá sản thực sự. Nhưng nếu nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản muộn sẽ dẫn đến tình trạng lẽ ra doanh nghiệp, hợp tác xã có thể phục hồi được lại không được hưởng lợi từ việc áp dụng thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản, chủ nợ, những người liên quan không còn khả năng thu hồi tốt nhất khoản nợ của mình. Để xác định chính xác thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, cần thiết phải làm rõ khái niệm tình trạng phá sản theo pháp luật Việt Nam.

Theo quy định tại pháp luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì:’’Doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn’’. Với những điều kiện này, theo chúng tôi, thời điểm hội đủ dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng  phá sản là quá muộn. Khi đủ điều kiện để Tòa án thụ lý đơn, giải quyết yêu cầu của người nộp đơn thì chỉ còn mỗi việc là thanh lý tài sản, các khoản nợ và tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Luật phá sản năm 2004 đã quy định một cách mềm dẻo, đủ điều kiện xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sớm hơn. Theo đó, ‘’Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì là lâm vào tình trạng phá sản’’. Theo quy định này, doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản chỉ cần có các dấu hiệu sau:
- Có khoản nợ đến hạn phải thanh toán;
- Khi có chủ nợ yêu cầu;
- Không có khả năng thanh toán được các khoản nợ này.

Tuy nhiên, quy định này cũng có những cách hiểu khác nhau, gây tranh cãi và mâu thuẫn với nhau, khiến cho khó xác định chính xác và thống nhất thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

a. Không có khả năng thanh toán được các khoản nợ  

Cách hiểu thứ nhất cho rằng, không có khả năng thanh toán là điều kiện bắt buộc và khi nộp đơn người nộp đơn phải chứng minh được doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán, không còn tài sản, không có nguồn tài chính cần thiết đủ để thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Cách hiểu thứ hai thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi không thanh toán khoản nợ đến hạn bất kể lý do gì. Do vậy, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu cho rằng doanh nghiệp, hợp tác xã mình chưa lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã phải chứng minh những lý do chưa thanh toán các khoản nợ đến hạn. 

Hai cách hiểu theo hai dấu hiệu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất theo dấu hiệu nội dung: phải có đủ cơ sở chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã đó lâm vào tình trạng phá sản. Cách hiểu thứ hai theo dấu hiệu hình thức: doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán các khoản nợ vì bất kể lý do gì và nghĩa vụ chứng minh thuộc về chính doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ.

b. Thời hạn không thanh toán  

Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Tòa án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

Tuy nhiên, luật phá sản năm 2004 không quy định về thời hạn nộp đơn mà chỉ quy định ‘’khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó (điều 13 khoản 1). Tương tự, quyền và nghĩa vụ nộp đơn được quy định tại các điều 14, 15, 16, 17 và 18 đều có chung một dấu hiệu là ‘’khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản...’’

Như vậy, khác với luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, luật phá sản năm 2004 chỉ quy định dấu hiệu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không quy định một thời hạn cụ thể. Nếu chỉ theo dấu hiệu xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như tiêu chí của Luật phá sản năm 2004 thì dấu hiệu đó có thể sớm, có thể muộn và như vậy sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện.

Theo chúng tôi, tuy Điều 3 Luật phá sản năm 2004 không quy định thời hạn không có khả năng thanh toán là bao lâu nhưng không nên máy móc áp dụng ngay sau khi quá hạn và đã có yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã đó lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu thanh toán của chủ nợ ở đây cần đươc hiểu là yêu cầu này được đưa ra sau khi hết hạn thanh toán và định một thời hạn cho doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ thanh toán. Sau khi hết thời hạn này thì mới phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Nếu trong hợp đồng hoặc tại văn bản xác nhận nợ, hai bên có thỏa thuận, định thời hạn được chậm thanh toán thì chỉ qua thời hạn chậm này và chủ nợ đã yêu cầu thanh toán nhưng không được thanh toán thì mới phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 

c.Thời điểm nộp đơn và tổng số chủ nợ, tổng số nợ

Vấn đề tiếp theo để xác định chính xác thời điểm nộp đơn là có hay không cần thiết việc xác định tổng số chủ nợ, tổng số nợ.

