Đề bài: Quy định pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan đứng đầu trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Điều 2 Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ) quy định: Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể Chính phủ với việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ. Thông qua các quy định pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, nhóm chúng em xin đưa ra một số luận điểm nhằm làm rõ thêm về sự kết hợp giữa chế độ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong hoạt động của Chính phủ.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm Chính Phủ, Thủ tướng Chính Phủ.
• Khái niệm Chính Phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng,an ninh, và đối ngoại của Nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy của nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành hiến pháp và pháp luật ; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội và chủ tịch nước.
• Khái niệm Thủ tướng Chính Phủ
Thủ tướng Chính Phủ là người đứng đầu Chính Phủ. Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước ( điều 4). Thủ tướng do quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và tổ chức đối với phó thủ tướng, bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ quyền hạn của Chính Phủ, thủ tướng Chính Phủ.
1. Nhiệm vụ quyền hạn của chính phủ.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định rõ tại Luật tổ chức Chính phủ 2001 từ Điều 8 đến Điều 19.
Chính phủ là cơ quan hành chính đứng đầu trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước vì vậy, nhiệm vụ của chính phủ là quản lý về mọi mặt đời sống xã hội trong phạm vi cả nước. Chính phủ thực hiện quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật. Chính phủ sử dụng kết hợp các biện pháp hành chính, kinh tế, tổ chức, giáo dục và phối hợp với các cơ quan tổ chức liên quan, tổ chức liên quan khi thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ các quy định của pháp luật về quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực quản lý hành chính được ghi rõ tại Luật tổ chức Chính phủ, ta thấy được chính phủ có những quyền hạn cơ bản : Quyền kiến nghị lập pháp, thực hiện các dự thảo văn bản pháp luật, thực hiện kế hoạch ngân sách, các chính sách lớn về đối nội, đối ngoại, quyền lập quy, quyền quản lý toàn bộ công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội….. phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và hệ thống văn bản pháp quy mà Chính phủ đã ban hành, Chính phủ có quyền hạn trong lĩnh vực tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh theo các hình thức thích hợp, lãnh đạo các đơn vị kinh doanh theo kế hoạch, đúng cơ chế và pháp luật
Quyền kiểm tra, thanh tra các hoạt động quản lý hành chính nhà nước là quyền quan trọng của Chính Phủ. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Chính Phủ giúp các hoạt động quản lý hành chính nhà nước được tiến hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật, ngăn chặn sự chậm trễ, tiêu cực trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
2. Nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng Chính Phủ
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Chương III Luật tổ chức Chính phủ 2001, bao gồm Điều 20 và Điều 21.
Tại điều 20 Luật tổ chức Chính phủ có ghi rõ quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
“2. Triệu tập và chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
3. Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức vì lý do sức khoẻ hoặc lý do khác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; trong thời gian Quốc hội không họp trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
4. Thành lập hội đồng, ủy ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết để giúp
Thủ tướng nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng,
liên ngành;
5. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
6. Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đề cao kỷ luật, ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy và trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
7. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên;
8. Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
9. Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua những báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của Chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại chúng.”
Điều 21
“Thủ tướng Chính phủ ký các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.
Các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước.”
Có thể thấy rõ quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ chủ yếu tập trung vào việc tổ chức các cơ quan hành chính cấp dưới. Quyền hạn của phủ can thiệp sâu vào tổ chức của các cơ quan hành chính cấp dưới. Quyền hạn của Chính phủ tập trung chủ yếu vào thực hiện các hoạt động quản lý hành chính và giám sát các hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan cấp dưới.
Những quy định về thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng chính phủ đã thể hiện rõ nguyên tắc lãnh đạo tập thể với lãnh đạo cá nhân.
