Bài tập học kỳ Luật Tài chính có đáp án.
A, MỞ ĐẦU
Đất nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia. Pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập cũng như sự bảo hộ của nhà nước đối với nền kinh tế.Đây không chỉ là chính sách thuế của nhà nước mà còn thể hiện chính sách ngoại giao của nước ta. Thuế nhập khẩu được quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ( Luật TXK, TNK) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong năm 2013, còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, tuy đã có một hệ thống pháp luật tương đối cụ thể nhưng việc thực thi trên thực tế ngoài những thành tựu đạt được thì còn gặp rất nhiều khó khăn.Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần được hoàn thiện để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả hơn nữa. Để đi sâu nghiên cứu vấn đề này, em xin chọn đề tài : “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong năm 2013; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu”. Trong quá trình làm bài, do hiểu biết của em còn hạn chế và vấn đề mang tính thực tiễn cao, nên bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, để hướng nhìn nhận vấn đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
B, NỘI DUNG
I, KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
1, Khái quát về thuế nhập khẩu
- Khái niệm thuế nhập khẩu:
Tùy thuộc vào góc độ tiếp cận, còn nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhập khẩu:
Xét trên phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bang tiền của tổ chức cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa qua biên giới một nước.
Xét trên phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước ( người thu thuế ) với tổ chức, cá nhân ( người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lí cho các bên trong quá trình thu thuế nhập khẩu.
- Các đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu:
+ Thứ nhất: Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới.
+ Thứ hai: Thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu.
+ Thứ ba: Thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ nền sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động nhập khẩu.
2, Khái quát pháp luật về thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng kí, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa nhà nước và người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luât về thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của Chính phủ; quyết định chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ…Xét về phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như: phạm vi áp dụng; căn cứ tính thuế nhập khẩu; trình tự, thủ tục tiến hành thu thuế nhập khẩu; chế độ miễn giảm thuế nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu; xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về thuế nhập khẩu.
Có quan điểm cho rằng nội hàm của khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu không chỉ là các quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả các quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến vấn đề thuế nhập khẩu, như Hiệp định CEPT; Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định GATT…Như vậy, cần phải quan niệm nội hàm của khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao gồm cả các quy định trong pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu. Quan điềm này là thích hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trong giai đoạn hiện nay của thế giới.
II, THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 2013
1, Những mặt đã đạt được
- Thứ nhất, thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và sản xuất trong nước
Luật TXK, TNK năm 2005 ra đời đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu về thu ngân sách nhà nước. Sau một thời gian thực hiện Luật TXK, TNK năm 2005 và Luật Hải Quan ( sửa đổi) đã phát huy tích cực, góp phần vào hiệu quả hoạt động hải quan. Ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu năm 2013 đã được nâng lên, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm thiếu nợ thuế.Năm 2013, nước ta vẫn tiếp tục thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.Pháp luật nhập khẩu đã tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy quan hệ ngoại giao của nước ta.
Trong năm 2013, hoạt động xuất nhập khẩu vẫn phụ thuộc lớn vào khối doanh nghiệp FDI. Về thị trường, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỷ USD .Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng từ Trung Quốc tăng so với năm 2012: Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 25,5% (1,2 tỷ USD); điện thoại các loại và linh kiện tăng 73,6% (2,3 tỷ USD); máy vi tinh sản phẩm điện từ và linh kiện tăng 36,8% (1,1 tỷ USD).
Thị trường ASEAN ước tính đạt 21,4 tỷ USD, tăng 2,8% (589 triệu USD) với kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 56,3% (1,2 tỷ USD); máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 7,9% (16,9 tỷ USD).
Kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc ước tính đạt 20,8 tỷ USD, tăng 34,1% (5,3 tỷ USD) với các sản phẩm chủ yếu như: Máy vi tính tăng 60,3% (1,8 tỷ USD); máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 62,8% (993 triệu USD); điện thoại các loại và linh kiện tăng 78,2% (918 triệu USD). Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 11,6 tỷ USD, giảm 0,18% (21 triệu USD). Thị trường EU ước tính đạt 9,2 tỷ USD, tăng 4,2% (373 triệu USD). Hoa Kỳ đạt 5,1 tỷ USD, tăng 6,1% (296 triệu USD).
- Thứ hai, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Bảng 1: Số liệu thu ngân sách và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2011 – 2013
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Tổng thu ngân sách nhà nước 674.500 741.500 790.800
Tổngthu từ hoạt động xuất nhập k
khẩu 155.765 223.900 237.500
Tỉ trọng từ hoạt động xuất nhập
khẩu so với tổng thu ngân sách
nhà nước (%) 23,09 30,19 30,03
Từ bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỉ trọng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu so với tổng thu ngân sách luôn đạt tỉ trọng khá cao, cụ thể năm 2013 là 30,03 %. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012.Tính từ đầu năm đến hết tháng 12 năm 2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt hơn 132,13 tỷ USD, tăng 16,1% so với nhập khẩu năm 2012, tương ứng tăng 18,35 tỷ USD về số tuyệt đối.
