PHẦN MỞ ĐẦU:
Non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc. Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh chống lại hai tên thực dân, đế quốc đầu sỏ Pháp, Mỹ. Bằng sự dẫn dắt tài tình và tầm tư tưởng của một vĩ nhân, Người đã đưa đất nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước có chủ quyền, độc lập, tự do, đưa nhân dân Việt Nam từ than phận nô lệ đứng lên làm chủ vận mệnh, đất nước, được hưởng tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng tư tưởng mà Người để lại cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị mà chúng ta còn phải học tập noi theo. Khi tìm hiểu về Tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải tìm hiểu điều kiện lịch sử - xã hội, nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng ấy mà trước hết là tìm hiểu về điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG TÌM HIỂU:
Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được phân tích tìm hiểu qua ba luận điểm chính sau: Bối cảnh xã hội Việt Nam thề kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bối cảnh quê hương và gia đình, bối cảnh của thời đại.
I) Bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
1) Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX là xã hội phong kiến, bảo thủ, lạc hậu, phản động.
Lịch sử đã có những bằng chứng rõ nét nhất, xác thực nhất để minh chứng sự bảo thủ, lạc hậu, phản động của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX. Thứ nhất, triều đình nhà Nguyễn vẫn duy trì nền nông nghiệp lạc hậu, vẫn “con trâu đi trước cái cày theo sau”, không có gì đổi mới, không chịu mở trường đào tạo khoa học, kỹ thuật, kinh tế và cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân đổi mới của các nhà tư tưởng đương thời điển hình như Nguyễn Trường Tộ… Thứ hai, Triều đình vẫn thi hành chính sách áp bức bóc lột nhân dân trong nước và bế quan toả cảng với bên ngoài, không cho dân tộc ta có cơ hội tiếp xúc với thế giới văn minh bên ngoài. Chính vì sự bảo thủ, lạc hậu, phản động ấy đã làm cho xã hội nước ta lúc bấy giờ trì trệ trước sự phát triển của thế giới. Hơn thế nữa, điều này còn làm cho triều đình Nguyễn không có đủ tiềm lực vật chất cũng như tinh thần, sức mạnh của dân tộc để chống giặc ngoai xâm bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng chính là nguyên nhân mà Triều Nguyễn đã phải chịu thua, đầu hàng mà dâng nước ta cho Pháp khi chúng tiến hành xâm lược nước ta.
2) Xã hội Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX.
Khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình Nguyễn từng chủ động chiến đấu nhưng sau đó dần dần đã đi từ chủ chiến đến chủ hoà rồi sau đó chấp nhận đầu hàng và dâng nước ta cho Pháp để đảm lợi ích cho hoàng tộc, giữ lấy ngai vàng. Mà nguyên nhân là nhà Nguyễn không thể có đủ tiềm lực và khả năng để bảo vệ Tổ quốc chỉ vì những chính sách bảo thủ, lạc hậu và phản động nói trên. Như vậy, vua quan nhà Nguyễn đã trở thành những kẻ hèn nhát, kẻ bán nước cầu vinh cho bản thân. Nhân dân ta phải sống trong ách nô dịch của Pháp, ách áp bức bóc lột của triều đình phong kiên, rơi vào tình trạng một cổ hai tròng. Có áp bức thì có đấu tranh, trong giai đoạn ấy, phong trào vũ trang kháng chiến chống thực dân Pháp của quần chúng nhân dân lần lượt xuất hiện và lan rộng ra cả nước: ở Nam Bộ có “Nguyên soái” Trương Định, Nguyễn Trung Trực…; ở Trung Bộ có Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng…; ở Bắc Bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích… Phong trào đấu tranh vũ trang thời kỳ này đã làm dày thêm truyền thống đánh giặc của ông cha ta, làm vẻ vang thêm cho nhưng trang sử hào hùng của dân tộc ta. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị dập tắt do còn mang nặng hệ tư tưởng phong kiến.
3) Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
Đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta, Pháp lần lượt tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất làm cho xã hội nước ta có sự phân hoá, xuất hiện những giai cấp mới là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Bên cạnh đó còn có “Tân thư”, “Tân văn”… cùng với cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc tràn vào Việt Nam và có ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đó, phong trào yêu nước Việt Nam dần chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản và nổ ra các phong trào đấu tranh sôi nổi như: phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Viêt Nam Quang phục Hội,… Những phong trào này cũng giống như những phong trào đấu tranh vũ trang trước đây đã tô điểm cho tinh thần yêu nước của dân tộc Viêt Nam, làm vẻ vang thêm lịch sử nước nhà. Tuy nhiên, những phong trào ấy cuối cùng cũng lại thất bại do còn gắn với hệ tưởng tư sản đã lỗi thời và những người truyền bá lại là các sĩ phu phong kiến nên còn nhiều hạn chế khi thực hiện. Tình thế lịch sử cho thấy cả hai hệ tưởng phong kiến và tư sản đều không thể là hệ tư tưởng đúng đắn để có thể giải quyết được vấn đề, nhiệm vụ đang đặt ra trước dân tộc, đất nước. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong phong trào yêu nước của dân tộc, Người sớm tìm ra nguyên nhân thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc, đó là: Các phong trào giải phóng dân tộc đều không gắn với tiến bộ xã hội. Nguyễn Tất Thành sớm nảy ra ý định đi tìm đường cứu nước. Sự xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
II) Bối cảnh quê hương và gia đình.
1) Hồ Chí Minh được quê hương và gia đình nuôi dưỡng, tôi luyện.
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước Người đã học được ở người cha của mình là cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc tính siêng năng, cần cù, ham học hỏi và tấm lòng nhân hậu yêu thương đồng loại mà sau này là lòng yêu nước của một người lãnh đạo cách mạng và thương dân của một vị lãnh tụ vĩ đại. Người còn được trưởng thành trong phong trào quần chúng giàu truyền thống cách mạng nơi quê hương Nghệ Tĩnh, đó là nơi địa linh nhân kiệt, là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc qua nhiều thời kỳ lịch sử như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến và cả anh chị của Nguyễn Tất Thành cũng tham gia hoat động yêu nước và bị bắt, lưu đầy hàng chục năm. Người còn kế thừa được từ họ - những bậc tiền bối tư tưởng yêu nước, thương dân gắn bó với dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hoạt động chính trị của mình. Như vậy có thể nói Hồ Chí Minh không phải ngẫu nhiên được sinh ra trên quê hương Nghệ Tĩnh giàu truyền thống cách mạng như vậy mà con người của vị lãnh tụ ấy đã được truyền thống quê hương tôi luyện và dần dần hoàn thiện để có thể trở thành vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
2) Hồ Chí Minh đã chứng kiến và đồng cảm với sự đau khổ của người dân mất nước.
Ngay từ lúc nhỏ, Người đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Khi được đi học ở Huế, Người còn tận mắt nhìn thấy tội ác dã man, thô bạo của bọn thực dân và thái độ bạc nhược, đê hèn của vua tôi triều Nguyễn, lối sống xa hoa, truỵ lạc của bọn thực dân đối lập với cảnh sống cơ hàn, cùng khổ của nhân dân ta. Từ sự chứng kiến đau xót ấy và những bài học về sự thất bại của những bậc tiền bối đi trước, tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ và nuôi dưỡng lý tưởng yêu nước cách mạng của Hồ Chí Minh và Người đã quyết định ra đi tìm con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc mình. Và quyết định sang Pháp là quyết định đúng đắn, Người không đi theo con đường của những bậc tiền bối đi trước mà lựa chọn cho mình một con đường riêng đúng đắn vì “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Người cho rằng phải sang Pháp và một số nước, sang tận sào huyệt của chúng tìm hiểu xem họ làm như thế nào để về giúp đồng bào mình. Sau bao nhiêu năm bôn ba nước ngoài, đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình, cuối cùng Người đã tìm được con đường để đi đến thành công mang lại chiến thắng, độc lập chủ quyền cho dân tộc Việt Nam.
III) Bối cảnh thời đại.
1) Chủ nghĩa đế quốc và yêu cầu mới của cách mạng.
Hồ Chí Minh bước vào vũ đài chính trị là thời đại mà chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền hình thành hệ thống thuộc địa và có tính chất quốc tế từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chúng tranh giành thuộc địa và nô dịch các dân tộc nhỏ yếu. Lúc này, mỗi thuộc địa trở thành một mắt khâu của hệ thống đế quốc chủ nghĩa nên cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước nếu chỉ tiến hành riêng rẽ thì sẽ không thể nào giành được thắng lợi và kết quả cuối cùng sẽ đi đến thất bại như những phong trào yêu nước trước đây của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám hay Phan Bội Châu. Do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng lẻ của mỗi nước mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống lại chủ nghĩa đế quốc và gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới. Sự liên kết đấu tranh này có vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của lãnh tụ Hồ Chí Minh sau này.
