CHƯƠNG I
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mỗi bộ môn khoa học đều có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Việc xác định rõ đối tượng nghiên cứ là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của mỗi bộ môn khoa học, đó là cơ sở để hình thành các định hướng, tìm kiếm và áp dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với yêu cầu phát triển bộ môn khoa học đó và để phân biệt khoa học này với khoa học khác.
Đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học là những vấn đề, những mối quan hệ mà nó nghiên cứu. Những vấn đề và những mối quan hệ thuộc đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học được giới hạn trong phạm vi nhất định và luôn đòi hỏi phải được xác định rõ. Vì vật, mặc dù một khách thể nghiên cứu có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học nhưng do có sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu nên mỗi bộ môn khoa học đều có tính độc lập với những tích chất, mục đích và phương pháp nghiên cứu đặc thù của mình, không trùng lặp hay chồng lấn với các khoa học khác.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội rất phức tạp, phong phú và đa dạng. Những vấn đề thuộc lĩnh vực nhà nước và pháp luật được nhiều bộ môn khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lí nói riêng nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn, triết học nghiên cứu nhà nước và pháp luật cùng với các hiện tượng xã hội khác để rút ra những quy luật vân động và phát triển chung của xã hội; kinh tế chính trị học cũng nghiên cứu nhà nước và pháp luật nhưng trong phạm vi các vấn đề thuộc lĩnh vực tổ chức và quản lí nền kinh tế, trong sản xuất và phân phối…
Hệ thống khoa học pháp lí ngày càng phát triển bao gồm: Các khoa học pháp lí lí luận và lịch sử (lí luận nhà nước và pháp luật, lịch sở nhà nước và pháp luật, lịch sử các học thuyết chính trị, xã hội học pháp luật…), các khoa học pháp lí chuyên ngành (luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự, luật tố tụng dân sự, luật thương mại, luật tài chính, luật ngân hàng, luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, luật môi trường…) và các khoa học pháp lí ứng dụng - bổ trợ (tội phạm học, tâm lí học tư pháp, giám định tư pháp, thống kê tư pháp…). Tất cả ccs môn khoa học pháp lí nói trên đều nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực của nhà nước và pháp luật nhưng mỗi bộ môn khoa học đó lại có đối tượng riêng. Ví dụ: Lịch sử nhà nước và pháp luật nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển của nhà nước và pháp luật theo quản điểm và phương pháp lịch sử, bám sát từng thời gian và sự kiện lịch sử để phân tích, luận giải; khoa học luật hiến pháp nghiên cứu những vấn đề cơ bản về ngành luật hiến pháp, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về những mối quan hệ giữa các cơ cấu lớn của quyền lực nhà nước và về mối quan hệ giữa nhà nước công dân; khoa học luật hình sự nghiên cứu các vấn đề về tội phạm, mục đích hình phạt, điều kiện, hình thức và mức độ áp dụng hình phạt đối với người có hành vi phạm tội…
Là bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu những vấn đề có tính lí thuyết về nhà nước và pháp luật, lí luận nhà nước và pháp luật có nhiệm vụ nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về nhà nước và pháp luật nhằm làm rõ những thuộc tính bản chất của nhà nước và pháp luật, phát hiện và giải thích những quy luật và những vấn đề có tính quy luật về sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật, hệ thống hóa những tri thức lí luận nhà nước và pháp luật. Với tính chất đó, lí luận nhà nước và pháp luật phải chú trọng xác định rõ các vấn đề và lựa chọn các phương pháp, cách tiếp cận hợp lí để có thể thực hiện hài hòa các chức năng về nhận thức, ứng dụng, dự báo, mô tả, giải thích, suy luận và sáng tạo.