Biều đồ 1: Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong 12 tháng/2013 và 12 tháng/2012
- Thứ ba: Bảo hộ nền sản xuất trong nước
Về tổng thể, năm 2013 là năm chạm đáy khó khăn chung của cả nền kinh tế thế giới. Các dự báo kinh tế của hầu hết các tổ chức và quốc gia vẫn thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm xuống, xu hướng cải thiện nhẹ về tăng trưởng kinh tế sẽ đậm dần ở hầu hết các khu vực, khối và quốc gia. Thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong nước còn chưa đủ mạnh thì chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước có vai trò vô cùng quan trọng.
Ví dụ: Thuế NK thang máy đã bảo hộ cho sản xuất trong nước - Đó là khẳng định của Bộ Tài chính trước kiến nghị ưu tiên sử dụng thang máy trong nước của Công ty cổ phần thang máy Thiên Nam. Doanh nghiệp đề nghị Bộ Tài chính duy trì mức thuế suất nhập khẩu cao nhất có thể.Trả lời Công ty cổ phần thang máy Thiên Nam về mức thuế suất nhập khẩu, Bộ Tài chính cho hay, theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư 193/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính, mặt hàng thang máy nâng hạ theo chiều đứng (bao gồm thang máy kiểu dân dụng, mã số 8428.10.10; thang máy sử dụng trong xây dựng, mã số 8428.10.21; thang máy nâng hạ loại khác, mã số 8428.10.29) được quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 10% bằng cam kết WTO năm 2013. Khung thuế suất do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định là 0-10% .Như vậy, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi MFN của các mặt hàng thang máy nâng hạ đã được quy định mức cao nhất có thể để bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất thang máy trong nước.
Hay nâng thuế nhập khẩu đường để bảo hộ nền sản xuất trong nước.Thông tư số 193/2012/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013 Bộ Tài chính vừa quyết định nâng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với đường thô từ 15% lên 25%; nâng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các loại đường khác từ 15% lên 40%. thuế nhập khẩu là bảo hộ sản xuất trong nước cùng với mục tiêu quan trọng là bảo vệ và khuyến khích ngành sản xuất mía đường trong nước phát triển, khuyến khích việc tiêu dùng đường sản xuất trong nước và góp phần cân đối cung cầu của mặt hàng đường.
2, Những tồn tại, hạn chế
Quá trình áp dụng Luật TXK, TNK năm 2005 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Tạo kẽ hở cho các nhà nhập khẩu trốn thuế, làm thất thu ngân sách nhà nước. Lợi dụng tình hình kinh tế khó khăn, không ít DN sử dụng nhiều “mánh” để gian lận thuế. Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, năm 2013, hàng loạt vụ việc trốn thuế, lách thuế bị phát giác với những con số cực kỳ lớn, gắn với những danh hiệu đình đám thậm chí rất nhiều án trốn thuế thuế khủng lại do chính những DN nghiệp lớn, luôn tự hào về thành công kinh doanh thực hiện. hàng chục những tên tuổi khác cũng bị cơ quan thuế bắt lỗi với mức trung bình cũng vài tỷ đồng mỗi đơn vị, như công ty cổ phần Sông Đà, Cao su Sao Vàng, nước giải khát Chương Dương…
Không chỉ giới DN tư nhân, đến cả những DNNN kinh doanh hàng thiết yếu nhất cũng vướng vào án “trốn thuế”. Đó là ngành xăng dầu với con số 470 tỷ đồng thuế nhập khẩu mà Kiểm toán Nhà nước vừa phát hiện.Vụ việc thực tế đã gây ồn ào từ tháng 4 năm nay.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng không thoát tai tiếng về nộp thuế. Số thuế bị phát giác khai thiếu không lớn, chỉ hơn 1 tỷ đồng tiền thuế nhập khẩu điện.Lỗi chính bắt nguồn từ việc, EVN đã không báo trước cho hải quan việc tính sản lượng điện mua của Trung Quốc hồi năm 2007 chỉ là tạm thời.
Có 7 doanh nghiệp cùng các sản phẩm sữa có giá khai báo thấp so với cơ sở dữ liệu giá. Các sản phẩm này đã bị Hải quan điều chỉnh tăng giá áp thuế nhập khẩu với mức điều chỉnh từ 2- 65%. Tháng 9 năm 2013, Tổng cục Hải quan vừa chính thức công bố với các cơ quan truyền thống danh sách một số doanh nghiệp nhập khẩu sữa bị nghi ngờ khai thấp giá nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu. Và mặt hàng sữa cũng là mặt hàng được Tổng cục Hải quan đưa vào danh sách có nguy cơ cao hay những mặt hàng cần được kiểm tra chặt chẽ về giá do doanh nghiệp tự kê khai để tránh nguy cơ trốn thuế.
