Đề bài số 2: Nêu nhận xét về các khẳng định sau:
a. Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ nên doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
BÀI LÀM
a. Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ nên doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Khẳng định trên là SAI, vì :
Căn cứ theo Điều 141 Luật Doanh Nghiệp quy định: “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Mặt khác căn cứ theo Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đủ bốn điều kiện sau:
“1. Được thành lập hợp pháp ;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó ;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập.”
Theo đó, doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn điều kiện thứ ba để có tư cách pháp nhân, đó là : “ có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”. Việc đầu tiên khi xét tính độc lập về tài sản của một doanh nghiệp là xác định xem tài sản của doanh nghiệp đó có độc lập với tài sản của chủ doanh nghiệp hay không. Chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ đưa vào kinh doanh một số vốn nhất định trong khối tài sản của cá nhân mình, đây được coi là tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Theo khoản 3 Điều 142 Luật doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí và trong mọi thời điểm đều có thể thay đổi mức vốn kinh doanh. Nếu doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thua lỗ mà doanh nghiệp không đủ tài sản để trả nợ thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm liên đới để trả nợ.
Như vậy, gần như không có sự tách bạch trong khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và tài sản của doanh nghiệp tư nhân nên doanh nghiệp tư nhân không được công nhận là có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên có Công ty hợp danh là được Luật doanh nghiệp 2005 thừa nhận là có tư cách pháp nhân mặc dù không thỏa mãn điều kiện: “ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”.
Tóm lại, nguyên nhân chính dẫn đến việc doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân là do không thỏa mãn điều kiện về độc lập tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp nên khẳng định :“Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ nên doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân” là sai.
b. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân là quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Khẳng định trên SAI, vì :
Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Quyền và nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệptư nhân gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó được ghi nhận tại Điều 8 và Điều 9 Luật doanh nghiệp 2005. Doanh nghiệp tư nhân là một thực thể pháp lý độc lập ngay từ khi nó được thành lập. Trong khi đó, chủ doanh nghiệp tư nhân trước hết là một cá nhân với những quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau mà không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân không thể tự nó thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình mà thông qua chủ doanh nghiệp tư nhân.
Nếu xét trên phương diện tài sản thì quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân trùng với quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách khác, không có sự phân định rạch ròi về tài sản của chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, xét trên phương diện tài sản thì quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp chính là quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp
Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân còn có những đặc thù góp phần làm cho doanh nghiệp tư nhân trở thành một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Những quyền đặc thù này được pháp luật quy định trực tiếp cho chủ doanh nghiệp chứ không quy định trực tiếp cho doanh nghiệp tư nhân như: chủ doanh nghiệp tư nhân còn có thể bán hoặc cho thuê doanh nghiệp của mình, được quy định trong các điều 144 và 145 Luật doanh nghiệp2005, quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh theo Điều 156 Luật doanh nghiệp 2005. Đối với việc tạm ngừng kinh doanh thì phụ thuộc chủ doanh nghiệp tư nhân, nhà nước không quy định những trường hợp tạm ngừng. Việc tạm ngừng hoạt động kinh doanh không có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân được hoãn lại các nghĩa vụ thực hiện với nhà nước như nộp thuế hoặc với các bên thứ ba. Tính hợp pháp của hành vi tạm ngừng kinh doanh không làm cho chủ doanh nghiệp tư nhan có quyền đơn phương tạm ngừng thực hiện các hợp đồng đã kí với các đối tác trong kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân đó, trừ trường hợp đã có thỏa thuận tạm ngừng thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia kí kết hợp đồng.
Như vậy, khẳng định: “ Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân là quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân” là sai.
No comments:
Post a Comment