29/01/2015
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại - Bài tập học kỳ Luật Thương mại 2 - 9 điểm
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là trong khi số vụ tranh chấp được giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại còn rất khiêm tốn thì hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng số lượng vụ án tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) đã ra đời và có nhiều quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại, khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Để đi sâu vào phân tích vấn đề trên, trong bài tập lớn học kỳ, em xin lựa chọn đề bài: “Phân tích 3 (ba) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó”.

NỘI DUNG

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN

1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại

1.1. Khái niệm trọng tài thương mại

Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc Ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Theo khoản 1 Điều 3 Luật TTTM 2010 thì: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này". 

1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại

Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo pháp luật và quy chế về trọng tài thương mại. Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động của cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất... 

Thứ hai, trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trước tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Một trong những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý chí thỏa thuận của các bên tranh chấp. 

Thứ ba, pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam đều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông qua trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại,…

Thứ tư, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế .

Thứ năm, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết có giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết sẽ được chuyển sang Cơ quan thi hành án.

2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động TTTM

Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó. Ví dụ như: trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài, có trường hợp bị đơn không chọn được trọn tài viên cho mình, hay các bên không chọn được trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp tẩu tán tài sản, làm thất thoát khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia thì trọn tài cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi đó,... Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án cho hoạt động của trọng tài để khắc phục những điểm yếu và phát huy những điểm mạnh của trọng tài. Có như vậy mới đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài được thông suốt và hiệu quả.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam:

Các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày một nhiều hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu khác nhau của chủ thể kinh doanh. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại đã có lịch sử tồn tại khá lâu dài, tuy nhiên chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản là do thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng. Thực tiễn này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan Tòa án nói riêng phải có sự hỗ trợ nhất định đối với trọng tài. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, đồng thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các đương sự.

Thứ ba, xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế:

Cùng với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được đưa đến Tòa kinh tế ngày càng nhiều, đã tạo ra tình trạng "quá tải", án tồn đọng tại các Tòa kinh tế, đặc biệt là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng tài: Nhà nước nói chung và các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài. 

Như vậy mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của TTTM là một sự tiếp sức cho TTTM, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịnh thương mại.  

II. SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THÔNG QUA BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại được thể hiện thông qua các quy định của Luật TTTM 2010. Luật đã đưa ra hàng loạt các quy định thể hiện rõ nét sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại. Đó là:

1. Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên

Trong tố tụng trọng tài, việc thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn thành lập Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài viên tùy theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên (Điều 39 Luật TTTM). 

Tuy nhiên, đối với việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, nếu bị đơn hoặc các bị đơn không chọn được trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên không bầu được một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài, hoặc các bên không chọn được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có trụ sở theo yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định Trọng tài viên, chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài trong các trường hợp trên (Điều 41 Luật TTTM).

Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM có quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy đối với trường hợp cần phải thay đổi Trọng tài viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết), nếu các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp) có thể hỗ trợ việc quyết định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.

Trong khi đó, Pháp lệnh TTTM 2003 quy định chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết là nguyên đơn, điều này đã hạn chế quyền của các Trọng tài viên và bên bị đơn trong việc yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên. Nói cách khác, theo Pháp lệnh TTTM 2003, nếu không có yêu cầu của nguyên đơn thì không phát sinh thẩm quyền của Tòa án trong việc thay đổi Trọng tài viên. Có thể thấy, Luật TTTM 2010 đã khắc phục được hạn chế này của Pháp lệnh TTTM 2003, điều này đảm bảo sự công bằng và quyền lợi chính đáng của các bên tranh chấp.

Bên cạnh đó, Luật TTTM 2010 còn có quy định tại khoản 4 Điều 43 đối với trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa án cũng có thể hỗ trợ trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

Như vậy, các quy định trên của Luật TTTM đã tránh được các bế tắc trong tố tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết. Bởi vì, vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án không thụ lý giải quyết. Việc không thành lập được Hội đồng trọng tài hoặc không chọn được Trọng tài viên duy nhất gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp. Vì thế, quyền lợi của các bên tranh chấp khó được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Do đó, sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên là việc hết sức cần thiết. Sự can thiệp của quyền lực nhà nước vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đã làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên tranh chấp giao phó, giúp các bên tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn đã phát sinh.

2. Quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Có các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, mức độ tranh chấp gay gắt… chúng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đương sự. Do đó, trong quá trình HĐTT giải quyết vụ tranh chấp, nếu cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy định tại Điều 48 LTTTM 2010 “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Theo đó, HĐTT hoặc Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu, tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên.

Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của HĐTT được quy định tại Khoản 2 Điều 49 LTTTM, còn các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 53 LTTTM: “Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền. 

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 LTTTM 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của TTTM, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện. 

Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật TTTM có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu HĐTT đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì HĐTT phải từ chối. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của HĐTT. 

Như vậy ta có thể LTTTM đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa HĐTT và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà HĐTT tuy cũng có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không có được do không nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của HĐTT. 

Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi có biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Đây là một quy định tiến bộ hơn so với Pháp lệnh TTTM 2003. Pháp lệnh TTTM có quy định hạn hẹp là: chỉ Tòa án nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ: khi các bên kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áo dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác thì việc yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn không khả thi và hợp lý.

Một điểm khác biệt của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM 2003 là việc Luật quy định Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để các bên duy trì, khôi phục hiện trạng tranh chấp, tiến hành các biện pháp bảo quản tài sản cần thiết đảm bảo cho việc thi hành phán quyết, bảo quản chứng cứ liên quan hay bảo quản tài sản liên quan đến tranh chấp. Quy định này cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đã thực sự được mở rộng gần với thẩm quyền của Tòa án. Quy định như vậy là hợp lý vì Hội đồng trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp, hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ nhất nội dung vụ việc, cũng như mức độ, tính cần thiết của các biện pháp cần áp dụng Tuy nhiên, vì Hội đồng trọng tài không phải là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước mà là do các bên tranh chấp trao cho trên cơ sở pháp luật; hơn nữa việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên bị áp dụng, nên khi ra quyết định, Hội đồng trọng tài phải rất thận trọng. 

Như vậy có thể khẳng định, việc Luật TTTM 2010 quy định có sự tham gia của Tòa án trong việc hỗ trợ trọng tài thương mại áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.

3. Quy định về hủy phán quyết của trọng tài

Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là các quy định về hủy quyết định trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy tiện. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 1 Điều 44 Luật TTTM 2010 đã quy định: bên không đồng ý với quyết định trọng tài "có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài".

Khoản 1 Điều 68 LTTTM 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. 

Quá trình giải quyết tranh chấp không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia LTTTM 2010 quy định, bên không đồng ý với quyết định trọng tài có quyền làm đơn gửi Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Như vậy, Tòa án với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định trọng tài. 

Khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án không xét xử lại mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài quy định tại Khoản 2 Điều 68 LTTTM 2010:

 - Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

 - Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

 - Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó bị huỷ;

 - Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;


 - Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết của trọng tài. Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Ngoài ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt động hủy quyết định của trọng tài, với chức năng giám sát hoạt động của Tòa án. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành (Khoản 10 Điều 71). 

Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án huỷ phán quyết trọng tài của các bên tranh chấp chỉ phát sinh nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh HĐTT đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy. Khoản 1 Điều 69 LTTTM 2010 quy định “...nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo khoản 2 Điều 68 Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài”. Ở đây có sự khác biệt so với Pháp lệnh TTTM 2003. Theo Pháp lệnh TTTM 2003, một bên có quyền gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”. Việc “không đồng ý” dựa trên nguyên nhân nào thì pháp luật lại không truy xét đến, do đó không thể tránh được tình trạng các bên yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, kể cả việc kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản... Điều này không những làm hạn chế hiệu quả, mục đích thực sự của quy định này mà còn làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Pháp lệnh lại làm ưu điểm này có thể mấy đi. Quy định của LTTTM 2010 đã khắc phục được những hạn chế này của Pháp lệnh TTTM 2003, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của Trọng tài viên...Sự quy định chặt chẽ về việc bên yêu cầu phải có căn cứ chứng minh việc phán quyết của HĐTT là sai giúp cho các bên phải tự chịu trách nhiệm với yêu cầu của chính mình, khi mà các bên có nhu cầu gửi đơn đến tòa án để yêu cầu Tòa hủy phán quyết của trọng tài, họ sẽ phải tìm hiểu và đối chiếu các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài, điều này sẽ tránh được tình trạng bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyết của trọng tài đưa ra yêu cầu huỷ quyết định trọng tài để kéo dài thời gian, tẩu tán tài sản hoặc hi vọng toà án sẽ xử lại và không bắt thi hành nghĩa vụ... 