III. Sự kết hợp giữa chế độ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong hoạt động của Chính Phủ.
1. Biểu hiện sự kết hợp giữa chế độ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong hoạt động của Chính Phủ.
Trên thế giới, phụ thuộc vào hình thức hoạt động mà người ta phân ra các chế độ Chính phủ. Ở nơi nào sử dụng thuần túy cách làm việc tâp thể là chế độ hội đồng, nơi nào vừa kết hợp tính tập thể, vừa đề cao các nhân người đứng đầu là chế độ nội các, còn Chính phủ nước nào do nguyên thủ quốc gia đồng thời đứng đầu Chính phủ thì cá nhân đó toàn quyền quyết định, các Bộ trưởng chỉ là người trợ tá theo chế độ tổng thống.
Ở nước ta, nếu xét theo các tiêu chí đó có thể thấy về mặt hình thức, chế độ Chính phủ nước ta hiện nay là chế độ nội các.
Hiến pháp năm 1992 thực hiện sự tăng cường chế độ thủ trưởng và trách nhiệm cá nhân bằng việc phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể Chính phủ (Điều 112, gồm 11 điểm) và nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ (Điều 114, gồm 6 điểm). Đặc biệt, đã chuyển giao một số nhiệm vụ, quyền hạn trước đây thuộc tập thể Hội đồng Bộ trưởng (và Hội đồng nhân dân tỉnh) sang cho Thủ tướng. song vai trò của tập thể Chính phủ vẫn tiếp tục chiếm vị trí quan trọng, không bị đưa xuống vị trí thứ yếu hoặc chỉ là cơ quan tư vấn cho Thủ tướng như đối với Chính Phủ của đa số các nước tư bản hiện đại. Hiến pháp coi hình thức làm việc tập thể của Chính phủ vẫn quan trọng và cần thiết. Hiến pháp quy định: “Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số” (Điều 115).
Nói đến Chính Phủ với tư cách là một tập thể thì nguyên tắc và phương thức ra quyết định của nó phải là thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, nếu khác đi thì nó không còn là nó nữa với tư cách là cơ quan hoạt động theo cơ chế hội đồng. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính Phủ. Vậy Thủ tướng là người đứng đầu Tập thể Chính phủ hay đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp và hành chính nhà nước? Câu trả lời là cả hai.
Với tư cách là người đứng đầu Tập thể Chính phủ, Thủ tướng có quyền triệu tập và chủ trì các phiên họp của Chính phủ; chủ trì chuẩn bị các quyết định của Tập thể Chính phủ, mà sản phẩm chủ yếu là các nghị định, nghị quyết của Chính phủ chứa đựng các quyết định về chính sách. Tuy là người đứng đầu, nhưng Thủ tướng cũng chỉ là một thành viên của Chính phủ - một thành viên có đặc quyền quyết định khi biểu quyết của Tập thể Chính phủ có số phiếu ngang nhau. Thủ tướng không phải là Thủ trưởng của các thành viên Chính phủ, quan hệ giữa Thủ tướng với các thành viên Chính phủ không phải là quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, do đó không có việc Thủ tướng lãnh đạo “các thành viên Chính phủ” như quy định tại Điều 20 của Luật Tổ chức Chính phủ. Mặt khác, theo quy định tại Điều 4 của Luật Tổ chức Chính phủ "Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước", thì Thủ tướng không phải chịu trách nhiệm trước Tập thể Chính phủ, tức là quan hệ giữa Thủ tướng với
Tập thể Chính phủ không phải là mối quan hệ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đương nhiên, là một thành viên như các thành viên khác, Thủ tướng có trách nhiệm chấp hành các quyết định của Tập thể Chính phủ.
a. Sự biểu hiện của chế độ trách nhiệm tập thể trong hoạt động của tập thể Chính phủ.
