Hội nhập với thế giới là một một xu hướng chung của bất kì các quốc gia nào trong thời kì hiện nay, một trong những phương thức để hội nhập với kinh tế toàn cầu đó là xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xư hướng chung đó của toàn thế giới, chúng ta cũng không ngừng nỗ lực để phát triển nền kinh tế đất nước. Luật Thuế xuất nhập khẩu năm 2005 ra đời đã kịp thời điều chỉnh những quan hệ trong quá trình thu và quản lí hàng hóa xuất nhập khẩu. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em xin chọn đề tài “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi Pháp luật Thuế nhập khẩu ở nước ta trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực hiện tốt thuế nhập khẩu”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU
1. Một số nét về thuế nhập khẩu
a. Khái niệm về thuế nhập khẩu
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhập khẩu tùy thuộc và từng góc độ tiếp cận như :
Xét về phương diện kinh tế, thuế Nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức và cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hoá qua biên giới một nước.
Xét về phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu có thể hình dung như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu.
Ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về thuế nhaaph khẩu như sau: Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào hành vi dịch chuyển hàng hóa qua biên giới của một quốc gia
b. Đặc trưng của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu có 3 đặc trưng dễ nhận thấy nhất như sau:
- Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hoá được phép vận chuyển qua biên giới.
- Thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu.
- Thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động nhập khẩu.
c. Vai trò thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu có 3 vai trò lớn sau đây:
- Tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Thuế Nhập khẩu không chỉ trực tiếp tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn có tác động tới số lượng và cơ cấu các nguồn thu từ các sắc thuế khác có liên quan. Trong mối quan hệ hữu cơ với các sắc thuế khác, thuế nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách từ những hình thức thuế gắn với hoạt động kinh doanh, thương mại như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp…
- Điều tiết hoạt động kinh tế. Thuế Nhập khẩu là công cụ điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà nước đối với nền kinh tế. Thông qua thuế nhập khẩu nhà nước điều chỉnh quá trình phân bổ và phân bổ lại các nguồn lực của nền kinh tế. Với việc tác động trực tiếp đến giá cả của hàng hóa trong thương mại quốc tế, thuế nhập khẩu điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và như vậy tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực trong các ngành sản xuất.
- Thuế Nhập khẩu là công cụ hỗ trợ và bảo vệ nền sản xuất trong nước. Thông qua thuế nhập khẩu nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu đánh thuế ở mức khác nhau đối với từng loại hàng hóa nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực cho các ngành sản xuất.
2. Pháp luật về thuế nhập khẩu
a. Khái niệm về pháp luật thuế nhập khẩu:
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu phát sinh giữa nhà nước với người nộp thuế
b.Nội dung pháp luật thuế nhập khẩu
b1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu
Gồm người nộp thuế là tổ chức,cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu,nhập khẩu( điều 4 luật thuế xuất khẩu,nhập khẩu) và người thu thuế là Nhà Nước trong đó có những cơ quan đại diện cho nhà nước để thu thuế nhập khẩu như cơ quan hải quan và một số cơ quan chức năng khác.
b2. Căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật về thuế nhập khẩu
Gồm:
- Các quy phạm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu
- Các sự kiện pháp lí
b3. Căn cứ xác định nghĩa vụ thuế nhập khẩu
- Đối với những mặt hàng áp dụng thuế suất theo tỉ lệ phần trăm (%), căn cứ tính thuế là:
Số lượng,đơn vị từng mặt hàng thực tế nhập khẩu được ghi trong tờ khai hải quan
Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với hàng hóa nhập khẩu
- Đối với những mặt hàng nhập khẩu ấp dụng thuế tuyệt đối
Số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế nhập khẩu được ghi trong tờ khai hải quan
Mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vi hàng hóa nhập khẩu
b4.Phương pháp tính thuế
Thuế nhập khẩu = số lượng đơn vị mặt hàng ghi trong tờ khai hải quan x giá tính thuế x thuế suất(%) của từng mặt hàng ghi trong biểu thuế tại thời điểm tính.
Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối: Thuế nhập khẩu = số lượng đơn vị từng mặt hàng ghi trong tờ khai hải quan x mức thuế tuyệt đối quy định trên 1 đơn vị hàng hóa tại thời điểm tính
b5. Đồng tiền tính thuế nhập khẩu; đồng Việt Nam, trong trường hợp được phép nộp bằng ngoại tệ thì phải nộp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
b6. Trình tự, thủ tục nộp thuế nhập khẩu
1: Kê khai thuế và tính thuế nhập khẩu
2. Nộp thuế và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu
II. TÌNH HÌNH THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
Luật thuế Xuất khẩu,thuế Nhập Khẩu đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1991 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1998). Tuy nhiên, luật này đã bộc lộ nhiều bất cập, quy định không hợp lý dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật thuế, gây thất thu lớn cho ngân sách và ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Để khắc phục, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đã ra đời. Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đạo luật này đã khắc phục được nhiều bấp cập của Luật Thuế xuất khẩu, thuế Nhập Khẩu 1991.
Trong quá trình thực thi từ 1/1/2006 đến nay, đạo luật này đã thể hiện nhiều ưu điểm, song vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Từ khi Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 ra đời đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các chính sách thuế, góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế, Việt Nam gia nhập WTO, chính sách về thuế Nhập khẩu ngày càng được mở rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng cao đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu đã phản ảnh chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế, mở rộng ngoại giao của nước ta. Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan, có các ưu đãi thuế quan, xác định giá tính thuế phù hợp với pháp luật quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Từ đó, thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các quốc gia liên quan.
Nguồn thu từ thuế Nhập khẩu là một nguồn thu ổn định của ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, tính từ 1/1/2011 đến 31/3/2111, thu ngân sách nhà nước của ngành hải quan ước đạt 44.000 tỷ đồng, tăng khoảng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 ra đời đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao sự minh bạch trong hoạt động hải quan, theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tuy vậy vẫn còn một số hạn chế trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu như sau:
Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu chưa thật sự triệt để, pháp luật thuế có nhiều chỗ còn lỏng lẻo tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế luồn lách.
Việc kê khai thuế, nộp thuế còn mất nhiều thời gian và còn quá nhiều uẩn khúc.
Còn nhiều cán bộ thuế chưa có đủ năng lực và trách nhiệm trong bộ máy quản lý thuế nhập khẩu….
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Những nhân tố chung ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng
Pháp luật thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng chung với các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế ở Việt Nam như: Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế, chính sách thương mại của nhà nước; Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế thế giới;Chính sách phát triển chung của nhà nước; Nhu cầu của Ngân sách
a. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế, chính sách thương mại của nhà nước ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu.
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế xuất nhập khẩu và nội dung pháp luật thực định về thuế xuất nhập khẩu trong giai đoạn đó. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ suy cho cùng chính sách và pháp luật về thuế xuất nhập khẩu chỉ là tấm gương phản chiếu thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước và quốc tế mà thôi. Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của từng quốc gia với lợi ích riêng của từng doanh nghiệp, từng cá nhân và hộ gia đình, chính sách thuế xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực hiện theo hướng thiên về mục tiêu bảo hộ; mục tiêu tăng thu ngân sách hoặc và mục tiêu tự do hóa thương mại.
*. Tình hình kinh tế
Hiện nay nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến tích cực so với những năm trước đây bình quân đầu người tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức ổn định, đời sống của người dân được cải thiện. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như thất nghiệp, sản xuất suy giảm, hàng hóa sản xuất ngày càng kém cạnh tranh với hàng nước ngoài. Đặc biệt, trong những năm gần đây, hàng hóa tiêu dùng, hàng điện tử của các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… ngày càng tràn lan trên thị trong nước hàng nội địa gần như không có khả năng cạnh tranh, không còn chỗ đứng trên chính thị trường quốc gia của mình. Vì vậy, Thuế nhập khẩu đã ra đời với chức năng cơ bản của một loại thuế và quan trọng hơn nó còn có vai trò đặc thù đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa ngoại nhập. Vai trò này xuất phát từ nguồn gốc của hàng hóa, hàng nhập khẩu sẽ có giá cả cao hơn do phải chịu một mức thuế nhất định khi nhập khẩu qua các cửa khẩu, cảng biển trong khi hàng hóa trong nước lại không phải chịu phần thuế nhập khẩu này ( trừ những nguyên liệu, linh kiện phải nhập từ nước ngoài về).Vì vậy, Chính phủ xem việc đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để góp phần đảm bảo sức cạnh tranh cho hàng hoa strong nước, hanjc hế được phần nào sự độc chiếm thị trường của hàng ngoại nhập
*. Tình hình trính trị
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Hiện nay tình hình chính trị nước ta tương đối ổn định, không xảy ra các cuộc chiến tranh, khủng bổ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có những thành phần chống phá Nhà nước, những người có hành động phản Đảng và những thế lực thù địch bên ngoài nên phải hết sức đề phòng. Trong thời gian qua, một số vụ tham nhũng, hối lộ đang diễn ra một cách phức tạp nổi cộm như vụ án Dương Chí Dũng với sự nhũng tay của không ít các quan chức cấp cao nhà nước đã gây ra những chấn động lớn đối với cục diện chính trị, kinh tế trong nước. Đặc biệt, gần đây, Trung Quốc đã sử dụng nhiều chiêu trò để thao túng thị trường nông sản trong nước gây ra những bất lợi nhất định đối với quá trình hội nhập kinh tế nước ta. Chính vì vậy, bên cạnh chính sách duy trì nền chính trị trong nước ổn định, Đảng và nhà nước ta cần siết chặt hơn nữa công tác quản lý hàng hóa nhập vào trong nước, tránh để trường hợp lợi dụng chính sách hội nhập để thực hiện âm mưu về chính trị, thao túng thị trường trong nước gây nên nhiều bất lợi cho quốc gia.
b. Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế thế giới
Trên thế giới xu hướng chung là các nước cùng liên minh thành lập lên những liên minh kinh tế thế giới để cùng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Theo đó các nước thành viên sẽ có những thỏa thuận tạo lên khung pháp lý mà muốn tham gia thì quốc gia đó phải đáp ứng được những tiêu chí đó. Trên thực tế, luật thuế nhập khẩu của mỗi quốc gia sẽ phán ánh tình trạng hội nhập của quốc gia đó và vì vậy nó chịu sự tác động và chi phối mạnh mẽ của các điều ước quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, pháp luật thuế nhập khẩu ở mỗi nước( trong đó có cả Việt Nam) được xây dựng và hoàn thiện theo hướng cơ bản sau:
* Chuyển hóa các cam kết quốc tế thành các quy định pháp luật trong nước bằng cách đưa vào luật những quy định mới hoặc sửa đổi, điều chỉnh những quy định đã có cho tương thích với các quy định của Điều ước quốc tế mà quốc gia đó đã hoặc sẽ tham gia.
* Thừa nhận các quy định quốc tế để áp dụng, sau đó sửa đổi luật pháp cho phù hợp với các quy định quốc tế( Ở Việt Nam hiện nay, giải pháp này được goi là “nội luật hóa” các điều ước quốc tế).
Những chính sách trên đã có tác động lớn tới pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam và dẫn tới những thay đổi trong pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam.Ở Việt Nam,những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế xuất nhập khẩu thực sự đã được khởi động từ năm 1998 (để thực hiện cam kết giảm thuế theo quy định của AFTA). Ngày 7/11/2006 Việt Nam gia nhập WTO và trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 11/1/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật như ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005,…để tương thích với các quy chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật thời hậu WTO. Và gần đây nhất là những thay đổi trong chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đến hoặc từ Hoa Kỳ, nhằm thực hiện các cam kết giảm thuế theo hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ. Hầu hết những thay đổi này đều được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nhằm đảm bảo tính khả thi và tính hiện thực cho các chính sách đó trong thực tiễn.
Như vậy có thể nói, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến nội dung và thực thi chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam
c. Chính sách phát triển chung của nhà nước
Dựa trên bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và thế giới,Đảng ta đề ra đường lối hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Đảng và nhà nước đã đưa ra hai xu hướng để phát triển kinh tế đất nước đó là:Bảo hộ mậu dịch, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các ngành sản xuất trong nước. Xu hướng thứ hai là tự do hóa thương mại, cắt giảm tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan của xu hướng tự do hóa thương mại. Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”.
Để phù hợp với xu thế chung của thế giới,Việt Nam là lần lượt trở thành quốc gia thành viên của WTO, APEC, IMF, ASEAN…Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Việt Nam cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương.
