01/02/2015
Thực tiễn ủy thác tư pháp quốc tế tại Việt Nam - Bài tập tư pháp quốc tế
Thực tiễn tư pháp Việt Nam trong thời gian qua cho thấy số lượng các ủy thác quốc tế ngày càng tăng, có cả loại ủy thác theo điều ước quốc tế (Hiệp định tương trợ tư pháp) và có loại ủy thác ngoài các điều ước quốc tế (giữa Việt Nam và các nước chưa có hiệp định tương trợ tư pháp). Theo quy định của các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với nước ngòai thì ủy thác tư pháp quốc tế là phương tiện để các nước ký kết thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân – gia đình và hình sự. Các ủy thác tư pháp theo hiệp định phải được lập thành văn bản.

1. Nguyên tắc và điều kiện thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế tại Việt Nam:

Các nguyên tắc tương trợ tư pháp theo pháp luật Việt Nam:

- Tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

- Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.

Cách thức thực hiện ủy thác tư pháp: Khi thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng của nước ký kết yêu cầu, nếu những quy phạm pháp luật đó không mâu thuẫn.

Nếu không tìm thấy người cần tìm theo địa chỉ đã nêu trong văn bản ủy thác thì cơ quan được yêu cầu áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để xác minh địa chỉ của người đó;

Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu thông báo ngay cho cơ quan yêu cầu về thời gian và địa điểm thực hiện ủy thác;

Để thực hiện ủy thác, cơ quan được yêu cầu lập các giấy tờ tương ứng nói rõ thời gian, địa điểm thực hiện và gửi các giấy tờ đó cho cơ quan yêu cầu.

Nếu cơ quan được yêu cầu không có thẩm quyền thực hiện ủy thác thì cơ quan này chuyển ủy thác đó cho cơ quan có thẩm quyền theo thể thức đã quy định đối với các ủy thác tư pháp quốc tế.

Trong trường hợp chưa có hiệp định liên quan thì các ủy thác tư pháp quốc tế sẽ được thực hiện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam:

Toà án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc thực hiện ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

Tòa án Việt Nam không chấp nhận việt ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài trong các trường hợp sau: Việc thực hiện ủy thác tư pháp không thuộc thẩm quyền hoặc xâm phạm đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện ủy thác tư pháp phải tuân theo thủ tục sau:

Việc tóa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc tòa án nước ngoài ủy thác tư pháp cho tòa án Việt Nam phải được lập thành văn bản và gửi đến cơ quan có thẩm quyền Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt nam kí kết hoặc gia nhập hoặc theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cơ quan có thẩm quyền của VIệt Nam nhận được văn bản ủy thác tư pháp phải chuyển ngay cho Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nhận văn bản ủy thác của Tòa án Việt nam.

2. Những kết quả đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp tại Việt Nam.
- Các quy định về việc thực hiện ủy thác tư pháp chưa mang tính hệ thống, chưa được sự phối hợp của các cơ quan liên quan. Các văn bản luật này chỉ dừng lại là những điều luật khung và chỉ đưa ra các nguyên tắc về ủy thác tư pháp. Vì thế khi giải quyết án, các thẩm phán gặp khó khăn và lúng túng. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc quan trọng của ủy thác tư pháp là nếu Việt Nam và quốc gia tiếp nhận ủy thác tư pháp đã ký hiệp định tương trợ tư pháp thì việc ủy thác tư pháp phải thực hiện theo điều ước đã ký. Nhưng hiện nay, ngành tòa án không cập nhật được danh sách các quốc gia mà Việt Nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự. Đồng thời, tòa cũng không biết về nội dung của những hiệp định tương trợ đó.

- Đã có sự thỏa thuận: các tòa án đã từng trao đổi với Bộ Tư pháp thống nhất về việc ủy thác tư pháp về vụ việc dân sự để có thể giải quyết án nhanh chóng, đúng thời hạn và phù hợp với thực tế.

Với việc ủy thác tư pháp để thu thập tài liệu chứng cứ, đối với những cá nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ ủy thác tư pháp gửi cho tòa án có thẩm quyền của nước tiếp nhận ủy thác thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam. Theo Luật Tương trợ tư pháp, hồ sơ ủy thác gửi cho đương sự ở nước ngoài hai lần. Đến lần hai mà vẫn không có kết quả thì tòa sẽ xử.

Thủ tục ủy thác tư pháp tống đạt bản án hay quyết định thì sau khi gửi đi, nếu tòa không nhận được kết quả và không có kháng cáo hay kháng nghị gì thì bản án hay quyết định sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực pháp luật sau ba tháng kể từ ngày gửi đi.

Thực tế, hầu hết các trường hợp phải ủy thác tòa đều không nhận được kết quả. Tòa không nhận được trả lời của đương sự liên quan, không nhận được hồi âm của Bộ Tư pháp, của đại sứ quán Việt Nam và của tòa án có thẩm quyền của nước ngoài. Do vậy theo thỏa thuận, tòa đã đem ra xử.

