18/10/2014
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế sử dụng đất - Bài tập học kỳ - Luật Tài chính
A. Mở bài

Trong những năm qua thị trường bất động sản đã và đang hình thành, phát triển ở Việt Nam, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, kích thích đầu tư, đáp ứng các yêu cầu về đất đai, nhà ở. Để quản lý và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách trong đó chính sách thuế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong phần bài tập học kì này, em xin đi vào trình bày việc ban hành một trong các chính sách thuế đó: thuế sử dụng đất.

B. Thân bài

I. Cơ sở lý luận:

1. Giới thiệu về thuế sử dụng đất:

• Thuế sử dụng đất: 

Là loại thế thu ổn định hàng năm, thu trên tổng giá trị đất nhân với thuế suất. Người sở hữu đất (hoặc người được Nhà nước giao đất sử dụng ổn định, lâu dài) có trách nhiệm nộp thuế đất như một loại thuế đánh vào tài sản. Mục đích thu thuế sử dụng đất là tận dụng và thúc đẩy sử dụng đất có hiệu quả, ngăn ngừa lũng đoạn, đầu cơ đất đai. Thuế thu trên tổng giá trị đất, đất đai càng nhiều thì tổng giá trị đất càng cao, và nếu thuế suất lũy tiến thì thuế càng lớn. Chủ sử dụng đất mà sử dụng không hiệu quả thì phải chuyển nhượng cho người khác. Qua đó thúc đẩy việc chuyển dịch đất đai một cách hợp lý, ngăn ngừa đầu cơ đất đai, đồng thời điều tiết cung về đất đai.

Hiện nay, thuế sử dụng đất bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà, đất. Tới ngày 01/01/2012 khi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực thì thuế sử dụng đất sẽ bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.


2. Giới thiệu về thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà, đất :

Thuế sử dụng đất nông nghiệp (thuế SDĐNN): 
Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được ban hành vào năm 1993 để thay thế cho Luật thuế nông nghiệp được ban hành từ năm 1951. Thuế nông nghiệp trước đây trên hoa lợi thu được với thuế suất tương đối cao đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người nông dân, không khuyến khích việc thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp (đánh thuế đối với việc sử dụng đất) ra đời đáp ứng được các mục tiêu cơ bản như: khuyến khích sử dụng đất đai tiết kiệm và có hiệu quả, khuyến khích phát triển nông nghiệp cả về diện tích cũng như sản lượng, đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước đối với đất nông nghiệp. 

Pháp lệnh thuế nhà, đất:

Pháp lệnh thuế nhà, đất được ban hành từ năm 1992, pháp lệnh này chỉ thu thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình; chưa thu thuế đối với nhà. Căn cứ tính thuế đối với đất dựa vào căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp tức là mức thuế đất gấp mấy lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ví dụ mức thuế đất Hà Nội cao nhất, gấp 32 lần mức thuế nông nghiệp. Pháp lệnh thuế nhà, đất ra đời để sử dụng có hiệu quả nguồn lực của đất nước và tăng thu cho ngân sách, đáp ứng các yêu cầu cho đầu tư phát triển đất nước

II. Thực tiễn việc ban hành thuế sử dụng đất và những hạn chế của thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà, đất:

1. Thuế sử dụng đất nông nghiệp.

1.1 Thực tiễn việc ban hành và thực hiện:

Thuế sử dụng đất nông nghiệp thực hiện điều tiết thu nhập từ việc sử dụng đất nông nghiệp, đất trồng rừng. 

Căn cứ tính thuế SDĐNN là diện tích, hạng đất và định suất thuế.

Do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp, đất trồng rừng đã cơ bản hoàn thành, nên việc quản lý đối tượng nộp thuế, diện tích tính thuế tương đối đầy đủ, chặt chẽ. Kết quả cụ thể từ năm 2000 đến năm 2003 như sau:

Biểu số 1:

Kết quả thu thuế sử dụng đất nông nghiệp.