Tuy vậy việc trở thành thành viên của các liên minh kinh tế thế giới, việc kí kết những hiệp ước song phương, đa phương cũng lại trở thành một thách thức lớn cho Việt Nam vì Việt Nam phải cắt giảm quá nhiều loại thuế nhập khẩu đưa tới việc giá thành của những hàng hóa nhập khẩu đó giảm xuống trong khi đó chất lượng lại tốt hơn hàng hóa của Việt nam nên hàng hóa sản xuất trong nước không thể cạnh tranh được. Chính vì thế, để đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và thông lệ về tập quán quốc tế về thuế quan và thương mại,ể bảo vệ được hàng hóa trong nước pháp luật thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam đã quy định việc áp dụng các biện pháp về thuế tự bảo vệ( nhằm bảo hộ các hàng hóa trong nước do bị cạnh tranh không chính đáng với hàng hóa cùng lọai được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam); áp dụng thuế chống bán phá giá( đối với hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam thấp hơn giá thông thường trong giao dịch thương mại; áp dụng thuế chống trợ cấp (đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được trợ cấp từ nước xuất khẩu) và áp dụng thuế chống phân biệt đối xử (đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt nam được xuất xứ từ nước ngoài mà trước đó đã có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của Việt Nam). Đây là biện pháp quan trọng để bảo hộ nền sản xuất trong nước và tạo được nguồn thu đáng kể cho Ngân Sách Nhà nước từ việc “nhập khẩu” hàng hóa
d. Nhu cầu thu Ngân Sách Nhà Nước về thuế nhập khẩu.
Ngân sách nhà nước được hình thành để Nhà nước thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội đồng thời tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Thuế là nguồn thu chủ yếu cho NSNN trong đó có thuế nhập khẩu. Cũng giống như các quốc gia đang phát triển khác, bên cạnh vai trò bảo hộ hàng hóa, dịch vụ trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nước ngoài thì ở nước ta, thuế nhập khẩu cũng giữ vai trò quan trọng cho ngân sách nhà nước. Bằng quyền lực chính trị của mình, Nhà nước đã ban hành và điều chỉnh các quy định pháp luật về thuế nhập khẩu cho phù hợp với từng giai đoạn nhất định của đất nước. Cụ thể, nhằm hạn chế tiêu dùng đối với một số hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, Nhà nước tăng thuế suất thuế nhập khẩu; đồng thời, để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước, pháp luật thuế nhập khẩu đã có các quy định hạn chế việc nhập khẩu đối với một số loại hàng hóa mang tính chất tiêu dùng xa xỉ như ô tô, thuốc lá, rượu ngoại... Sự hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với hàng hóa nhập khẩu.
Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan so với tổng thu ngân sách nhà nước đã thể hiện được sự quan trọng của thuế nhập khẩu. Tiêu biểu, theo số liệu từ phòng thuế xuất nhập khẩu chỉ riêng tại Cục Hải quan Quảng Ninh, tính tới ngày 30/3/2014, Hải quan Quảng Ninh đã thu nộp ngân sách nhà nước đạt 4,734 tỷ đồng, đạt 25,3% kế hoạch Bộ Tài chính giao cho, tăng 62% so với cùng kì năm 2013. Trong đó, đặc biệt là thu từ xăng dầu nhập khẩu. Cụ thể, số thu từ nhóm mặt hàng này đã đạt 2,985 tỷ đồng, chiếm 63% tổng thu toàn Cục; tăng 57% (tương đương 1,087 tỷ đồng) so với cùng kì 2013. Yếu tố tác động tới việc tăng kim ngạch, số thu từ nhóm mặt hàng xăng dầu nhập khẩu được lí giải là do mức thuế suất thuế nhập khẩu nhóm hàng này tăng hơn 4% so với mức thuế suất cùng kì 2013, lượng xăng dầu nhập là 453.000 tấn, tăng 23% (tương đương 87.000 tấn), kim ngạch tăng 14% (tương đương 54 triệu USD) so với năm 2013.