Bên cạnh đó, LTTTM 2010 cũng có quy định giúp cho HĐTT có thời gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài “Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng” (Khoản 7 Điều 71). Trong trường hợp HĐTT không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Toà án tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Khi giải quyết Toà án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Toà án không phải là cấp xét xử thứ hai của trọng tài. Toà án không có thẩm quyền kết luận đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra quyết định huỷ bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo Khoản 8 Điều 71 LTTTM, trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ bỏ những thoả thuận các bên có được trong khi áp dụng phương thức trọng tài không còn, như vậy tranh chấp sẽ lại chưa được giải quyết, khi đó các bên lại tiến hành thoả thuận giải quyết tranh chấp lại từ đầu; còn nếu Toà án không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.

Việc pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết của trọng tài khi các bên yêu cầu có tác động rất lớn, qua đó khắc phục được những sai phạm nếu có của HĐTT khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ giải quyết tranh chấp thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu quyết định của HĐTT đã tuyên không thuộc một trong các trường hợp bị hủy thì một lần nữa khẳng định rằng HĐTT đã thực hiện việc giải quyết tranh chấp một cách công bằngm đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và phán quyết đó cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành. 

Như vậy, qua sự phân tích trên ta thấy, việc có sự hỗ trợ của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài đối với những phán quyết vi phạm pháp luật của trọng tài thương mại giúp cho các nhà kinh doanh yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, vì khi trọng tài có sự vi phạm pháp luật, Tòa án sẽ đứng ra giúp đỡ họ. Quy định này góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của Trọng tài viên, khiến cho Trọng tài viên phải khách quan, vô tư khi giải quyết tranh chấp.

III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

Thực tiễn áp dụng ba quy định trên của Luật TTTM trong gần ba năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ hơn so với các văn bản pháp luật trước đó, đặc biệt là so với Pháp lệnh TTTM 2003, nhưng một số quy định của Luật này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Đặc biệt, một trong những bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt Nam là cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong ba quy định như đã phân tích ở trên vẫn chưa thực sự hiệu quả, cụ thể như sau:

1. Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên

Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay đổi Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM, các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài từ chối giải quyết tranh chấp hoặc các bên tranh chấp là những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên (là 15 ngày, kể từ ngày có đơn yêu cầu) mà không có quy định về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này, đôi khi làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có quyền yêu cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có thẩm quyền trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có Trọng tài viên thay thế.

Theo ý kiến cá nhân em, nên quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình (khoản 2 Điều 42 Luật này). Các bên chỉ có quyền gửi yêu cầu thay đổi trọng tài viên trong thời hạn cho phép. Hết thời hạn theo quy định mà các bên không đưa ra yêu cầu thay đổi trọng tài viên thì họ sẽ mất quyền yêu cầu. Điều này vừa khiến quá trình tố tụng được đảm bảo lại vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên. Họ phải theo dõi sát sao quá trình thành lập Hội đồng trọng tài cũng như trong suốt quá trình xét xử để đảm bảo cho quyền lợi của mình. Bởi trong thực tế nhiều khi một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức trọng tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài theo ý chí của mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị đơn) không muốn tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó họ không đáp lại yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau đó họ lại tìm cách trì hoãn tố tụng bẳng cách yêu cầu thay đổi trọng tài viên. Quy định cụ thể về thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền sẽ hạn chế được tình trạng này.

2. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

LTTTM 2010 của Việt Nam quy định rất uyển chuyển, cũng như rất thận trọng rằng khi cho các bên có thể lựa chọn Tòa án hoặc HĐTT để yêu cầu thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc quy định rất rõ ràng vụ thể việc bên nào sẽ có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không chồng chéo lẫn nhau mà vẫn đảm bảo tính "kịp thời" là một thiết kế rất khôn khéo, được thiết kế uyển chuyển và hợp lý, phù hợp với tình hình hiện nay ở Việt Nam. Điều này không chỉ thể hiện khả năng lập pháp của nước ta đã được tăng lên mà còn góp phần làm tăng niềm tin của các doanh nghiệp vào việc lựa chọn hình thức trọng tài.

Tuy nhiên điều luật này khi đi vào đời sống vẫn còn gặp nhiều ý kiến cũng như vấn đề trái chiều khác nhau.