Theo đó, đối tượng nghiên cứu của lí luận nhà nước và pháp luật bao gồm những nhóm vấn đề và những quan hệ cơ bản sau đây:
- Những vấn đề chung, cơ bản nhấ của nhà nước và pháp luật như: bản chất, đặc điểm, chức năng, vai trò cà giá trị xã hội của nhà nước và pháp luật; hình thức nhà nước, hình thức pháp luật, bộ máy nhà nước, cơ chế điều chỉnh pháp luật…;
- Những quy luật và những vấn đề có tính quy luật gắn liền với sự phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật;
- Những mối quan hệ, liên hệ cơ bản, điển hình và có tính phổ biến của nhà nước và pháp luật (giữa nhà nước và cá nhân, giữa nhà nước và pháp luật với các hiện tượng xã hội khác; giữa nhà nước với pháp luật; giữa các bộ phận cấu thành nhà nước và pháp luật…;
- Những nguyên tắc (quy tắc), phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập trật tự pháp luật và pháp chế, xây dựng và thực hiện pháp luật; những phương tiện và giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, lí luận nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức về những vấn đề chung, cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật; về những quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển đặc thù của nhà nước và pháp luật; về những mối liên hệ cơ bản, những nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập pháp chế, xây dựng và thực hiện pháp luật.
Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau: Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật; ngược lại, pháp luật chỉ hình thành, phát triển và phát huy hiệu lực bẳng con đường nhà nước và dựa vào sức mạnh của nhà nước. Mối liên hệ mật thiết có tính khách uan đó đòi hỏi sự nghiên cứu và giải thích thống nhất các vấn đề về nhà nước và pháp luật. Vì thế, lí luận nhà nước và pháp luật nghiên cứu các vấn đề cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật một cách đồng thời, theo quan điểm chung thống nhất không tách rời nhau.
II. LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG HỆ THỐNG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ KHOA HỌC PHÁP LÍ
1. Lí luận nhà nước và pháp luật là bộ môn khoa học xã hội
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội đặc biệt. Nhà nước và pháp luật xuất phát từ xã hội, tồn tại và phát triển trong xã hội vì mục tiêu quản lí và điều tiết các quan hệ xã hội phù hợp với những quy luật vận động và phát triển chung của xã hội. Theo đó, nhà nước và pháp luật là những bộ phận hợp thành hệ thống các thiết ché xã hội. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, những vấn đề nhà nước và pháp luật luôn thu hút sự quan tâm động đảo các tầng lớp trong xá hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ nhận thức về những vấn đề nhà nước và pháp luật cũng phát triển và có nhiều thay đổi nhưng sự quan tâm về chúng không những không giảm mà ngày càng gia tăng. Vì vậy, nhà nước và pháp luật là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội như triết học, sử học, xã hội học, kinh tế học, luật học…
Lí luận nhà nước và pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn. Với tính chất là bộ môn khoa học lí thuyết về nhà nước và pháp luật, có mục đích nghiên cứu làm rõ những vấn đề chung, cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật; những quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển đặc thù của nhà nước và pháp luật; những mối liên hệ cơ bản, những nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập pháp chế, xây dựng và thực hiện pháp luật, lí luận nhà nước và pháp luật góp phần xây dựng hệ thống khái niệm và cung cấp các kiến thức lí luận chuyên sâu về nhà nước và pháp luật, tạo cơ sở cho sự nhận thức thống nhất trong các khoa học xã hội và nhân văn về những vấn đề thuộc lĩnh vực nhà nước và pháp luật. Mặt khác, việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật không thể chỉ hạn chế trong lĩnh vực các khái niệm pháp lí thuần túy mà phải đặt trên cơ sở của hệ thống các tri thức khoa học chung, phải dựa vào lí luận và phương pháp luận của nhiều bộ môn khoa học khác. Lí luận nhà nước và pháp luật có quan hệ với nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn như triết học, sử học, xã hội học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học…