Trước áp lực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết ràng buộc toàn bộ biểu thuế nhập khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 17,4% xuống còn 13,4% với lộ trình thực hiện sau 5 đến 7 năm. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu – một trong những loại hình thuế gián thu quan trọng, đang đặt ra những thử thách mới cho việc xây dựng chính sách thuế gián thu, đó là làm sao tiếp tục bảo hộ sản xuất trong nước, tối đa hóa nguồn thu cho ngân sách nhà nước, không quá ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Thực tế đã cho thấy, khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả của một số nhóm hàng hóa như máy móc, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng bị giảm theo. Do nhu cầu trong nước vẫn không giảm và có thể còn tăng lên nên những sản phẩm trong nước có cơ hội tăng lên về số lượng và giảm giá thành. Hệ quả này thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng hàng hóa trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà nước thông qua các loại thuế khác như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân,… Bên cạnh đó, ngoài việc bù đắp cho ngân sách bằng khoản thu của các loại thuế khác, việc cắt giảm thuế nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh, nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng nếu không muốn bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Như vậy, có thể thấy, với nhu cầu của ngân sách nhà nước để đảm bảo cho các khoản chi tiêu phục vụ lợi ích công cộng vì sự phát triển của đất nước, Nhà nước bằng quyền lực của mình đã có những tác động không nhỏ tới các chính sách cũng như các quy định về pháp luật thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng.
2. Các yếu tố mang tính đặc thù ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam
a. Ý thức của người tham gia nộp thuế nhập khẩu
Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu. Ý thức của người nộp thuế tốt thì việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu sẽ tốt và ngược lại. Nhưng trên thực tế, việc thực thi pháp luật thuế còn gặp nhiều bất cập và một lý do là do ý thức của người nộp thuế chưa được tốt.
Trên thực tế, người nộp thuế đã luôn có những hành vi gian lận thuế nhập khẩu như:
- Khai báo không trung thực về giá tính thuế nhập khẩu,các chủ thể nộp thuế thường không khai báo chính xác mà khai giá nhập khẩu thấp hơn hoặc khai thấp về chất lượng hàng những chủ thể nộp thuế thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với thực tế nhằm trốn thuế nhập khẩu…
- Gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam cam kết giảm thuế. Khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn…
- Không kê khai trung thực thuế nhập khẩu Mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập, trị giá hải quan ảnh hưởng đến công tác kiểm tra của hải quan. Một số kiểu lách luật khác….
Chính những hành vi gian lận trên đã có ảnh hưởng xấu tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Pháp Luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam vốn dĩ vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều kẽ hở khiến cho việc người nộp thuế tìm ra những vết nứt để luồn lách khiến cho pháp luật thuế nhập khẩu đã hổng nay còn hổng hơn. Trong khi đó bộ máy quản lý pháp luật thuế nhập khẩu cũng vẫn chưa được hoàn thiện. Vậy nên có thể nói việc thực hiện pháp luât thuế nhập khẩu có tốt hay không phụ thuộc phần nhiều vào ý thức của người đi nộp thuế. Nếu người nộp thuế có ý thức tự giác trong việc nộp thuế, sẵn sàng đóng góp ý kiến để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế nhập khẩu thì dù có còn lỗ hổng thì việc thực thi và quản lý pháp luật thuế nhập khẩu vẫn sẽ trở nên rất dễ dàng ở Việt Nam.
a. Sự quản lý, trình độ quản lý của bộ máy quản lý thuế nhập khẩu
Trong những năm vừa qua, Nhà nước ta đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lí thuế, tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho công tác quản lí thuế, đổi mới cơ cấu tổ chức ngành thuế cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính,… Nói chung, Nhà nước thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ, năng lực quản lí của cả bộ máy quản lí thuế để tiến đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như: quản lí thuế thực hiện theo cơ chế tự khai, tự nộp; quản lí thuế trên cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, thực hiện quản lí thuế hiện đại theo chuẩn mực chung. Nhờ đó mà năng lực quản lý của cán bộ thuế ngày càng được bồi dưỡng và đạt được hiểu quả cao trong công tác. Việc thực thi pháp luật thuế trở nên đúng mực, dễ thực hiện hơn.