Có nhiều vướng mắc ngay từ phía đương sự trong ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Chẳng hạn đương sự chậm cung cấp địa chỉ người ở nước ngoài, không chịu trả chi phí dịch thuật tài liệu ủy thác, lệ phí bưu điện cho việc ủy thác theo luật. Nhiều trường hợp có nhu cầu tự hòa giải thì xin tòa kéo dài thời gian để liên lạc với người cư trú ở nước ngoài nhằm làm giấy ủy quyền cung cấp chứng cứ.

Hi hữu hơn trong quá trình tố tụng, đương sự chết, tòa phải xác minh để đưa những người thừa kế ở nước ngoài vào tham gia vụ án nhưng người trong nước không cung cấp đầy đủ địa chỉ người thừa kế ở nước ngoài nên khó khăn khi làm hồ sơ. Tất cả đều dẫn đến việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản, hoặc xác định tài sản ở nước ngoài của tòa Việt Nam không thực hiện được, làm cho vụ án bị kéo dài...

Ở nước ta từng xảy ra trường hợp án đã xử và tống đạt ra nước ngoài, đến cả năm sau đương sự mới gửi kháng cáo về. Lúc này tòa phải lấy hồ sơ ra để giải quyết tiếp theo thủ tục phúc thẩm.

- Sự chậm chễ xuất phát từ chính các tòa trong nước: Không chỉ do chờ đợi kết quả ủy thác với cơ quan tư pháp nước ngoài mới khiến án quá hạn, ngay giữa các tòa trong nước với nhau cũng vậy. Khi được ủy thác, các tòa đều vui vẻ nhận lời nhưng không tích cực điều tra thu thập chứng cứ ngay mà để đó khiến việc vi phạm thời gian ủy thác là rất lớn.

- Vẫn tồn tại sự tồn đọng các vụ việc cần ủy thác tư pháp: hàng loạt vụ-việc dân sự có yếu tố nước ngoài cần ủy thác tư pháp quốc tế nhưng bị tắc vì chưa có sự thống nhất. Các thẩm phán dân sự không dám xử vì sợ bị hủy án. Lượng án tồn đọng, quá hạn càng lúc càng tăng cao. Nhiều đương sự liên tục khiếu nại nhưng cũng đành chấp nhận vì không còn cách nào khác là chờ.

Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn của TAND Tối cao đã quá cũ, lẻ mẻ và chưa cụ thể. Đến nay TAND Tối cao chỉ có Công văn 130 năm 1991 và Công văn 29, Công văn 517 năm 1993 hướng dẫn giải quyết về các vụ án ly hôn với một bên đương sự ở nước ngoài. Cạnh đó có thêm Nghị quyết 01 của HĐTP (ngày 16-4-2003) TAND Tối cao hướng dẫn giải quyết một số vụ tranh chấp dân sự. Do vậy, cần thêm rất nhiều sự hướng dẫn của TAND Tối cao.

3. Một số giải pháp:
- Thực hiện chuẩn hóa cải cách thủ tục ủy thác tư pháp bằng cách công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ hành chính chuẩn sẽ giảm thời gian, chi phí cho việc dịch tài liệu. Đương nhiên phải tùy vào hoàn cảnh từng nước nhưng tôi nghĩ trước sau chúng ta sẽ phải hòa nhập ở trình độ này.

Ví dụ như Malaysia, ngôn ngữ phổ thông của họ là tiếng mẹ đẻ nhưng các văn bản pháp luật hành chính, thương mại, dân sự, hôn nhân đều chuẩn hóa bằng tiếng Anh hết.

- Thúc đẩy việc tự thu thập của nguyên đơn để tránh tình trạng tòa phải mất hàng năm trời chờ kết quả ủy thác ở nước ngoài (nhiều trường hợp không có kết quả phải đình chỉ vụ án). Việc quy định nguyên đơn phải thu thập địa chỉ, thông tin về cá nhân của bị đơn ở nước đó có thể coi đó như một nghĩa vụ chứng minh bắt buộc trước khi tòa thụ lý vụ kiện.

Thực tế nhiều trường hợp tòa không biết thông tin gì về bị đơn hoặc người liên quan trong vụ án nhưng nguyên đơn thì biết rõ và có thể lấy dễ dàng thì hãy để họ tự lấy rồi nộp cho tòa.

- Các tòa hiện nay gặp khó khăn về ủy thác theo địa chỉ nguyên đơn cung cấp nhưng thực tế thì đó chỉ là địa chỉ tạm trú, hoặc bị đơn còn hộ khẩu nhưng đã chuyển đi từ lâu. Khi ấy tòa phải nhận thông tin và ủy thác lại. Vậy nên với những ủy thác giữa các địa phương trong nước với nhau, cách tốt nhất để rút ngắn thời gian là cả bên ủy thác và bên nhận ủy thác phải có trách nhiệm với việc ủy thác. Bên ủy thác phải theo dõi thông tin để thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở nơi mình nhờ vả, lãnh đạo bên được ủy thác phải theo dõi, nhắc nhở thẩm phán,...

No comments:

Post a Comment