- Lí luận nhà nước và pháp luật có mối quan hệ mật thiết với triết học học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là môn khoa học về các quy luật phát triển chung của tự nhiên, xã hội và tư duy như quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định; về những phạm trù cơ bản như vật chất, ý thức, thực tiễn, chân lí, mâu thuẫn, nguyên nhân, kết quả…; về những nguyên tắc nhận thức luận và tư suy khoa học… Đối với lí luận nhà nước và pháp luật, các quy luật, phạm trù, nguyên tắc đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đối tượng của môn học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử giải thích các quy luật phát sinh, phát triển chung nhất của xã hội và các bộ phận của nó, trong đó có nhà nước và pháp luật. Lí luận nhà nước và pháp luật là bộ môn khoa học cụ thể hơn, đi sâu nghiên cứu những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù của nhà nước và pháp luật. Những quy luật đó đều nằm trong các quy luật vận động và phát triển chung của xã hội. Vì vật, để nhận thức được các quy luật riêng của nhà nước và pháp luật, phải vận dụng tri thức về các quy luật, phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về quyền lực nhà nước, bản chất pháp luật phải dựa trên cơ sở những tri thức khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử như hình thái kinh tế – xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội, cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội…
- Lí luận nhà nước và pháp luật có mối quan hệ mật thiết với sử học. Sử học là bộ môn khoa học nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển của nền văn minh nhân loại với toàn bộ sự phong phú, đa dạng của nó. Nhà nước và pháp luật là những thiết chế cụ thể, kết quả quá trình phát triển lịch sử nhân loại, vì vật nó cũng là đối tượng nghiên cứu của sử học theo phương pháp đặc thù của khoa học này. Dựa trên những cứ liệu lịch sử, lí luận nhà nước và pháp luật có điều kiện đi sâu phân tích, luận chứng về các quy luật phát triển đặt thù của nhà nước và pháp luật, về những thuộc tính bản chất, bản chất của các mô hình nhà nước và pháp luật và những hình thức biểu hiện nhiều vẻ của chúng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu lí luận nhà nước và pháp luật sẽ góp phần bổ sung và phát triển các kiến thức lịch sử về các vấn đề có liên quan đến nhà nước, pháp luật và là cơ sở để sử học sử dụng trong quá trình nghiên cứu theo phương pháp lịch sử những vấn đề của nhà nước và pháp luật qua các thời kì lịch sử.
- Lí luận nhà nước và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội học. Xã hội học là khoa học nghiên cứu về những yếu tố cấu thành xã hội trong mối quan hệ mật thiết của một chỉnh thể, về những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển các mặt hoạt động của con người trong xã hội. Hệ thống kiến thức và phương pháp của xã hội học có ý nghĩa quan trọng đối với hướng tiếp cận để làm rõ bản chất và các khía cạnh xã hội của nhà nước và pháp luật. Xã hội học pháp luật là một trong những hướng tiềm kiếm mới của luật học, hướng tiếp cận và xem xét pháp luật trong trạng thái động, gắn với đời sống xã hội, với thực tiễn. Cách tiếp cận xã hội học của lí luận nhà nước và pháp luật về những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu và những kết quả nghiên cứu của nó sẽ góp phần giải thích rõ hơn các giá trị xã hội của hai hiện tượng này đồng thời góp phần bổ sung và phát triển hệ thống kiến thức về xã hội học nói chung và xã hội học pháp luật nói riêng.
- Lí luận nhà nước và pháp luật có mối quan hệ mật thiết với kinh tế chính trị học. Kinh tế chính trị học nghiên cứu các quy luật phát triển của quan hệ sản xuất, nghĩa là các quy luật của hạ tầng cơ sở. Để làm sáng tỏ bản chất của nhà nước và pháp luật, giải thích mối quan hệ có tính chát quyết định của quan hệ sản xuất đối với nhà nước và pháp luật, lí luận nhà nước và pháp luật phải vận dụng các khái niệm và quan điểm của kinh tế chính trị học. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng lí luận nhà nước và pháp luật nghiên cứu các quy luật của nhà nước và phát luật với tư cách là hai hiện tượng của thượng tần kiến trúc, không nghiên cứu các quy luật của hạ tầng cơ sở.
- Lí luận nhà nước và pháp luật cũng có mối quan hệ mật thiết với chủ nghĩa xã hội khoa học, vì hai bộ môn khoa học cùng nghiên cứu sự phát triển của nhà nước và pháp luật trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu một cách đồng thời các quy luật chung của nhà nước và pháp luật với các quy luật khác thì lí luận nhà nước và pháp luật nghiên cứu một cách cụ thể hơn các quy luật đặc thù của nhà nước và pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu, lí luận nhà nước và pháp luật vận dụng các quan điểm và kết luận của chủ nghĩa xã hội khoa học để giải thích các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của mình.