Luật cũng đã cho phép các bên yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tất nhiên sẽ có những trường hợp thì Tòa án tích cực hợp tác, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu nhưng cũng sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho HĐTT với lí do bản thân HĐTT cũng có quyền ra quyết định thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hoặc ngược lại, cũng lại có trường hợp các bên Toà án và HĐTT "tranh nhau" ra quyết định thực hiện với yêu cầu của 2 bên đương sự, khi mà theo như sự quy định của pháp luật thì bên nào nhận việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước thì bên đó sẽ thực hiện, bên kia không có quyền thực hiện nữa để tránh chồng chéo, trên thực tế trong một số trường hợp, có thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại trung tâm trọng tài và yêu cầu Tòa án ra các lệnh Tòa cho áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Điều 53 LTTTM 2010, bởi như thế người yêu cầu sẽ có một vài lợi thế (không phải mất thời gian chờ thành lập HĐTT, Tòa án và hệ thống thi hành giúp việc thực thi biện pháp liên thông hơn…), mà lợi thế của bên này lại là rào cản của bên kia, nên khó tránh tình trạng mỗi bên yêu cầu 1 cơ quan giải quyết, gây ra tình trạng "tranh nhau" thực hiện dù có thể không thực sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Ngoài ra, tuy rằng HĐTT cũng được giao quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng trên thực tế việc thực hiện hơi khó. Mặc dù HĐTT có quyền yêu cầu bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như bảo toàn chứng cứ, bảo quản tài sản...Tuy nhiên trên thực tiễn đời sống quy định này lại phụ thuộc vào thiện chí các bên khi mà HĐTT không có quyền lực cưỡng chế thi hành, thực tế thì ít có chuyện các bên tranh chấp "hiền lành", nghe răm rắp yêu cầu của trọng tài. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nặng tính cưỡng chế nên cần có các cơ quan chức năng ra tay chứ trọng tài không thể làm được. Một số ý kiến cho rằng theo thông lệ quốc tế thì trọng tài không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thông thường thì trọng tài chỉ ra văn bản yêu cầu áp dụng và gửi sang tòa án để tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà thôi. Do đó còn một số ý kiến phản đối việc cho HĐTT thẩm quyền này.

3. Về quy định hủy phán quyết của trọng tài

Luật sư Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho biết, giai đoạn từ năm 1993 - 2013, trong số các phán quyết trọng tài có 12% bị yêu cầu tòa án hủy bỏ, trong đó, số phán quyết bị hủy là 34%. Trung bình cứ ba đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài thì một phán quyết bị hủy. Xem xét kỹ hơn, luật sư Dương phân tích, trong giai đoạn 1993 - 2010, khi thực hiện Pháp lệnh Trọng tài, tỷ lệ phán quyết bị hủy là 25%, giai đoạn 2011 - 2013 thực hiện theo Luật Trọng tài thương mại thì tỷ lệ hủy lên tới 36%.  

Tuy rằng bên cạnh những trường hợp Toà án huỷ phán quyết của trọng tài hoàn toàn hợp lý đúng pháp luật, nhưng cũng có không ít bất cập xung quanh việc Toà án huỷ quyết định của trọng tài: áp dụng luật sai, bừa bãi, áp dụng luật thiếu thống nhất, lý do huỷ quyết định trọng tài không hợp lý, tuỳ tiện...Chẳng hạn như việc áp dụng pháp luật có sự khác nhau về cùng một vấn đề giữa hội đồng xét đơn trong cùng một Tòa án và giữa các Tòa án. Hoặc trong một trường hợp khác, Toà án lại cho rằng HĐTT sử dụng từ ngữ không đúng, theo đó, HĐTT gửi thông báo mời các bên đến dự phiên họp giải quyết tranh chấp, mặc dù thông báo này nêu rõ thời gian và địa điểm tổ chức phiên họp, được gửi hợp lệ đến các bên tranh chấp nhưng Toà lại tuyên hủy phán quyết trọng tài với lý do thông báo của HĐTT không ghi chữ “triệu tập”, chỉ ghi là “mời” nên các bên có thể đến hoặc không đến. Hoặc cũng có trường hợp áp dụng luật thiếu thống nhất, “mỗi nơi một kiểu”. 

Ngoài ra còn có vấn đề về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam cũng còn những hạn chế như thời gian chậm trễ kéo dài, áp đặt ngược lại nghĩa vụ chứng minh, cơ sở pháp lý để từ chối công nhận đơn yêu cầu không tuân thủ đúng Công ước NewYork và Bộ Luật tố tụng dân sự của Việt Nam. 

Việc ban hành Luật Trọng tài thương mại được xem là tiến bộ, hạn chế tình trạng hủy phán quyết trọng tài của tòa án, nhưng vì sao tỷ lệ hủy này vẫn tăng lên? Nguyên nhân đầu tiên là việc thiếu một Nghị quyết hướng dẫn Luật của Tòa án nhân dân tối cao dù Luật đã có hiệu lực 3 năm. Nguyên nhân này dẫn đến tình trạng xét xử thiếu thống nhất giữa các tòa án, trong khi các Thẩm phán lại có xu hướng áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự khi xem xét đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết.