Để tìm ra căn nguyên của những tình trạng trên, về cả những mặt làm được và chưa làm được, sau đây e sẽ làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu năm 2013.
III, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU TRONG NĂM 2013
Trong điều kiện nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế quốc tế, pháp luật thuế nhập khẩu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, sau đây, em xin đi sâu phân tích những yếu tố cơ bản nhất:
1, Yếu tố tích cực
Thứ nhất,trên tinh thần hội nhập và hoàn thiện các quy định của pháp luật, Luật TXK, TNK 2005 tỏ ra minh bạch và hiệu quả hơn những luật thuế trước đây. Luật đã có những quy định phù hợp với Luật Hải quan như các quy định về trị giá hải quan, kiểm tra hải quan.Luật quy định mở rộng hơn về đối tượng không chịu thuế và miễn thuế, phát huy tinh thần tích cực và chủ động của các chủ thể nộp thuế, tạo môi trường bình đẳng cho hàng hóa nhập khẩu vào nước ta… Có một hệ thống pháp luật và chúng phù hợp với thực tế là cơ sở để thực thi tốt pháp luật thuế xuất khẩu. Năm 2013, nhiều văn bản về thủ tục hải quan và quản lý thuế đã được ban hành mới, thay thế hoặc sửa đổi bổ sung văn bản cũ nhằm tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa Hải quan. Ngày 28-10-2013, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Hải quan (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII. Dự án Luật Hải quan (sửa đổi) được đánh giá là dự án Luật quan trọng, có các quy định tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế trong nước và quá trình hội nhập quốc tế. Luật Hải quan (sửa đổi) sẽ thay đổi toàn diện hoạt động hải quan.Dự kiến Luật Hải quan (sửa đổi) sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII và có hiệu lực từ ngày 1-1-2015.Có một hệ thống pháp luật và chúng phù hợp với thực tế là cơ sở để thực thi tốt pháp luật thuế xuất khẩu.
Thứ hai, tiếp tục mở cửa thị trường theo cam kết trong ASEAN, WTO: Trong năm 2013, một số cam kết về mở cửa thị trường, giảm thuế nhập khẩu theo cam kết trong ASEAN và WTO tiếp tục được thực hiện. Do đó, hàng hóa nước ngoài được đưa vào thị trường Việt Nam nhiều hơn, làm tăng lượng cung ứng hàng hóa trên thị trường và có thể khiến giá cả hàng hóa, đặc biệt là giá hàng tiêu dùng sẽ giảm xuống. Việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường là một yếu tố làm giảm đáng kể lạm phát trong năm 2013.
Thứ ba, các giải pháp tăng thu đã đem lại nhiều hiệu quả: Theo Cục Thuế xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải quan, số thu TXK TNK của ngành Hải quan tăng mạnh trong tháng 7/2013 có nguyên nhân từ việc áp dụng Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung (có hiệu lực từ 1/7/2013), cho phép thu ngay các khoản ân hạn thuế của các tờ khai XNK trong tháng 6/2013. Bên cạnh đó, khoản thuế thu từ các tờ khai phát sinh trong tháng 7 cũng tăng khá, do hoạt động XNK của doanh nghiệp có xu hướng hồi phục.Mặc dù nền kinh tế còn nhiều khó khăn, tuy nhiên trong tháng 7/2013, hoạt động XNK, có dấu hiệu hồi phục, giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách của ngành Hải quan ”bớt căng” hơn .
Theo Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan),các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, chống thất thu ngân sách của ngành Hải quan triển khai từ đầu năm đến nay đã và đang phát huy tác dụng, tạo tiền đề thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế.