Tuy vậy cũng không thể không kể tới một số không nhỏ cán bộ công chức còn chưa có năng lực thực sự, thêm vào đó là bộ máy quản lý thuế nhập khẩu còn cồng kềnh, chưa thật sự chặt chẽ dẫn đến những kẻ hở để những nhà nhập khẩu có thể lách luật nên công tác tự khai- tự nộp thuế nhập khẩu ở nước ta vẫn chưa thể thực hiện được
b. Cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nhập khẩu cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Không thể phủ nhận là cơ sở vật chất của ngành hải quan đang ngày càng được hoàn thiện. Hiện nay, chúng ta đang triển khai mô hình thực hiện hải quan điện tử theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg, Thông tư 222/2009/TT-BTC. Mô hình này đã đạt được những thành tựu nhất định. Đối với 13 cục hải quan tỉnh, thành phố, số doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử đã đạt 43.168 doanh nghiệp; số tờ khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử đạt 1,58 triệu tờ khai, chiếm tỷ lệ 70%; kim ngạch thực hiện hải quan điện tử đạt 116,7 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 70,3% . Hải quan điện tử mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp như giảm chi phí thủ tục, thời gian…, giảm việc sách nhiễu, tiêu cực. Số chi cục thực hiện hải quan điện tử cũng đã đạt 80 chi cục, chiếm tỷ lệ 95%. Việc này giúp cho hoạt động kiểm tra, giám sát nhập khẩu được dễ dàng, thuận tiện hơn, giúp cho pháp luật thuế nhập khẩu có thể được thực hiện một cách triệt để hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều bất cập, thiếu thốn, là yếu tố trở ngại cho việc thực thi thuế nhập khẩu như:Phương tiện, trang thiết bị trợ giúp cho cán bộ hải quan vẫn còn lạc hậu, gây ra nhiều khó khăn, đặc biệt là trong công tác chống buôn lậu ; Nơi làm việc cho cán bộ công chức tại trụ sở Cục hải quan Thành phố cũng như tại các Chi cục cửa khẩu có nhiều khó khăn do mặt bằng làm việc chật hẹp. Tại các cửa khẩu Hải quan không có đất để xây dựng trụ sở mà phải lệ thuộc vào cơ quan chủ quản trên địa bàn (Cảng biển, sân bay, bưu điện…) nên rất khó khăn, bị động trong triển khai nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị, công nghệ thông tin cũ, không đồng bộ, phần mềm quản lý chưa hoàn thiện nhưng chưa được trang bị mới, nâng cấp, chưa được trang bị đầy đủ những thiết bị cần thiết như: camera quan sát, máy soi, máy phát hiện ma túy… Chính những khó khăn này đã gây ra những cản trở tới việc quản lý, giám sát các hoạt động thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta.
c. Nhu cầu của người tiêu dùng
Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Bởi lẽ có “cầu” thì mới có “cung”. Tuy Việt Nam vừa thoát khỏi danh sách những nước nghèo trên thế giới nhưng ở Việt Nam lại có tâm lí “sính hàng ngoại”. Tuy nhiên trước đây do thuế suất những mặt hàng nhập rất cao nên những mặt hàng nhập khẩu chỉ đến được tay giới thượng và đương nhiên tính về mặt bằng chung thì nhu cầu về hàng nhập khẩu cũng không lớn. Phải cho đến mấy năm gần đây, khi mà kinh tế của nước ta bắt đầu có bước phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, họ đã có nhu cầu nhiều hơn được sử dụng những mặt hàng nhập khẩu với chất lượng tốt, thêm vào đó thuế suất các mặt hàng nhập khẩu có xu hướng giảm,nó đã làm cho nhu cầu của người dân về hàng nhập tăng lên. Như vậy phần nào nó cũng có ảnh hưởng gián tiếp tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu bởi lẽ khi người dân có nhu cầu, những nhà nhập khẩu sẽ tìm cách để cung ứng được cho khách hàng. Từ đó, những nhà nhập khẩu sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình thực thi việc áp dụng thuế nhập khẩu ở nước ta. Còn vấn đề thực thi thế nào(trung thực hay gian lận) lại phụ thuộc phần nhiều vào ý thức của các nhà nhập khẩu.
d. Những yếu tố khác chi phối pháp luật thuế nhập khẩu.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Thuế nhập khẩu Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của một số các yếu tố khác như những Hiệp định, các văn bản kí kết của Việt Nam với các quốc gia khác. Tính đến giai đoạn hiện tại, Việt Nam đã ký kết gần 50 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các quốc gia, vùng lãnh thổ. Nội dung thỏa thuận trong các Hiệp định có những phần đã thể hiện tại các văn bản pháp luật trong nước nhưng còn nhiều nội dung cần phải tiếp tục nội luật hóa, khả năng thích ứng của đội ngũ cán bộ trong ngành thuế cũng gặp nhiều khó khăn. Thực hiện các cam kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thực chất liên quan đến quyền lực của Nhà nước về thuế trước xu thế toàn cầu hóa.Quan hệ pháp luật thuế không chỉ chịu tác động của quá trình hội nhập mà còn chịu tác động của quá trình tái cơ cấu các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia.Chính những tác động này ảnh hưởng đến chính sách thuế và hệ thống pháp luật thuế. Nếu không có chính sách và lộ trình, bước đi cụ thể, tác động của hội nhập có thể ảnh hưởng đến quyền tự quyết và quyền chính trị quốc gia. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần đưa ra những đường lối, chính sách đúng đắn và hệ thống pháp luật thuế phải trên cơ sở đường lối, chính sách mà Đảng, Nhà nước đưa ra.