TT Chỉ tiêu                                     Năm 2000           Năm 2001          Năm 2002       Năm 2003
1 Số đối tượng nộp thuế                  11.575.733        11.742.137        11.893.987 11.912.195
2 Diện tích đất tính thuế (ha)             4.778.807          4.937.310         4.951.524 4.956.278
3 Số thuế thu được (triệu đồng)        1.776.000          691.000            540.000            520.000

(Nguồn: Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính)

1.2 Những mặt hạn chế của thuế sử dụng đất nông nghiệp:

Bối cảnh hiện nay là sự tích tụ đất đai và phân hóa giàu nghèo trong nông nghiệp đang ngày càng rõ nét, do vậy, tính công bằng xã hội giữa người sử dụng nhiều đất, người sử dụng ít đất vào sản xuất nông nghiệp và với những người sử dụng đất vào các mục đích khác đang có chiều hướng giảm. Điều này đặt ra yêu cầu hợp nhất Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp và Pháp lệnh Thuế nhà, đất. Trong đó thay đổi căn bản các căn cứ tính thuế là diện tích, giá đất và thuế suất, đảm bảo thuế sử dụng đất chỉ điều tiết thu vào đất, không thu vào hoa lợi trên đất, nhằm tăng năng suất và thay đổi cơ cấu cây trồng, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Luật mới còn bảo đảm công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa các loại đất và giữa các tầng lớp cư dân nông thôn với đô thị.

Theo các chuyên gia, nội dung luật thuế sử dụng đất tăng cường quản lý nhà nước về đất đai để sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, hạn chế sự tích tụ đất đai và phân hóa giàu nghèo trong nông nghiệp, tức là hạn chế mặt trái của chính sách phát triển kinh tế trang trại. Ngoài ra, luật mới cũng phải đơn giản hóa, phù hợp với nông dân, với trình độ của cán bộ thuế và nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế. Đây được coi là bước đột phá trong tiến trình cải cách thuế bước II (bước I là giai đoạn 1990-1995).

2. Pháp lệnh thuế nhà, đất:

2.1 Thực tiễn việc ban hành và thực hiện:

Sau một thời gian thực hiện, thuế nhà đất đã bộc lộ một số nhược điểm như: thiếu sự thống nhất giữa các văn bản quản lý, mức thu thuế cao đối với đất ở vùng nông thôn... Sau một lần sửa đổi, đến ngày 19/5/1994, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất phù hợp với tình hình thực tế, chủ yếu là điều chỉnh mức thuế so với thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Hiện nay, chúng ta mới chỉ thực hiện đánh thuế đối với đất, tạm thời chưa quy định đánh thuế đối với nhà. Thuế đất thực hiện điều tiết thu nhập trong phạm vi sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ... đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng đất (trừ trường hợp sử dụng đất thuê).

Kết quả quản lý  đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế và số thuế nhà, đất cụ thể từ năm 2000 đến năm 2003 như sau:

Biểu số 2:

Kết quả thu thuế nhà đất.

TT Chỉ tiêu                                 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
1 Số đối tượng nộp thuế             12.263.846 12.454.756 12.920.249 12.944.068
2 Diện tích đất tính thuế (ha)        401.187           421.754          446.370             449.341
3 Số thuế thu được (triệu đồng)   366.000           328.000          280.000             284.000

(Nguồn: Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính)

2.2 Những mặt hạn chế của Pháp lệnh thuế nhà, đất:

Thứ nhất, Pháp lệnh thuế nhà, đất được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 03/7/1992, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 1994, quy định về điều tiết nguồn thu đối với đất phi nông nghiệp. Pháp lệnh này bước đầu đặt cơ sở cho việc tăng cường quản lý, động viên đóng góp của người sử dụng đất vào ngân sách nhà nước, tăng cường nguồn lực cho ngân sách địa phương.

Tuy nhiên, qua hơn 16 năm thực hiện, đến nay, trước những bất cập phát sinh trong quản lý, điều tiết việc sử dụng đất, nhiều quy định của Pháp lệnh đã không còn đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật đất đai năm 2003; nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế chưa tương xứng với giá trị đất đai; đặc biệt, chưa thể hiện vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước trong vận hành nền kinh tế thị trường. 

Thứ hai, một số quy định về quản lý thuế đất trong Pháp lệnh đã được thể hiện trong Luật quản lý thuế. Vì vậy, việc sửa đổi, nâng cao giá trị pháp lý của Pháp lệnh là cần thiết, nhằm hoàn thiện một bước khuôn khổ pháp lý về quản lý, sử dụng đất theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng; đồng thời, việc ban hành luật nhằm thể chế hóa chủ trương đổi mới chính sách về đất đai mà Đảng đã đề ra trong Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/01/2008, theo đó, tăng cường hơn nữa vai trò của thuế trực thu, trong đó có thuế sử dụng đất.