Cục Thuế XNK cho biết, ngành Hải quan đang tiếp tục triển khai các đoàn công tác đến các tỉnh, thành phố cùng với các đơn vị hải quan nắm bắt tình hình và đánh giá hiệu quả của Luật Quản lý thuế tác động đến nhiệm vụ thu ngân sách. Ngành sẽ tiến hành rà soát, xác định lại chỉ tiêu thu ngân sách giao cho từng địa phương trên cơ sở số thực thu 2012 và theo nguyên tắc những địa phương được giao chỉ tiêu thấp hơn tỷ lệ chung thì trình Bộ Tài chính có văn bản giao chỉ tiêu bổ sung. Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) sẽ rà soát, sửa đổi chính sách liên quan đến quản lý hải quan đối với xăng dầu, xe ngoại giao, tài sản di chuyển; Quản lý hải quan đối với dầu thô nhập khẩu, nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị của hoạt động dầu khí…bảo đảm quản lý, giám sát được việc nhập khẩu dầu thô để thu đúng, đủ các loại thuế. Bên cạnh đó, ngành Hải quan cũng tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Thứ tư, trong 10 sự kiện nổi bật của ngành Hải quan năm 2013, không thể không kể đến những sự kiện là những tín hiệu đáng mừng đối với việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Từ ngày 1-1-2013, thủ tục hải quan điện tử (TTHQĐT) được thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước theo Nghị định 87/2012/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 196/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính. Sự kiện này đánh dấu kết thúc giai đoạn thực hiện thí điểm (theo Quyết định 149/2005/QĐ-TTg năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ) và mở rộng thí điểm (theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ). Sau 1 năm, cả nước có hơn 45.000 DN tham gia, chiếm trên 95% tổng số DN đang thực hiện thủ tục hải quan. Năm 2013, ngành Hải quan triển khai nhiều chuyên đề, kế hoạch trong phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại .
Thứ năm, tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách TNK và nội dung pháp luật thực định về TNK trong giai đoạn đó. Nhìn chung tuy nằm trong khó khăn chung của kinh tế toàn cầu nhưng năm 2013 có nhiều sắc hổng được thể hiện trong báo cáo kinh tế năm 2013, chính trị trong nước khá ổn định. Pháp luật TNK có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích, hỗ trợ và bảo vệ nền sản xuất trong nước.
2, Yếu tố tiêu cực
2.1, Hệ thống văn bản pháp luật tuy đã khá hoàn thiện nhưng còn một số bất cập
- Hệ thống pháp luật còn thiếu sót. Hiện nay, hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng cao, hàng hóa được nhập khẩu vào nước ta từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau với giá cả cạnh tranh. Luât TXK, TNK đã quy định các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới ban hành ba pháp lệnh: Pháp lênh thuế tự vệ năm 2002, Pháp ệnh thuế chống bán phá giá năm 2004 và Pháp lệnh chống trợ cấp năm 2004. Nhưng đến nay, mới chỉ có một nghị định hướng dẫn cho thuế chống bán phá giá. Đối với thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa chưa có một văn bản nào quy định cụ thể mà mới chỉ tồn tại trong Luật TXK, TNK. Với sự thiếu sót ấy đã gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật thuế xuất khẩu.
- Hiện nay, một số quy định trong Luật TXK,TNK không phù hợp với những nội dung mà VN đã cam kết trong đàm phán quốc tế. Để đảm bảo tính minh bạch cho hệ thống luật VN, phải làm rõ một số qui định khác của luật hiện không còn phù hợp với luật thương mại của thế giới Ngoài một số qui định chưa phù hợp của luật hiện hành, còn có những qui định chưa rõ ràng, gây hiểu nhầm cho DN nước ngoài. Ông Stuart P Seidiel, cố vấn pháp luật của Dự án hỗ trợ Thương mại Star - người có 30 năm quản lý trong ngành Hải quan tại Hoa Kỳ cho hay, ông đã nghiên cứu nhiều về Luật thuế XNK, Luật hải quan của VN. Rất khó để tìm kiếm 1 điều khoản qui định nào trong Luật thuế XNK, Luật hải quan của VN để áp dụng được vào trường hợp cụ thể của DN. Điều mà các bạn cần làm ngay là làm rõ tính minh bạch của luật và công khai luật trước công chúng. Tính minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho việc XNK của DN cũng như giúp Nhà nước bảo đảm được nguồn thu ngân sách - ông Stuart P Seidiel nói.
- Một số quy định của Luật còn chưa thông nhất: điểm c khoản 2 điều 10 của luật quy định thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi, điều này dễ gây hiểu nhầm cho những người đọc luật rằng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, chỉ bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170%. Bộ Tài chính có thể quy định một mức thuế suất trong khung lớn từ 100% đến 170% so với thuê suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng, nhưng lại tỏ ra cứng nhắc khi quy định thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo điểm b khoản 3 điều 92 Thông tư 194/2010/tt-btc. Ngoài ra còn có sự mâu thuẫn như điều 70 trong Luật hải quan mâu thuẫn với điều 2 & 10 của Luật TXK, TNK.Sự mâu thuận này gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế.