Khái niệm về tình trạng phá sản tại Điều 3 luật phá sản năm 2004 chỉ nêu đến các khoản nợ đến hạn, không nói đến số nợ đó có giới hạn là bao nhiêu và bao nhiêu chủ nợ. Quy định này cũng gây không ít khó khăn trong thực tiễn áp dụng, bởi khái niệm tình trạng phá sản là khái niệm quan trọng quyết định của một quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Theo pháp luật các nước, tình trạng phá sản được quan niệm rất khác nhau. Có nước căn cứ vào dòng tiền mặt của doanh nghiệp khi không có tiền để thanh toán được một khoản nợ nhất định. Có nước xác định tình trạng phá sản khi cân đối giữa tổng các khoản nợ và tổng tài sản của doanh nghiệp. Khi nào tổng số nợ nhiều hơn tổng tài sản có của doanh nghiệp thì doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Vậy các khoản nợ đến hạn cần được hiểu như thế nào. Xuất phát từ đây có quan điểm cho rằng phải có ít nhất là hai khoản nợ và phải có từ hai chủ nợ trở lên thì Tòa án mới nhận đơn và xem xét khả năng có thụ lý đơn và mở thủ tục phá sản hay không. Nếu chỉ có một chủ nợ nộp đơn thì Tòa án không nhận đơn, Tòa án chỉ nhận đơn khi có hai chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trở lên và khi đó Tòa án không cần thiết phải xem xét mỗi chủ nợ có số nợ là bao nhiêu. Quan niệm này dẫn đến tình trạng các chủ nợ phải rủ nhau hoặc thông báo cho nhau, liên kết với nhau để chống lại doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Đây cũng là nội dung cần xem xét hướng dẫn thi hành hoặc có những qui định chi tiết, cụ thể hơn. Nếu chỉ có một chủ nợ thì chủ nợ đòi theo thủ tục dân sự. Quan điểm thứ hai xuất phát từ khái niệm tình trạng phá sản quy định quy định tại Điều 3, luật phá sản, luật không yêu cầu số nợ là bao nhiêu và bao nhiêu chủ nợ. Do vậy, khi chủ nợ có khoản nợ đến hạn không được thanh toán mặc dù đã có yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ thanh toán thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và Tòa án phải nhận đơn. Ủng hộ quan điểm này có ý kiến cho rằng, dù chỉ có một khoản nợ nhưng khi quá hạn không thanh toán thì nợ gốc, lãi phát sinh và còn cả việc bồi thường thiệt hại, cho nên được hiểu đó là ‘’các khoản nợ’’.

Trên thực tế, không ai muốn đòi nợ theo thủ tục phá sản bởi thủ tục vừa kéo dài mà khoản nợ đòi được không biết sẽ là bao nhiêu %. Nếu chỉ có một chủ nợ thì chủ nợ đó sẽ đòi nợ theo thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự ( tại Tòa kinh tế hoặc Tòa dân sự). Trường hợp các chủ nợ độc lập với nhau thì các chủ nợ sẽ đòi bằng các vụ án dân sự. Do vậy, đây cũng là nội dung cần được hướng dẫn và khi có điều kiện thì quy định rõ và cụ thể hơn.

d.Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Cũng như các quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khoản 1 Điều 15 quy định:’’1.Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp, hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó’’. So với những đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ hơn ai hết là người hiểu được tình trạng thực của doanh nghiệp, hợp tác xã mình. Do vậy, nếu ý thức được lợi ích của việc nộp đơn xin tự nguyện phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ sớm nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật không định ra một thời hạn cụ thể thì còn rất nhiều lý do để cho chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn đúng thời hạn. Theo chúng tôi, khi quy định nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì cần phải quy định thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ đó, như vậy mới đảm bảo được hiệu lực của điều luật.

Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 cũng không định ra một thời hạn cụ thể đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mà chỉ quy định:’’Trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về mặt tài chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn đến Tòa án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp’’ (Điều 9).