2) Những sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức cánh mạng và tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ anh trở về Pari, thủ đô nước Pháp tiếp tục hoạt động cách mạng. Tại đây, Người đã lăn lộn với phong trào quần chúng, sát cánh với những người yêu nước Viêt Nam và những người thuộc địa của Pháp, Người cũng nhanh chóng tiếp xúc với phái tả và gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919. Đây là chính đảng duy nhất ở Pháp lúc bấy giờ bảo vệ, tỏ sự đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trên bị áp bức, bóc lột và theo đuổi lý tưởng cao đẹp của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Cùng năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước ký tên và gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Vécxây với mong muốn được giúp đỡ để giàng lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bản yêu sách không được chấp nhận, từ đó Người đã thấy rõ bản chất giả dối của chủ nghĩa đế quốc và rút ra được bài học là muốn được giải phóng thì các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình, lực lượng của mình không thể dựa dẫm vào sự giúp đỡ bên ngoài được,
Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga thành công, tháng 3 năm 1919 V.I. Lênin thành lập Quốc tế III thay thế Quốc tế II và nhà nước Xôviết non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc vào nước Nga và giải quyết xong vấn đề nội chiến là những sự kiện vĩ đại của làm thay đổi cục diện chính trị của tình hình thế giới với lợi thế nghiêng về nước Nga, nghiêng về phong trào vô sản và làm cho bầu không khí chính trị của các nước châu Âu trở nên sôi động, nhất là trong Đảng Xã hội Pháp. Chính những sự kiện này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
3) Hồ Chí Minh với bản “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin.
Đầu mùa đông năm 1920, Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của Đông Dương được cử đi dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (Đại hội Tua) tại thành phố Tua được tổ chức từ ngày 25 đến ngày 30 - 12 - 1920. Tại Đại hội này Người đã tình cờ đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin được đăng trên báo Luymanitê tháng 7- 1920. Đọc được Luận cương của Lênin, Người đã thấy được những điều mình đang nung nấu được Lênin nói một cách đầy đủ và sâu sắc, Người mừng rỡ đến trào cả nước mắt, đã reo lên như vừa tìm một phát kiến vĩ đại! Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi thấy rất cảm động, phấn khởi, sang tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đày đoạ đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta!””. Người đã tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Bản “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin. Đã giúp Hồ Chí Minh tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và đánh dấu bước chuyển căn bản trong tư tưởng của Người từ lập trường dân tộc sang lập trường giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
Đây là một trong những điều kiện mang tính lịch sử sâu sắc, tạo bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời làm cách mạng của Người, góp phần to lớn trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng có tầm vóc vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại.
KẾT LUẬN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh được đúc kết và hình thành trong những điều kiện lịch sử - xã hội rất phức tạp, hết sức khó khăn gian khổ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Sau khi tìm hiểu về điều kiện lịch sử và xã hội hình thành tư tưởng của Người, em cảm thấy khâm phục tài năng, nhân cách, trí tuệ uyên bác, sự hi sinh cao cả của Hồ Chí Minh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta ngày nay là một tài sản vô cùng quý báu không chỉ có giá trị trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược, đấu tranh giành độc lập dân tộc khi xưa mà cho đến tận ngày nay và mai sau nữa chúng ta vẫn phải nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng của Người trên mọi lĩnh vực. Minh chứng rõ nét nhất cho điều đó là hiện nay Đảng và Nhà nước đang phát động phong trào tìm hiểu và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn xã hội và được hưởng ứng nhiệt tình từ khắp các tỉnh thành trên cả nước. Hồ Chí Minh cũng như tư tưởng của Người mãi mãi là niềm tự hào của đất nước, non sông và dân tộc Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
I. GIÁO TRÌNH:
1) Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
2) Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nhận thức cơ bản
- TS. Nguyễn Mạnh Tường - Chủ biên,
- Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009
3) Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
II. WEBSITE:
1) Wedsite: www.dangcongsan.vn
2) Wedsite: www.tailieu.vn
3) Wedsite: www.tienphong.vn
4) Wedsite: www.tapchicongsan.org.vn
5) Wedsite: www.vi.Wikipedia.org.vn
No comments:
Post a Comment