Trách nhiệm tập thể được biểu hiện thông qua nguyên tắc và phương thức ra quyết định của Chính phủ đó là: Thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Cụ thể, theo quy định tại Điều 19 của Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, “Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số những vấn đề quan trọng sau đây:1. Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;2. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các nghị quyết, nghị định của Chính phủ;3. Dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm, các công trình quan trọng; dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương; tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Quốc hội;4. Đề án về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trình Quốc hội;5. Các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ, các vấn đề quan trọng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại;6. Các đề án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, việc thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;7. Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ;
8. Các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.”
Điều 35 Luật Tổ chức Chính phủ lại quy định “Phiên họp của Chính phủ chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Chính phủ tham dự.Trong các phiên họp thảo luận các vấn đề quan trọng được quy định tại Điều 19 của Luật này, các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết.” Qua các quy định trên chúng ta có thể thấy Chính phủ rất coi trọng chế độ trách nhiệm tập thể, trong Điều 35 đã có quy định phiên họp chính phủ chỉ được tiến hành khi có ít nhất 2/3 tổng số thành viên Chính phủ tham dự, quy định này cho thấy một khi đã hoạt động theo chế độ trách nhiệm tập thể nhưng ý kiến của cá nhân các thành viên vẫn phải cần tôn trọng, sụ vắng mặt của các thành viên có thể ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc họp. Hơn nữa những quy định này còn cho chúng ta thấy được rằng tuy nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ ngày càng được tăng cường hơn nhưng nhữ
ng vấn đề quan trọng nhất, chủ yếu nhất vẫn phải theo sự quyết định tập thể của Chính phủ.
b. Sự biểu hiện của chế độ trách nhiệm cá nhân trong hoạt động của Thủ tướng Chính phủ.
Với tư cách là người đứng đầu tập thể Chính phủ, đứng đầu cơ quan hành pháp, Thủ tướng Chính phủ thể hiện vai trò cá nhân của mình thông qua các hoạt động như triệu tập và chủ trì các phiên họp của Chính phủ; chủ trì chuẩn bị các quyết định của Tập thể Chính phủ, mà sản phẩm chủ yếu là các nghị định, nghị quyết của Chính phủ chứa đựng các quyết định về chính sách. Ngoài ra theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ra các quyết định về những vấn đề trong phạm vi thẩm quyền của mình. Và trong trường hợp ý kiến biểu quyết ngang nhau tròn các phiên họp của Chính phủ thì sẽ theo bên nào có ý kiến biểu quyết của thủ tướng.
Còn với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp thì Thử tướng Chính phủ có vai trò lãnh đạo, điều hành hoạt động của toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính từ Trung ương đến cơ sở để thực hiện các quyết định của Quốc hội và của Tập thể Chính phủ. Do vậy, quan hệ giữa Thủ tướng với các thủ trưởng các bộ, ngành và với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp là quan hệ trên dưới theo chế độ thủ trưởng.
Như vậy thực chất của việc “Thủ tướng lãnh đạo công tác của Chính phủ...” là Thủ tướng thực hiện 2 loại công việc:
- Thứ nhất là triệu tập và chủ toạ, điều khiển các phiên họp của Chính phủ. Trong loại việc này Thủ tướng hoạt động với tư cách là người đứng đầu Tập thể Chính phủ (Chủ tịch Hội đồng Chính phủ);
- Thứ hai là chỉ đạo, điều hành các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước theo thẩm quyền độc lập được Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ trao cho cá nhân Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu.
Tuy nhiên, ngoài trách nhiệm cá nhân thì với vai trò là một thành viên của Chính phủ Thủ tướng chính phủ cũng phải tham gia thảo luận, biểu quyết trong các hoạt động của Chính phủ.
2. Nhận xét của nhóm về chế độ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong hoạt động của Chính phủ ở nước ta hiện nay.