Theo chúng tôi , cần quy định thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản sớm hơn thời điểm phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

2. Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định 3 đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đó là chủ nợ không có bảo đảm  và chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 7); người lao động (Điều 8) và chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp (Điều 9). Theo luật phá sản năm 2004, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định cho chủ nợ; người lao động; chủ doanh nghiệp, hợp tác xã; đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước; cổ đông công ty cổ phần; thành viên hợp danh công ty hợp danh; doanh nghiệp, hợp tác xã khi lâm vào tình trạng phá sản thì có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Như vậy, so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật phá sản năm 2004 đã mở rộng đối tượng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, ngoài chủ nợ, người lao động, chủ doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc đại diện hợp pháp của họ còn có chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16), cổ đông công ty cổ phần (Điều 17) và thanh viên hợp danh công ty hợp danh.

a. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ

Khoản 1 Điều 13 Luật phá sản năm 2004 quy định:’’Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm, hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó’’.

- Khái niệm chủ nợ: Theo pháp luật về phá sản, chủ nợ sẽ được hiểu rộng, nguyên nhân trở thành chủ nợ đa dạng hơn, và mối quan hệ giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ cũng phong phú hơn, không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa người cho vay và người vay. Tuy nhiên, kết cục cũng là một bên có khoản nợ không thanh toán (không có khả năng thanh toán) cho bên được thanh toán. Theo quy định của Luật phá sản, chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

- Chủ nợ có bảo đảm một phần: Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó (khoản 2 điều 6 Luật phá sản). Thông thường khi áp dụng biện pháp bảo đảm, các bên thỏa thuận bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng, nhưng khoản nợ có bảo đảm một phần vẫn luôn diễn ra. Nguyên nhân là do: khi thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, các bên thỏa thuận bằng một số tiền cụ thể, một tài sản nhỏ hơn; mặc dù lúc ký kết hợp đồng, khi thiết lập quan hệ các bên thỏa thuận bảo đảm 100% nghĩa vụ hoặc cao hơn để bảo đảm, phòng ngừa rủi ro, nhưng trogn quá trình thực hiện nghĩa vụ, tài sản bị giảm giá hoặc một trong những tài sản bảo đảm bị mất đi do những lý do khách quan. 

- Chủ nợ không có bảo đảm: chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Khoản nợ không có bảo đảm thường phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thông qua các hợp đồng.

Như vậy, Luật phá sản năm 2004 cũng thống nhất với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 về thành phần chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: đó là chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Quy định này tạo điều kiện cho các chủ nợ không có sự bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 6). Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trong thủ tục phá sản. Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình tham gia vào thủ tục phá sản. Điều này thấy rõ trong so sánh về quyền và nghĩa vụ giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm. Về nguyên tắc, Luật phá sản 2004 đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với chủ nợ không có bảo đảm. Đó là lẽ đương nhiên. Nếu lợi ích của chủ nợ không có bảo đảm không được bảo vệ trong thủ tục phá sản thì bản thân chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự sẽ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên một số quy định của Luật phá sản 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế – bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 27, Điều 35), trừ trường hợp được Tòa án cho phép. Trong khi đó, các chủ nợ không có bảo đảm vẫn có thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.Việc thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31).

Chúng tôi cho rằng quy định này là không hợp lý, thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc biệt, việc không cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu này của chủ nợ có bảo đảm. Việc cho phép các chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ góp phần phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hợp tác xã, nhờ đó Tòa án có thể can thiệp sớm nhằm giúp.

Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều 31, điểm 

e) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. 