Yếu tố liên quan đến việc xây dựng và ban hành pháp luật thuế nhập khẩu như trình độ chuyên môn của nhà lập pháp còn chưa cao, cơ quan lập pháp thể hiện ý chí chủ quan của mình, các văn bản pháp luật liên quan tuy nhiều nhưng chống chéo. Yếu tố liên quan đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu như trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật thuế chưa cao, trình độ nhận thức của người nộp
IV. ĐỀ XUẤT Ý KIẾN PHÁP LÝ NHẰM THỰC THI TỐT PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA
1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật .
Thứ nhất : Cần bổ sung thêm một số quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa nhằm tạo một hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất cho hoạt động nhập khẩu, đây là giải pháp đòi hỏi phải có tính đồng bộ nhằm tránh việc mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định của Luật và văn bản dưới luật. Trên cơ sở các cam kết của quá trình hội nhập, chúng ta phải nội luật hóa, từ đó xây dựng một hệ thống pháp luật tương thích với những quy tắc chung trong thương mại quốc tế, hướng đến một hệ thống pháp luật minh bạch, phù hợp và có tính khả thi.
Thứ hai: Pháp luật thuế nhập khẩu phải xây dựng một hàng rào bảo hộ thuế quan hợp lý. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế điển hình là việc chúng ta gia nhập WTO đòi hỏi chúng ta phải cắt giảm hàng rào thuế quan, do đó cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng các loại thuế nhập khẩu bổ sung như thuế nhập khẩu để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Trong luật thuế xuất nhập khẩu 2005 thì những quy định về các loại thuế này chỉ mang tính hình thức, quy định cho có chứ chưa làm rõ và chưa phát huy được vai trò của các loại thuế này. Trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay, khi vai trò của thuế nhập khẩu buộc phải giảm dần theo các cam kết quốc tế thì việc nâng cao vai trò của các loại thuế nhập khẩu bổ sung là vô cùng cần thiết.
Thứ ba: Về cách quy định thuế suất thuế nhập khẩu: theo quy định của luật thì “thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do chính phủ quy định”. Theo cách tư duy ngôn ngữ của người Việt thì quy định này dễ gây hiểu sang hướng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, tức là thuế suất thông thường tối đã bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170% theo cách hiểu của nhà làm luật. Do vậy luật nên đổi lại cách diễn đạt cho phù hợp và dễ hiểu, nhằm giúp những người không nghiên cứu sâu về luật có được cách hiểu đúng nhất khi đọc luật thuế xuất, nhập khẩu năm 2005.
Thứ tư: Về thời hạn nộp thuế: hiện nay luật đưa ra hai tiêu chí để xác định thời hạn nộp thuế là thời hạn xác định theo mặt hàng nhập khẩu và thời hạn xác định theo sự chấp hành pháp luật thuế của chủ thể nộp thuế. Theo em, luật chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế. Như vậy sẽ vừa phù hợp với Luật hải quan đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, vừa khuyến khích sự chủ động, tự giác tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Nếu dựa trên mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn nộp thuế vô hình chung đã đánh đồng những người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật với những người không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời tạo những kẽ hở cho những doanh nghiệp “ma” lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi, trốn thuế.
Thứ năm: Về thuế suất: hiện nay thuế suất thông thường được Bộ tài chính quy định áp dụng thống nhất ở mức bằng 150% thuế suất ưu đãi. Quy định này mang nặng tính duy ý chí và vô hình lấn át cả quy định của luật (luật cho phép dao động ở mức 100% đến 170%). Như vậy Bộ tài chính cần có những quy định cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất là bao nhiêu nhằm khắc phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo khung thế không bị áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường hợp riêng lẻ nào.