Như vậy, lí luận nhà nước và pháp luật luôn dựa trên cơ sở của các môn khoa học nói trên và vận dụng các quan điểm của khoa học đó để giải thích các vấn đề về nhà nước và pháp luật. Mặt khác, trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc các quy luật, các vấn đề về nhà nước và pháp luật, chứng minh sự vận động và phát triển của chúng, lí luận nhà nước và pháp luật góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào hệ thống tri thức khoa học xã hội nói chung, những vấn đề cốt yếu của đời sống xã hội như: hệ thống chính trị, nhà nước, dân chủ, pháp luật, pháp chế…
2. Lí luận nhà nước và pháp luật là bộ môn khoa học pháp lí
Trong hệ thống các khoa học pháp lí, lí luận nhà nước và pháp luật giữ vai trò là môn khoa học pháp lí cơ sở có tính chất phương pháp luận để nhận thức đúng đắn các vấn đề có tính bản chất, các quy luật của nhà nước và pháp luật. Các môn khoa học pháp lí chuyên ngành khi nghiên cứu những vấn đề cụ thể của ngành luật nhất định luôn dựa trên cơ sở các quan điểm chung đã được lí luận nhà nước và pháp luật giải thích và kết luận. Ví dụ: Khoa học luật hiến pháp khi nghiên cứu những vấn đề cơ bản về ngành luật hiến pháp, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về những mối quan hệ giữa các cơ cấu lớn của quyền lực nhà nước và về mối quan hệ giữa nhà nước và công dan; khoa học luật hình sự khi nghiên cứu vấn đề về bản chất và nguyên nhân của tội phạm, mục đích của hình phạt… đều có sự đối chiếu tới các quan điểm lí luận về bản chất, chức năng, nguyên tắc, quy luật phát triển của nhà nước và pháp luật và vận dụng những khái niệm, tri thức do nhà nước và pháp luật cung cấp. Trong khoa học luật dân sự, các quan điểm đó được vận dụng để nghiên cứu các vấn đề như nguyên tắc của luật dân sự, quan hệ pháp luật dân sự, trách nhiệm pháp lí dân sự… Những kiến thức lí luận nhà nước và pháp luật góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất về quan điểm, nguyên tắc đối với các vấn đề chung, cơ bản nhất của các khoa học pháp lí. Đồng thời, những quan điểm, kết luận của các môn khoa học pháp lí cụ thể có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của khoa học lí luận nhà nước và pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu, lí luận nhà nước và pháp luật phải sử dụng tài liệu, dựa vào các quan điểm và kết luận cụ thể của các môn khoa học pháp lí chuyên ngành để kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển những luận điểm, quan điểm và kết luận chung của lí luận.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc và cách thức hoạt động khoa học nhằm đạt tới chân lí khách quan dựa trên cơ sở của sự chứng minh khoa học.
Lí luận nhà nước và pháp luật có cơ sở phương pháp luận là các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học chung cho mọi khoa học, được vận dụng trong tất cả các quá trình, các giai đoạn nghiên cứu. Nội dung của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là những quy luật, những phạm trù của phép biện chứng duy vật và những nguyên tắc của phép biện chứng logic như: tính khách quan, tính toàn diện, tính lịch sử cụ thể…
Nguyên tắc về tính khách quan trong nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét sự vật và đối tượng nghiên cứu đúng như nó có, không thêm bớt, không bịa đặt. Đối với nhà nước và pháp luật đòi hỏi phải nghiên cứu chúng đúng như chúng đã và đang tồn tại trong thực tế khách quan, trong những mối quan hệ hiện thực. Nguyên tắc xem xét sự vật một cách toàn diện là yêu cầu rất quan trọng để làm sáng tỏ những vấn đề có tính bản chất, đặc thù của nhà nước và pháp luật. Vì nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng đặc biệt có quan hệ với tất cả các hiện tượng của thượng tầng kiến trúc cũng như hạ tầng cơ sở, cho nên nếu không hiểu đúng đắn và đầy đủ mối quan hệ giữa chúng sẽ dẫn tới sự nhận thức phiến diện, sai lệch. Một số học giả khi nghiên cứu nhà nước và pháp luật lại tách rời hai hiện tượng này với cơ sở hạ tầng nên không thể giải thích được một cách khoa học bản chất và những đặc trưng cơ bản của chúng.