Một vấn đề được đặt ra: Các chủ nợ mới có quyền tham gia vào danh sách chủ nợ hay không? Câu hỏi này không được trả lời rõ ràng trong Luật. Các chủ nợ có bảo đảm mặc dù có quyền ưu tiên thanh toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách chủ nợ để có quyền đòi nợ, có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Theo lôgic này thì các chủ nợ mới cũng phải có tên trong danh sách chủ nợ. Tuy nhiên yêu cầu này có một số khó khăn. Vấn đề là danh sách chủ nợ được lập trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản. Sau 13 ngày niêm yết và giải quyết khiếu nại nếu có thì danh sách này được đóng lại. Trong khi đó doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 82). Theo chúng tôi, để giải quyết khó khăn này, Luật cần quy định khả năng bổ sung danh sách chủ nợ trong những trường hợp cần thiết.

b. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động

Theo Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 thì người lao động cũng có quyền đệ đơn yêu cầu Tòa án  giải quyết tuyên bố phá sản với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm. Điều 8 Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 cho phép đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức Công đoàn hoặc đại diện công đoàn có quyền đệ đơn yêu cầu Tòa án  giải quyết nếu doanh nghiệp mắc nợ không thể trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp. Khác với các chủ nợ khác người lao động không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.

Theo quy định tại Điều 13 của Luật phá sản 2004 thì cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không cần điều kiện “không trả được lương cho người lao động trong vòng 3 tháng liên tiếp” như quy định tại Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Tuy nhiên để tránh sự tùy tiện trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động phải cử đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Việc cử đại diện cho người lao động phải phải được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí, trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã có quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành. Nội dung pháp lý này chưa được quy định cụ thể trong Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. 

Qua nhiều năm thi hành luật phá sản năm 2004, có nhiều ý kiến cho rằng chính việc quy định điều kiện về thủ tục cử người đại diện phức tạp và khó thực thi nêu trên là một rào cản lớn để người lao động thực hiện quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản của mình. Do vậy, luật phá sản năm 2004 vô hình trung đã hạn chế và gần như vô hiệu hóa quyền nộp đơn của người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã. 

c. Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Điều 15 của Luật phá sản năm 2004 quy định chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Người nộp đơn phải là người đại diện hợp pháp. Khi nhận đơn, Thẩm phán phải kiểm tra tính hợp pháp của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như của người đại diện ký đơn. Ngoài đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã, người nộp đơn phải gửi kèm theo đơn các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 4 Điều 15 của Luật phá sản năm 2004, bao gồm:

a. Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận;

b. Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;

c. Bảng kê chi tiết tài sản của  doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được;

d. Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;

đ. Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ, ngân 
hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;

e. Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp’’.

Ngoài ra, khi cần thiết, Tòa án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp những tài liệu cần thiết khác theo quy định của pháp luật.

Mặc dù đã có sự tiến bộ hơn so với Luật phá sản doanh nghiệp trong việc quy định thời hạn phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và trách nhiệm của chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nhưng quy định của luật phá sản về vấn đề này vẫn chưa triệt để. Nghĩa vụ nộp đơn trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản vẫn là giới hạn có tính chất ‘’co giãn’’. Thời hạn 3 tháng được tính từ ngày chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản., song điểm thời gian mà chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã phải nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản lại không phải là dấu mốc rõ ràng, chắc chắn. Do vậy vẫn có thể dự liệu được những khó khăn, vướng mắc sẽ gặp phải trong thực tiễn áp dụng khoản 5 Điều 15 Luật phá sản năm 2004. Bên cạnh đó, quy định về nghĩa vụ nộp đơn của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản còn thiếu tính khả thi. Luật phá sản quy định nghĩa vụ pháp lý, theo đó, khi nhận thấy doanh nghiệp của mình lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 15). Tuy nhiên luật đã không quy định chế tài nên trách nhiệm này không được con nợ nghiêm chỉnh chấp hành và vì vậy, cũng ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Luật phá sản trong thực tiễn.

d. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, các cổ đông công ty cổ phần, thành viên hợp danh.

Quy định này là điểm mới của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Điều này xuất phát từ thực tiễn áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993 cho thấy không ít những doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng các chủ nợ và đại diện công đoàn hay đại diện người lao động (Nơi chưa có tổ chức công đoàn) không nộp đơn yêu cầu và bản thân doanh nghiệp mắc nợ không đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nên Tòa án không có cơ sở tiến hành thủ tục phá sản đối với những doanh nghiệp đó. Hệ quả là nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, tình trạng tài chính kiệt quệ, đã ngừng hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cầm chừng, thoi thóp nhưng không có con đường kết thúc doanh ngiệp về mặt pháp lí.

- Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp Nhà nước khi thấy doanh nghiệp Nhà nước đó lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 16). Đây là một quy định mới, tiến bộ so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Về nguyên tắc chung khi doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó. Đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước là các tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 63 của Luật doanh nghiệp nhà nước. Khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước, Tòa án phải kiểm tra những yêu cầu chung cũng như kiểm tra danh sách những doanh nghiệp này xem có thuộc danh mục doanh nghiệp đặc biệt  theo quy định tại Điều 2 luật phá sản năm 2004 hay không, sau đó sẽ kiểm tra những tài liệu cần thiết mà đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước phải gửi kèm như quy định tại Điều 15 Luật phá sản năm 2004 ( như yêu cầu đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã đó).

- Cổ đông công ty cổ phần, Điều 17 Luật phá sản năm 2004 quy định: khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện thoe nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền  nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó.

Khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp này, Tòa án cần kiểm tra các điều kiện nộp đơn bao gồm:
+ Dấu hiệu chứng minh công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản (như quy định tại Điều 3 Luật phá sản năm 2004).
+ Những quy định của công ty về điều kiện nộp đơn
+ Nội dung đơn và các tài liệu kèm theo (Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu công ty cổ phần thuộc trường hợp pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận; Báo cáo về các biện pháp mà công ty đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; Bảng kê chi tiết tài sản của công ty và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được).

Tùy trường hợp, Tòa án có quyền yêu cầu người nộp đơn nộp bổ sung những tài liệu cần thiết khác.

- Thành viên hợp danh  khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó (Điều 18). Theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật doanh nghiệp thì công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có thành viên hợp danh, thành viên góp vốn. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật phá sản thì chỉ có thành viên hợp danh của công ty hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó.
Thực tiễn cho thấy bên cạnh tâm lí e ngại nộp đơn hoặc có trường hợp vì không biết doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản hay doanh nghiệp che dấu để khắc phục tình trạng này Điều 20 Luật phá sản 2004 quy định: “Trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lí vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của doanh nghiệp có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”.

3. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

- Luật phá sản cần bảo đảm sự đối xử bình đẳng với các chủ nợ trong điều kiện như nhau. Luật phá sản cần cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, đồng thời cần tăng cường vai trò của các chủ nợ có bảo đảm để thủ tục phá sản có hiệu quả hơn. Thiết lập các quy tắc minh bạch để xếp hạng các thứ tự ưu tiên đòi nợ, phân chia một cách bình đẳng để đảm bảo lợi ích của các chủ nợ. Cần có cơ chế thực thi hiệu quả quyền của chủ nợ có bảo đảm, tài sản dùng để bảo đảm vẫn được phát mại, bán đấu giá công khai hay theo sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng bảo đảm
 
-  Cần xem xét lại về chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong một số trường hợp. Chẳng hạn, đối với Doanh nghiệp nhà nước thì nên giao quyền nộp đơn yêu cầu cho cơ quan có chức năng giám sát hoạt động của doanh nghiệp đó thay cho đại diện chủ sở hữu (Điều 16 Luật Phá sản). Đồng thời, cũng nên xem xét bỏ quy định về quyền nộp đơn của người lao động (Điều 14 Luật Phá sản) bởi lẽ quy định này có thể không phù hợp với tâm lý người lao động. Thông thường họ không muốn mất việc làm, do đó không lẽ họ lại yêu cầu “xóa bỏ” nơi họ làm việc.

Bên cạnh đó, nên bổ sung thêm quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản của các cơ quan quản lý chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan Bảo hiểm tiền gửi, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước... Vì đây là các cơ quan giám sát hoạt động của doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này nên sẽ sớm phát hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

III. Kết luận

LPS 2004 ra đời được đánh giá như là một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan có vai trò không nhỏ này trong đời sống kinh tế bằng việc khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 1993, bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn  áp dụng  Luật phá sản doanh nghiệp 1993, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, thể chế hóa chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

No comments:

Post a Comment