- Pháp luật chưa có cơ chế nào để kiểm soát việc mang hàng hóa từ nước ngoài về nước của các phi công, tiếp viên hàng không, thủy thủ…do vậy, họ ngang nhiên mang hàng “xách tay” về nước, các hàng hóa này khi được xách tay về nước đã trốn được thuế nhập khẩu, do vậy gây thất thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước.Gần nhất là vào rạng sáng 22.9.2013, trên chuyến bay VN106, một tiếp viên phó của VNA bị lực lượng an ninh sân bay Nội Bài phát hiện mang trái phép 50 chiếc iPhone 5S còn nguyên đai nguyên kiện, khi bay từ Paris (Pháp) về sân bay quốc tế Nội Bài. Người vi phạm là Bùi Ngọc Tuấn (sinh năm 1977), được tuyển dụng vào đoàn tiếp viên VNA từ năm 2005 .
2.2,Đội ngũ cán bộ, công chức hải quan còn yếu về cả số lượng chất lượng, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, công chức: nhân lực ở các đơn vị hải quan còn thiếu và yếu. Do yếu tố lịch sử, phần lớn nguồn cán bộ được biên chế vào ngành trước đây là từ các ngành như công an, quân đội, thuế...chuyển sang, tuy có nhiệt huyết với nghề nhưng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, do biên chế ít và chính sách đãi ngộ chưa hợp lý nên hải quan địa phương rất khó thu hút nhân tài, tuyển dụng được các đối tượng có trình độ cao, giỏi công nghệ thông tin. Điều đó đã tạo nên hiện tượng thừa người hưởng lương, nhưng thiếu những người giỏi. Đơn cử tại Cục Hải quan Hà Nội trong 5 năm qua số biên chế chỉ tăng khỏang 20% so với yêu cầu, trong khi lượng công việc tăng gần chục lần, tại Cục Hải quan Long An, đơn vị quản lý hải quan tại 3 tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, đây là cửa ngõ giao thương khu vực miền Tây và một phần của vùng kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ nhưng chỉ có 107 biên chế, lực lượng cán bộ quá mỏng so với yêu cầu nhiệm vụ nên nhiều bộ phận phải bố trí làm việc kiêm nhiệm. Thiếu số lượng và không đồng đều về chất lượng cán bộ, cơ sở vật chất phục vụ làm việc không tăng đang là bất cập hạn chế hiệu quả hiện đại hóa và cải cách thủ tục hải quan. Tháng 10/2013 VBF đã thực hiện một cuộc khảo sát DN tại Việt Nam để biết tham nhũng ảnh hưởng thế nào đến họ mỗi ngày và nghe những đề xuất cải thiện. Những người tham gia xác định 3 lĩnh vực mà Chính phủ cần ưu tiên chống tham nhũng, xếp đầu tiên là Hải quan với 55,2% tiếp đó là đến thuế 46,2%. Trên thực tế, thời gian qua có hàng trăm cán bộ ngành Hải quan đã bị xử lý vì liên quan đến tham nhũng và hối lộ.
Tháng 6/2013, TAND tỉnh Lào Cai xử các bị cáo Trần Minh Thượng, sinh năm 1964, nguyên Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu Mường Khương 20 năm tù và Nguyễn Văn Cường 12 năm tù về tội "nhận hối lộ" gần 1,5 tỷ đồng của 1 DN, để làm dịch vụ cho một số đơn vị có hàng tạm nhập tái xuất, qua cửa khẩu Mường Khương cả trong và ngoài giờ hành chính .
Ngay cả những vụ nhập ụ nổi do 83M do Dương Chí Dũng nguyên là Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) thực hiện cũng có những vấn đề của nhân viên Hải quan.
Kết luận của Cơ quan điều tra cho thấy, mặc dù biết rõ ụ nổi 83M là tàu biển, có tuổi thọ 43 năm, đã cũ nát, hư hỏng nặng, không hoạt động được, không đủ điều kiện nhập khẩu nhưng một số cán bộ thuộc Chi cục Hải quan Vân Phong không báo cáo lãnh đạo mà vẫn làm thủ tục đề nghị cho thông quan, nhập khẩu. Nếu cán bộ Hải quan thực hiện đúng có thể Vinalines không nhập khẩu được ụ nổi và không gây thiệt hại hơn 335 tỷ đồng.