2. Cải cách thủ tục hải quan theo hướng giản đơn, thông thoáng, hiệu quả, hợp lý.
Thứ nhất: đối với những cải cách trong thủ tục hải quan: hiện nay ngành hải quan đang nỗ lực trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hải quan, đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động nhập khẩu được thực hiện một cách nhanh gọn, hiệu quả. Song một số quy định của Luật tuy rất tiến bộ nhưng lại chưa phù hợp với thực tế. Theo những quy định của pháp luật thuế và hải quan kể từ năm 2006 chính thức thực hiện quy trình thủ tục hải quan thực hiện kĩ thuật quản lí rủi ro.
Quản lý thủ tục hải quan phải hướng tới áp dụng phương pháp kĩ thuật hiện đại, công nghệ số để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, hạn chế được những khâu rườm rà trong việc kê khai thủ tục. Cùng với đó, phương thức quản lý này cũng giảm được đáng kể tình trạng khai lậu, trốn thuế, góp phần giảm thiểu đáng kể các khâu trong quá trình thu thuế, khai thuế và nộp thuế ở các cửa khẩu. Công tác này nếu dược thực hiện nghiêm túc sẽ đem lại kết quả cao trong công tác hải quan, quản lí và kiểm soát một cách chặt chẽ, sát thực tế nhất.
Thứ hai, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan như Tổng cục hải quan phải kết hợp với Bộ tài chính cải cách và phổ biến cách thức quản lý mới. Chúng ta cần đơn giản hóa bộ hồ sơ hải quan, cụ thể là bỏ bớt một số giấy tờ như giấy giới thiệu, tờ khai trị giá, bộ hồ sơ copy, hợp đồng thương mại. Đặc biệt, nhóm hàng gia công yêu cầu nộp bảng khai nguyên vật liệu cho doanh nghiệp tự cung ứng trong nước là không thực tế. Bên cạnh đó, chúng ta cần cải cách mạnh mẽ khung pháp lý quản lý hàng nhập khẩu theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch đồng thời tăng cường hiện đại hóa ngành hải quan thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện thủ tục hải quan.
3. Nâng cao chất lượng của cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và chất lượng đội ngũ cán bộ hải quan.
- Cần đầu tư phát triển cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật giúp các cán bộ hải quan hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình. Đề cập đến vấn đề này tại Hội nghị triển khai công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại năm 2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã yêu cầu Ban chỉ đạo 127 Trung ương phải khẩn trương tổng hợp và đề xuất bổ sung các phương tiện cụ thể để đáp ứng tốt hơn cho công tác chống buôn lậu trong thời gian tới. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cho rằng: “Về phương tiện và trang thiết bị, cần có danh mục và đề xuất phương án cụ thể. Trên cơ sở danh mục, đề xuất cụ thể đó, Chính phủ sẽ có chính sách để tập trung trong 1 số năm đẩy mạnh trang thiết bị cũng như công tác đào tạo cho các đồng chí để chúng ta có thể đáp ứng được yêu cầu”.
- Đi đôi với việc cải cách thủ tục hành chính, chúng ta cần đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu vì nếu như có một hệ thống pháp luật khoa học, đúng đắn nhưng người thực hiện không làm đúng, làm tốt nhiệm vụ của mình thì cũng không thể mang lại hiệu quả cao được. Theo đó, chúng ta cần lựa chọn công chức có đạo đức, trình độ để bố trí vào những bộ phận cụ thể, có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán bộ hải quan để nâng cao trình độ nghiệp vụ của họ đồng thời xử lí nghiêm minh công chức vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó cần phải đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu vì công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu đúng đắn hơn, phát hiện những thiếu sót, hạn chế của chính sách để từ đó có thể khắc phục kịp thời, đồng thời tránh tình trạng quan liêu, cửa quyền hay lợi dụng quyền hạn để làm trái pháp luật của một số cán bộ công chức nhà nước.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy có thể nói có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay. Những nhân tố trên là nhân tố thúc đẩy pháp luật thuế nhập khẩu ngày một hoàn thiện hơn. Qua đó có thể thấy, pháp luật thuế nhập khẩu vẫn còn nhiều lỗ hổng cần được lấp đầy, sửa đổi, bổ sung hơn nữa .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, nxb Công Anh Nhân Dân
2. Luật thuế xuất nhập khẩu 2005
3. Nghị định số 87/2010/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu
4. http://www.customs.gov.vn
5. http://idoc.vn/
6. http://luanvan.net
No comments:
Post a Comment