Thứ ba, việc nâng lên thành Luật là để phù hợp thẩm quyền của Quốc hội quy định tại Điều 84 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (việc sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế thuộc thẩm quyền của Quốc hội).

III. Những điểm khiếm khuyết trong Pháp lệnh thuế nhà, đất đã được bổ sung, hoàn thiện trong Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp:

1. Giới thiệu về Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp:

Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thuế SDĐPNN): 

Trước đây thì Quốc hội đã ra dự thảo về luật thuế nhà đất, tuy nhiên ngày 15-3-2010, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thống nhất rút nhà ở ra khỏi đối tượng chịu thuế và đổi tên thành Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, bao gồm đất ở và đất sản xuất - kinh doanh (SXKD). Sau này, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Từ ngày 1/1/2012, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đánh vào người sở hữu bất động sản sẽ có hiệu lực. Theo đó, người sở hữu đất phi nông nghiệp phải nộp thuế theo tỷ lệ trên giá đất do UBND tỉnh, thành phố công bố. Theo đó, thuế suất đối với đất ở áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần.

Bậc thuế     Diện tích đất tính thuế (m2)                                                               Thuế suất (%)
1                Diện tích trong hạn mức                                                                        0,03
2                Phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức                                        0,07
3                Phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức                                                  0,15

Cụ thể, đất ở nhà nhiều tầng, có nhiều hộ ở, nhà chung cư, công trình xây dựng dưới mặt đất áp dụng mức thuế suất 0,03% (các hộ sẽ chia nhau nộp trên tổng diện tích đất chung). Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp có mức thuế suất 0,03%. Đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định áp dụng mức thuế suất 0,15%. Đất lấn chiếm áp dụng mức thuế suất 0,2% và không áp dụng hạn mức.

2. Những điểm khiếm khuyết trong Pháp lệnh thuế nhà, đất đã được bổ sung, hoàn thiện trong Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp:

Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp không đưa nhà ở vào diện chịu thuế với lý do sau: 

(1) Qua lấy ý kiến nhân dân cho thấy, việc áp dụng thuế nhà ở tại thời điểm hiện nay chưa có sự đồng thuận cao trong nhân dân. Hơn nữa, khi nền kinh tế chưa ổn định, việc áp dụng thuế nhà ở sẽ tác động đến tâm lý và làm tăng thêm nghĩa vụ tài chính đối với một bộ phận người dân.

(2) Một trong những mục tiêu áp dụng thuế đối với nhà ở là nhằm hạn chế đầu cơ nhà ở, song trên thực tế giá trị nhà ở lại gắn liền với giá trị đất và đầu cơ lại tập trung vào đất, căn cứ vào vị trí, địa thế của đất mà không phải đầu cơ giá trị xây dựng nhà trên đất. Do vậy, để hạn chế đầu cơ thì phải tập trung áp dụng công cụ điều tiết đối với đất.

(3) Áp dụng thuế nhà ở thực chất là áp dụng thuế tài sản, song trên thực tế, ngoài nhà ở còn có nhiều loại tài sản khác có giá trị lớn, thậm chí lớn hơn giá trị xây dựng của nhiều loại nhà như ô tô, máy bay, tàu thủy, du thuyền… Nếu chỉ áp dụng thuế tài sản đối với nhà ở thì chưa bảo đảm tính hợp lý, công bằng của một sắc thuế. Mặt khác, một số nước có trình độ phát triển hơn Việt Nam cũng chưa áp dụng thuế đối với nhà ở.

(4) Tại thời điểm hiện nay, việc tổ chức thực thi thuế đối với nhà ở có thể gặp khó khăn do nhiều điều kiện bảo đảm thực thi chưa đầy đủ, đồng bộ.

(5) Dự kiến số thu từ thuế nhà ở cho ngân sách nhà nước không lớn, trong khi đó chi phí cho công tác hành thu lại không nhỏ.