Thứ hai, cơ sở vật chất:nhìn chung các đơn vị hải quan cơ sở đã được đầu tư theo chiều rộng nếu tính đến các số liệu như số máy tính trên tỷ lệ cán bộ, số lượng phần mềm quản lý, đầu mối đơn vị kết nối mạng Internet…Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của sự đầu tư này chưa cao, thậm chí còn dàn trải, gây lãng phí. Qua thực tế các đơn vị hải quan ở vùng xa, vùng biên giới như Móng Cái (Quảng Ninh), Cha Lo (Quảng Bình), La Lay (Quảng Trị) và Cầu Treo ( Hà Tĩnh)…chất lượng đường truyền dữ liệu chưa được tốt, công tác truyền, nhận thông tin nội bộ đến các đơn vị hải quan cửa khẩu này cũng hay gặp lỗi, thường xuyên trục trặc. Cùng với đó là nhà làm việc, trang thiết bị ở hải quan cơ sở phần lớn được xây dựng từ trước, có chỗ, có nơi không phù hợp với trang bị hiện đại hóa.không thể phủ nhận cơ cở vật chất của ngành hải quan đang ngày càng được hoàn thiện, nhưng còn nhiều thiếu thốn là yếu tố trở ngại đến việc đảm bảo thực thi pháp luật.Các doanh nghiệp cũng như cán bộ hải quan vẫn đang gặp nhiều khó khăn do đường truyền hải quan điện tử bị nghẽn, việc đưa container qua máy soi,…công tác bắt hàng lậu trên biển, các đối tượng dùng xuồng có công suất lớn nên cán bộ hải quan khó tiếp cận được…
2.3, Ý thức của chủ thể nộp thuế nhìn chung còn chưa tốt
Chủ thể nộp thuế nhập khẩu cũng như các chủ thể nộp thuế khác, rất ít khi họ tự nguyện nộp thuế mà họ dựa vào các quy định của pháp luật để tìm ra mọi cách để trốn thuế, giảm số thuế phải nộp.Trong năm 2013, những thủ đoạn đó là một trong những yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu.
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian lận về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận.
Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng trong năm 2013 và có diễn biến phức tạp với các phương thức, thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất cập trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng... Trong đó, phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc nợ thuế để trốn thuế. Cụ thể như sau:
Một là, buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm, không khai báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Thời gian qua, việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp.Sau khi nhập lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua qua bán lại giữa các DN.
Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không phải nộp thuế.
Điển hình năm 2013, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án đối với Công ty CP Thực phẩm Sài Gòn, khai xuất khẩu 3.000 thùng thuốc lá, trị giá hàng hóa 23,6 tỷ đồng, nhưng kết quả hàng hóa qua kiểm tra thực tế là 20 tấn gạo. Đây là hoạt động buôn lậu, chiếm đoạt tiền thuế có tổ chức và diễn ra trong thời gian dài.
Hai là, khai sai chủng loại hàng hoá
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi nguồn lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi trong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế hàng hóa khi có nghi vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại, khai báo và áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Thực tế thời gian qua, nhiều chủ hàng đã lợi dụng các vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số hàng hóa.Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%. Các hành vi thường gặp là:
Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp.Tháng 5/2013, Cục Hải quan Hải Phòng đã phát hiện Công ty CP Minh Châu khai sai tên chủng loại, nhãn hiệu mặt hàng xe đạp điện, giá nhập về chỉ 60 USD/chiếc. Cơ quan hải quan đã yêu cầu DN phải điều chỉnh giá xe đạp điện lên gấp 3 lần (khoảng 150 USD/chiếc) và nộp bổ sung hơn 2 tỷ đồng tiền thuế .
Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện.
Ba là, khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận về ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
Bốn là, gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế là hành vi rất phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng thực hiện dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao. Vụ gian lận giá hàng hóa điển hình bị Chi cục hải quan Cảng Sài Gòn KV 4 (TP. Hồ Chí Minh) phát hiện gần đây là lô hàng mang nhãn hiệu Pierre Cardin do Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại Hoa Mặt Trời (trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh) NK vào tháng 5/2013. Theo khai báo của DN, hàng hóa gồm váy, quần lót, áo ngực… có giá nhập về chỉ từ 6.000 - 16.000 đồng/chiếc. Trong khi đó, các sản phẩm này được bán trong các cửa hàng thời trang, trung tâm thương mại lớn, như: Vincom, Parkson với giá khoảng 300.000 - 400.000 đồng/chiếc, tức là gấp 25 lần giá kê khai của DN.
Tương tự, khi làm thủ tục mở tờ khai hải quan, Công ty Tiến Thành khai báo những đôi giầy da hiệu Valentino có xuất xứ từ Trung Quốc, giá trị rất bèo, chỉ từ 16.000 - 300.000 đồng/đôi.Thực tế, giá thị trường của loại giầy này vào khoảng 3 - 5 triệu đồng/đôi, cao gấp chục lần giá khai báo. Với giá trị lô hàng giầy Valentino là 1,8 tỷ đồng, nếu làm thủ tục trót lọt thì DN đã "né" được khoản tiền thuế vài trăm triệu đồng.
Thứ hai, chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế, sau đó khai báo thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã nhập khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy định về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn so với trị giá giao dịch thực tế. thời điểm cuối năm 2013 những tín đồ thời trang sẽ không khỏi giật mình khi biết đôi giày hiệu Valentino trị giá vài triệu đồng lại có giá nhập khẩu (NK) rất bèo bọt: chỉ từ 16.000 - 300.000 đồng. Bằng chiêu khai gian giảm giá trị hàng, nhiều doanh nghiệp (DN) NK quần áo, giầy dép, xe đạp, sắt thép... đã trốn hàng tỷ đồng tiền thuế.