Điều 68 Luật TTTM đã nêu ra các căn cứ để hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, việc xác định cụ thể các căn cứ trên thực tiễn khá phức tạp. Đơn cử, Luật quy định phán quyết trọng tài bị hủy nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài (điểm a khoản 2 Điều 68). Nhưng nhiều trường hợp, dù đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nhưng sau đó đương sự lại viện dẫn nhiều lý do để cho rằng, thỏa thuận trọng tài không tồn tại. Như trường hợp ký hợp đồng và thỏa thuận qua trung gian, đến khi có tranh chấp, một bên đương sự cho rằng mình không ký thỏa thuận lựa chọn trọng tài. Bên cạnh đó, các lý do hủy quyết định trọng tài thường ở dạng “trừu tượng”, không rõ ràng cụ thể nên mới xảy ra tình trạng một bên yêu cầu Tòa án can thiệp để làm chậm việc thi hành quyết định trọng tài vì trong khi xem xét hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết này không thể được thi hành (khoản 1, Điều 66 Luật TTTM).

Tình trạng huỷ quyết định trọng tài với những căn cứ không xác đáng đang làm vô hiệu hoá phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và làm giảm uy tín của hệ thống Toà án Việt Nam trong con mắt của các doanh nghiệp nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này làm cho môi trường pháp luật và đầu tư của Việt Nam bị ảnh hưởng. Những hạn chế nêu trên không chỉ làm ảnh hưởng đến lòng tin doanh nghiệp trong nước mà còn cả niềm tin của các nhà thương nhân nước ngoài kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam. Việc giải quyết tốt những hạn chế trên sẽ góp phần nâng cao hình ảnh môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Theo em, để khắc phục tình trạng nêu trên Tòa án nhân dân tối cao nên sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn thi hành Luật Trọng tài thương mại, Tòa án nhân dân tối cao có bộ phận theo dõi việc hủy phán quyết trọng tài, các Tòa địa phương có thẩm phán chuyên sâu giải quyết các vấn đề liên quan đến trọng tài... Để đối phó với nguy cơ lạm dụng nêu trên, nên cần có những cơ chế hay chế tài thích hợp, buộc bên “lạm dụng” quyền yêu cầu tòa án bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc lạm dụng này ví dụ như có thể buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm thi hành phán quyết nếu họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Cần có sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao để phổ biến cho thẩm phán, doanh nghiệp, thống nhất nhận thức giữa các thẩm phán, giữa thẩm phán và trọng tài…     

Trên đây là một số thực tiễn và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện ba trong số những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Bên cạnh đó, để nâng cao sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại không chỉ với ba quy định trên mà là với tất cả các quy định còn lại trong Luật TTTM 2010, cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: phải đảm bảo tính độc lập của trọng tài thương mại và Tòa án trong giải quyết tranh chấp; phát huy những ưu điểm, thành công, sửa đổi, bổ sung những nhược điểm, bất cập của các quy định hiện hành; tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, của Trọng tài viên, Thẩm phán, của các đương sự có tranh chấp; tham khảo kinh nghiệm Tòa án hỗ trợ trọng tài thương mại của các nước khác trên thế giới. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài nói chung và Luật TTTM 2010 nói riêng trong cộng đồng các doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan. Đặc biệt, giới luật gia, luật sư cũng nên nghiên cứu kỹ và tư vấn cho doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp có tranh chấp liên quan đến cơ quan tài phán, để hoạt động hỗ trợ của Tòa án với trọng tài thương mại được hiệu quả hơn.

KẾT LUẬN

Có thể nói, việc LTTTM 2010 quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của TTTM đã góp phần hạn chế được những nhược điểm của TTTM, giúp hoạt động của TTTM được thực hiện nhanh chóng hơn, các phán quyết của TTTM được thực hiện chính xác, hạn chế được các trường hợp oan sai, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Tuy rằng còn một số hạn chế thiếu sót nhất định trong thực thi cũng như trong quy định của pháp luật còn cần phải hoàn thiện hơn, nhưng nhìn chung, với các quy định nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM, LTTTM 2010 đã góp phần làm cho hoạt động TTTM hiệu quả hơn, thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án. 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
2. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. Giáo dục, 2008;
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (thuật ngữ luật kinh tế), Nxb. CAND, Hà Nội, 2000;
4. Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2007;
5. Vũ Thanh Minh, Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp 2008;
6. ThS. Bạch Thị Lệ Thoa,  Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án,Tạp chí nghiên cứu lập pháp;
7. Trung tâm thương mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2003.
8. Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005.
9. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
10. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
11. Một số trang web: 
     http://toaan.gov.vn/ 
     http://www.viac.org.vn.

No comments:

Post a Comment