IV. Những mặt hạn chế của Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và một số kiến nghị khắc phục:

1. Vê mục tiêu, định hướng hoạt động của Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp:

Việc ban hành Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được kỳ vọng là sẽ giúp cơ quan chức năng tăng cường kiểm soát chặt chẽ hơn thị trường bất động sản; chống đầu cơ, thao túng giá cả trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia thì khả năng điều tiết thị trường bất động sản của Luật này là không nhiều. GS. TSKH Đặng Hùng Võ phân tích, do mức thuế đánh vào việc sở hữu bất động sản quá thấp, nên khó hạn chế được tình trạng mua hàng loạt bất động sản sau đó để hoang, không ở (như đối với các biệt thự tại Hà Nội là 1 ví dụ). Nếu căn cứ theo Biểu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thì toàn bộ số thuế thu được đối với đất phi nông nghiệp là khoảng hơn 438 tỷ đồng/năm (theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội) – một con số vô cùng khiêm tốn nếu so với quy mô và giá trị giao dịch của thị trường bất động sản Việt Nam mỗi năm. Lợi nhuận mà giới đầu tư thu được luôn vượt gấp nhiều lần con số này và đó là lý do chính dẫn đến tình trạng đầu cơ đất tràn lan trong những năm qua.

Dọc theo các tuyến Quốc lộ 1A (Hà Nội - Lạng Sơn), Quốc lộ 2 (Hà Nội - Việt Trì), các trục đường chính dẫn vào TP. Hà Nội, người ta có thể dễ dàng bắt gặp hàng trăm dự án nhà ở, khu đô thị mới đang xây thô hoặc đã hoàn thiện. Theo kết quả kiểm tra sơ bộ của Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng), trong số 16 dự án tại Hà Nội (một phần nhỏ trong tổng số gần 200 dự án nhà ở, khu đô thị mới tại Hà Nội đã được xây dựng), với 2.684 căn biệt thự, thì chỉ có 1.743 căn được sử dụng, còn 941 căn bỏ hoang. Tỷ lệ biệt thự bỏ hoang tại Hà Nội lên đến 35% là một con số đáng kinh ngạc.
Từ tháng 3/2011, UBND TP. Hà Nội cũng đã có văn bản yêu cầu một trong số các chủ đầu tư có dự án biệt thự bỏ hoang là Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư Ba Đình phải có biện pháp yêu cầu khách hàng là chủ nhân của các biệt thự bỏ hoang phải hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Thành phố thậm chí còn yêu cầu chủ đầu tư phải mua lại các biệt thự nếu người mua không sử dụng, song đây dường như lại tiếp tục là một biện pháp bất khả thi nếu người mua không muốn bán hoặc rao bán với giá quá cao. Việc hoàn thiện các biệt thự hầu như cũng chỉ mang tính đối phó.

2. Cần xác định rõ tiêu chí đất ở và đất sản xuất kinh doanh

Pháp lệnh thuế nhà, đất hiện hành quy định đối tượng chịu thuế là đất ở, đất xây dựng công trình. Tuy nhiên, theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm: đất ở, đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng... Do đó, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định đối tượng chịu thuế là đất ở, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp đảm bảo phù hợp với Luật đất đai năm 2003. Đối với đất phi nông nghiệp thuộc đối tượng tại Điều 3 của Luật, nếu sử dụng vào mục đích kinh doanh thì cũng thuộc đối tượng chịu thuế. Cụ thể đối tượng chịu thuế bao gồm: 

- Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị.

- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.

- Đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật này sử dụng vào mục đích kinh doanh.

Trong thuế SDĐPNN, đối tượng chịu thuế gồm hai loại: đất ở và đất SXKD. Người nộp thuế là người có quyền sử dụng đất (xin gọi tắt là chủ đất). Vì vậy việc phân biệt các loại đất này phải căn cứ vào mục đích sử dụng đất của chủ đất. Một ngôi nhà được người chủ sử dụng làm nhà ở thì lô đất đó là đất ở. Nhưng cũng ngôi nhà đó, nếu người chủ cho thuê, dù người thuê cũng dùng để ở, thì từ giác độ thuế, lô đất đó là đất SXKD. 