Thứ ba, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để thăm dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, chủ hàng đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.
Thứ tư, do theo chính sách thuế đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc nên DN thực hiện việc “down” giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Điều này được thực hiện qua việc chủ hàng thành lập nhiều công ty khác nhau hoặc tiến hành móc nối với nhiều công ty để mỗi công ty tiến hành nhập khẩu một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau trong nhiều thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan.
Thứ năm, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng hoặc các khoản thanh toán gián tiếp để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ sáu, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…
Năm là, giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế
Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận thuế thường là các chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến là gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách quản lý đối với hàng gia công; gian lận thông qua việc lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập... Điển hình nhất là vụ buôn lậu xăng A92 lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất, trị giá ước tính 27 tỷ đồng tại vùng biển Thanh Hoá; hành vi buôn lậu của Công ty TNHH một thành viên xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) dưới hình thức lợi dụng tạm nhập tái xuất xăng dầu qua cửa khẩu đường bộ để buôn lậu 296,6 tấn xăng A92, trị giá khoảng 8 tỷ đồng, số thuế DN gian lận ước tính 2,5 tỷ đồng.
Cũng theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500 ôtô nhập vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng đến nay chỉ có 100 chiếc làm thủ tục xuất và nhập trở lại. Nghĩa là còn 400 chiếc không làm thủ tục xuất và nhập trở lại mà lưu hành trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho Nhà nước.
Ngoài ra, nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để gian lận thuế; lợi dụng chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó tẩu tán bán hàng và bỏ trốn khỏi trụ sở kinh doanh mà không làm thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế...
Sáu là, lợi dụng Hải quan điện tử để trốn thuế
Theo Tổng cục Hải quan, trong năm 2013 lợi dụng hình thức khai báo thủ tục hải quan điện tử, xuất hiện một số doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn tinh vi, giả mạo chứng từ hồ sơ hải quan bao gồm hợp đồng, giấy phép chuyên ngành, con dấu, chữ ký công chức hải quan… bằng cách chỉnh sửa (theo hình thức scan) các nội dung này trong quá trình chuyển đổi chứng từ, từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử. Có trường hợp doanh nghiệp lấy vận đơn, invoice, packing list gốc đem photo che phần ghi hàng hóa thực sau đó dùng thủ đoạn bắn tên hàng không thuế vào và scan lại, đóng dấu sao y để nộp hồ sơ giấy cho hải quan có nội dung khớp với phần khai hải quan điện tử .
III, Ý KIÊN PHÁP LÝ NHẰM THỰC THI TỐT PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
Để đảm bảo cho việc thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu trong thời gian tới, trên cơ sở những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế nhập khẩu như em đã phân tích ở trên trong năm 2013, theo em chúng ta cần thực hiện tốt những công việc sau:
1, Hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu
Trên cơ sở những cam kết, hiệp định mà chúng ta đã tham gia, các nhà làm luật cần xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, phù hợp với pháp luật quốc tế và có tính khả thi.
Một là, việc gia nhập WTO và các cam kết của AFTA đang buộc chúng ta cắt giảm hàng rào thuế quan.Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng mà thực tế phát triển kinh tế đối ngoại trước mắt cũng như lâu dài đặt ra, Luật Hải quan hiện hành phải được sửa đổi để nội luật hóa các điều ước quốc tế về hải quan mà Việt Nam là thành viên như Công ước Kyoto, Hiệp định GMS, Hiệp định về việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN, Hiệp định hợp tác hải quan ASEAN và góp phần cơ sở pháp lý để tham gia đàm phán các Hiệp định…Việc xây dựng, hoàn thiện quy định, văn bản hướng dẫn các loại thuế nhập khẩu bổ sụng để điều tiết kinh doanh, bảo hộ nền kinh tế trong nước như thuế tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa là rất cần thiết. Mặc dù đã có quy định nhưng trên thực tế tính khả thi của chúng là rất thấp.
Hai là, cần thay đổi cách diễn đạt về cách quy định thuế suất thuế nhập khẩu đã phân tích ở phần trên cho phù hợp và dễ hiểu, nhằm giúp những người không nghiên cứu sâu về luật có được cách hiểu đúng nhất khi đọc văn bản luật.Bộ tài chính cần có những quy định cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất là bao nhiêu nhằm khác phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo khung thuế không bị áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường hợp riêng lẻ.