Trước tiên chúng ta cũng phải khẳng định rằng việc hoạt động theo chế đố trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân của Chính phủ có một ý nghĩa rất lớn. Thứ nhất, cơ chế làm việc này phát huy được sức mạnh tập thể, hạn chế được sự chủ quan duy y chí của các chủ thể khi thực hiện công việc và hơn nữa là hạn chế được các tệ quan liêu, cửa quyền. Thứ hai, cơ chế làm việc này còn kết hợp cả trách nhiệm cá nhân nên sẽ nhanh gọn hơn, hiệu quả công việc sẽ cao hơn tập trung hơn. Tuy nhiên điểm mạnh của cái này sẽ là hạn chế của cái kia nên giữa hai chế độ tập thể và cá nhân phải có sự phân công hài hòa, không quá nghiêng về tập thể mà cũng đừng quá coi thường cá nhân có như vậy thì hoạt động của Chính phủ mới đạt hiệu quả cao.
Trên thực tế chế độ làm việc này đôi chỗ còn nhiều hạn chế. Điển hình như trong trách nhiệm tập thể mà biểu hiện là thông qua các cuộc họp thì hoạt động này nhiều khi vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, vẫn còn nhiều các thành viên khi quyết định thường hưởng ứng theo số đông, chưa nêu ra được chính kiến của mình. Riêng về việc ban hành nghị định, hiện chỉ có một tỷ lệ rất ít được thảo luận và thông qua tại các phiên họp Chính phủ.
Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ nói chung là có tính chất chiến lược, phải đặt ở tầm vĩ mô và được thực hiện thông qua việc xây dựng và ban hành thể chế. Do vậy, Thủ tướng phải được giải phóng khỏi thẩm quyền của mình trách nhiệm giải quyết các công việc sự vụ, các vụ việc cụ thể, và nói chung là các công việc về thực thuộc trách nhiệm giải quyết của các bộ, ngành. Cần phải chấm dứt tình trạng các Bộ trưởng dồn các công việc thuộc thẩm quyền của mình lên cho Thủ tướng giải quyết. Ngược lại, cũng khắc phục tình trạng có những việc thuộc thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết của các Bộ, ngành mà các Bộ, ngành đó hoàn toàn có đủ khả năng xử lý thì lại do Thủ tướng giải quyết. Phải sử dụng tích cực có hiệu quả cơ chế phân công, phân cấp, uỷ quyền để chuyển các công việc sự vụ, cụ thể, đang thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, cho các Bộ, ngành, chính quyền địa phương giải quyết. Thủ tướng tập trung vào việc chỉ đạo, điều phối công việc giữa các Bộ, giải quyết các vấn đề vượt quá thẩm quyền của
Bộ trưởng và trực tiếp chỉ đạo xử lý đối với một số công việc lớn, đột xuất, các sự cố nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh lớn... vượt khỏi tầm giải quyết của Bộ, ngành, cần thiết phải sử dụng quyền lực của Thủ tướng để tập trung, phối hợp các nguồn lực từ nhiều Bộ, ngành, địa phương mới có thể giải quyết một cách có hiệu quả trong một thời gian nhất định. Đồng thời, phải tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra của Thủ tướng đối với các Bộ ngành, địa phương, cơ sở trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước, các quyết định của Chính phủ; thiết lập và duy trì trật tự, kỷ cương, kỷ luật trong hệ thống hành chính.
C. KẾT THÚC
Có thể thấy rõ, cả trên lý thuyết cũng như trong thực tiễn, Chính phủ có 2 cơ chế hoạt động khác nhau: Cơ chế lãnh đạo tập thể của Tập thể Chính phủ, thảo luận tập thể, quyết định theo đa số những vấn đề lớn mang tính chính sách; và cơ chế thủ trưởng, Thủ tướng quyết định theo trách nhiệm và thẩm quyền cá nhân độc lập với Tập thể Chính phủ đối với những vấn đề mang tính chất chỉ đạo, điều hành của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, trật tự, kỷ cương hành chính chính trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Đổi mới, điều chỉnh vai trò, chức năng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là vấn đề lớn, có phần phức tạp, không chỉ đòi hỏi phải có nhận thức tư duy mới trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm các nước mà còn đòi hỏi phải có quyết
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2005.
3. Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội,2005.
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.
5. Luật tổ chức chính phủ năm 2001
No comments:
Post a Comment