Tuy đều là đất, nhưng nội dung kinh tế của mỗi loại đất lại khác nhau. Đất ở thuộc phạm trù hàng tiêu dùng, vì nó không tạo ra thu nhập cho người nộp thuế (chủ đất), do đó tiền thuế phải trích từ thu nhập sau thuế của chủ đất. Còn nếu là đất SXKD, kể cả đất có nhà ở cho thuê, lại thuộc phạm trù phương tiện kinh doanh (vốn), vì nó đem lại cho chủ đất hoa lợi (thu nhập). Đất này tự tạo ra nguồn tiền nộp thuế. 

Từ phân tích trên rút ra:

 1) Cơ sở kinh tế (hay nguồn tiền nộp thuế) của thuế đất ở và thuế đất SXKD không giống nhau, do đó phải có chính sách khác nhau. Một bên là chính sách đối với mức tiêu dùng của dân, bên kia là chính sách đối với đầu tư và sử dụng vốn và tất cả đều phải khuyến khích sử dụng hợp lý. 

2) Việc phân loại đất ở với đất SXKD không đơn giản, bởi nó không căn cứ vào công dụng vật chất của các công trình trên đất, mà căn cứ vào sự sử dụng công trình trên đất của chủ đất, thêm nữa sự sử dụng này lại không cố định, mà có thể thay đổi, hoán vị cho nhau. Nếu chủ đất sử dụng nhà làm nhà ở của mình thì nộp thuế đất ở, xét về nội dung kinh tế là thuế thu vào một loại hàng tiêu dùng, còn nếu các công trình trên đất là nhà xưởng, kho tàng, chuồng trại chăn nuôi, nhà ở cho thuê... thì nộp thuế đất SXKD, thực chất là thuế thu vào vốn kinh doanh. Tiếc rằng luật không đề cập tới vấn đề quan trọng và phức tạp này, thậm chí không thấy định nghĩa và định rõ tiêu chí phân loại. 

3) Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định thuế suất lũy tiến cho đất ở là 0,03%, 0,06%, 0,09%, tùy theo diện tích đất sử dụng so với hạn mức đất ở và thuế suất bình quân cho đất SXKD là 0,05%, không phân biệt diện tích sử dụng. Nhìn bề ngoài thuế suất quy định như vậy có vẻ chống đầu cơ, song thực tế là điều tiết tài sản của người có nhiều đất ở, không phù hợp với đường lối “dân giàu, nước mạnh” trong giai đoạn hiện nay. 

Quy định hạn mức đất ở là cần thiết. Song, ngày nay phải có tư duy mới về hạn mức đất ở. Nếu quan niệm rằng đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân và đất ở đáp ứng một nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của dân, chỉ dưới cái ăn, thì Nhà nước phải lo đất ở cho dân. Một hạn mức đất ở tối thiểu nào đó cần được coi là chủ quyền của mỗi công dân. Sử dụng trên mức đó phải nộp thuế, coi như sử dụng đất SXKD. Đấy là ý tưởng có sức thuyết phục về mặt chính sách, lại giảm tải cho bộ máy hành thu. 

C. Kết luận:

Thực hiện chính sách đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường bất động sản ở nước ta đã bắt đầu được hình thành và đi vào hoạt động, góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu bất động sản cho các đơn vị tổ chức và cá nhân, biến bất động sản thành nguồn lực to lớn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên về cơ bản, thị trường bất động sản ở nước ta vẫn còn sơ khai; nguồn thu từ bất động sản còn hạn chế. Để khắc phục những hạn chế trên, cần thực hiện đồng bộ nhiều chính sách trong đó chính sách thuế đóng vai trò hết sức quan trọng. 
Trên đây là bài tập học kì của em, do có giới hạn nên bài làm vẫn còn nhiều hạn chế. Em rất mong thầy/ cô giúp em hoàn thiện phần thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn. 


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tài chính
2. Bộ Tư pháp – Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tài chính – Vụ pháp chế, Đề cương giới thiệu Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
3. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.
4. Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1994.
5. Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
6. VIR, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp: Không tác động nhiều đến thị trường? 04/05/2011.
7. Hồng Anh, Bắt đầu thí điểm thu thuế đất phi nông nghiệp.
8. Lê Văn Tứ, Thứ Ba,  http://www.thesaigontimes.vn 6/4/2010, Còn tốn nhiều công phu soạn thảo. 
9. KT& ĐT, Miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp: Phân loại theo từng đối tượng




No comments:

Post a Comment