Ba là, Luật chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế là tiêu chí xác định thời hạn nộp thuế. Như vậy vừa phù hợp với Luật Hải quan sửa đổi bổ sung vừa khuyến khích sự chủ động, tự tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Nếu dựa trên tiêu chí là mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn nộp thuế vô hình chung đã đánh đồng những người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật vơi những người không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời tạo những kẽ hở cho những doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi trốn thuế.
Bốn là, đơn giản hoá và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế. Thông qua cải cách các quy trình, thủ tục về kê khai, nộp thuế và quản lý thuế, đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp và cơ quan quản lý thu thuế.
Năm là, Cân sửa đổi, bổ sung pháp luật nhằm tăng cường quản lý, đưa ra những biện pháp chế tài phù hợp nhằm ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm. Chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan có liên quan phối hợp tốt hơn trong hoạt động quản lý hải quan, xây dựng quy chế phối hợp để hoạt động có hiệu quả hơn trong phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và thu hồi nợ thuế.
2, Nâng cao cả về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hải quan cũng như nâng cao chất lượng cơ sở vật chất – kỹ thuật
- Để nâng cao chất lượng đội ngũ hải quan trong thời gian tới cần: Tiếp tục triển khai Kế hoạch cải cách phát triển hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2011-2015 và Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020. Thực hiện tốt công tác tham mưu cho Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan; Phấn đấu không để chậm, tồn đọng công việc; Nâng cao chất lượng đề xuất, tham gia xây dựng văn bản; Cố gắng hoàn thành 100% các đề án, chương trình công tác đã đăng ký. Rà soát, hoàn thiện tổ chức bộ máy, chuẩn bị nguồn nhân lực sẵn sàng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hải quan, thực thiện Dự án VNACCS/VCIS và triển khai Luật Hải quan sửa đổi. Không ngừng trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết công việc; Rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, thực hiện Tuyên ngôn phục vụ khách hàng của ngành Hải quan gắn với việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phấn đấu 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc cơ quan Tổng cục Hải quan thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật hành chính, văn minh, văn hóa công sở theo các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan về tăng cường kỷ cương, kỷ luật khi thi hành công vụ. Nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Hưởng ứng các phong trào thi đua hướng tới chuẩn bị kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan.Chú trọng công tác bồi dưỡng, phát triển, tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến trong toàn Ngành .
- Về nâng cao chất lượng cơ sở vật chất: những đối tượng trốn thuế, buôn lậu,… ngày càng sử dụng những thủ đoạn tinh vi, phương tiện kỹ thuật hiện đại hỗ trợ. Nếu cán bộ hải quan vẫn phải tiến hành kiểm tra theo cách truyền thống, thô sơ thì rất khó phát hiện được hành vi sai phạm và rất khó khăn trong hoạt động chống buôn lậu ở nước ta. Vì thế, việc đầu tư vào các thiết bị kiểm tra, phương tiện truy bắt…là điều kiện thiết yếu để cán bộ hải quan thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu.
3, Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, chỉ đạo chính sách thuế nhập khẩu cho người dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật về thuế nhập khẩu để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật thuế nhập khẩu, từ đó phần nào đảm bảo cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu được tiến hành dễ dàng, hiệu quả hơn. Kèm theo đó, pháp luật cần quy định các chế tài đủ mạnh đối với các hành vi trốn thuế, gian lận thuế...để răn đe, buộc họ phải chấp hành các quy định của pháp luật nghiêm chỉnh hơn.
C, KẾT LUẬN
Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu năm 2013 chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau, từ sự ảnh hưởng của các yếu tố khác quan như tình hình kinh tế xá hội trong nước cũng như nhiều quốc gia khác, sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của quốc gia cho đến việc xây dựng, ban hành một hệ thống pháp luật đáp ứng đòi hỏi thực tế, năng lực của đội ngũ cán bộ thu thuế... Điều này phụ thuốc vào các nhà làm luật, trình độ lập pháp cũng như những cam kết quốc tế mà nước ta tham gia kí kết.Yêu cầu đặt ra trong những năm tới là phải tìm ra những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực để từ đó tìm ra giải pháp khác phục kịp thời, có như thế mới có thể đưa pháp luật thuế nhập khẩu vào thực tiễn đạt được hiệu quả cao.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an Nhân dân, năm 2012
2, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu năm 2005
3, Luật Hải quan ( sửa đổi bổ sung 2005)
4, Nghị định số 87/2010/NĐ – CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005
5, Thông tư 194/2010/TT – BTC Hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng loạt hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
6, Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề cần hoàn thiện: Khóa luận tốt nghiệp,Trịnh Đức Hiếu; Người hướng dẫn: TS. Vũ Văn Cương, năm 2008.
7, Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong mối tương quan với các cam kết vào WTO: Khóa luận tốt nghiệp,Nguyễn Thị Thu Huyền; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Kiều Giang, năm 2009.
No comments:
Post a Comment