Để làm sáng tỏ bản chất cả nhà nước và pháp luật còn đỏi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể, gắn chúng với những giai đoạn phát triển nhất định. Theo V.I.Lenin: “Trong khoa học phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chú yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu chung ở trên, lí luận nhà nước và pháp luật còn sử dụng nhiều phương pháp cụ thể khác để nghiên cứu. Các phương pháp này được sử dụng để giải quyết một số nhiệm vụ trong quá trình nghiên cứu, để giải thích, đánh giá và kết luận về một số vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật trên cơ sở áp dụng các phương pháp chung.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng rãi, thưỡng xuyên trong quá trình nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Phân tích là phương pháp dùng để chia cái toàn thể hay một vấn đề phức tạp ra thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố đơn giản hơn để nghiên cứu và làm sáng rõ vấn đề. Chẳng hạn, để có thể luận giải được những vấn đề của nhà nước, lí luận phải “tách” nó ra thành các vấn đề cụ thể hơn như đặc điểm, chức năng, hình thức… để nghiên cứu. Hoặc trong mỗi vấn đề lớn đó lại chia ra thành những vấn đề nhỏ hơn để có điều kiện phân tích sâu hơn. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất lại các bộ phận, các yếu tố, các mặt đã được phân tích, vạch ra mối liên hệ giữa chúng nhằm khái quát hóa các vấn đề trong sự nhận thức tổng thể.
- Phương pháp tiếp cân hệ thống là cách xem xét các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của lí luận nhà nước và pháp luật trong một hệ thống có cấu trúc chặt chẽ, bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, có những mối quan hệ tương tác với nhau, vận động và phát triển theo những quy luật, nguyên tắc nhất định. Nhà nước và pháp luật là những hệ thống toàn vẹn với nhiều bộ phận hợp thành, trong đó mỗi bộ phận lại có thể có một hệ thống hay tiểu hệ thống. Ví dụ, bộ máy nhà nước được xem xét là một hệt thống, trong đó mỗi loại cơ quan nhà nước như lập pháp, hành pháp, tư pháp là một hệ thống và mỗi cơ quan cũng được xem là một tiểu hệ thống. Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn như ngành luật, chế định pháp luật, tiểu chế định pháp luật và thậm chí quy phạm pháp luật cũng được xem là một tiểu hệ thống trong đó.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học có vai trò rất quan trọng trong lí luận nhà nước và pháp luật. Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp tư duy trên cơ sở tách cái chung ra khỏi cái triêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung. Bằng phương pháp trừu tượng hóa, ta có thể vượt qua những hiện tượng có tính hình thức về ngoài, ngẫu nhiên, thoáng qua, bất ổn định, để đi đến được cái chung mang tính tất yếu, bản chất và ổn định (mang tính quy luật).
- Phương pháp lịch sử và logic được sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm xác định các trật tự, xây đựng các định nghĩa, khái niệm, phạm trù thuộc hệ thống tri thức lí luận nhà nước và pháp luật. Là môn khoa học lí luận có nhiệm vụ xây dựng hệ thống tri thức tổng quát với các khái niệm, phạm trù và những luận điểm cơ bản, lí luận nhà nước và pháp luật tất yếu phải sử dụng hài hòa phương pháp trừu tượng hóa khoa học với phương pháp lịch sử và logic.
- Phương pháp xã hội học được sử dụng để thu thập những thông tin, tư liệu thực tiễn, thể hiện những quan niệm, quan điểm, ý thức, tâm lí, thái độ của các tầng lớp, nhóm xã hội và cá nhân về các vấn đề khác nhau của nhà nước và pháp luật, tạo cơ sở cho việc phân tích, đánh giá, nhận thức một cách khách quan và toàn diện về các vấn đề của nhà nước và pháp luật, từ đó hình thành hoặc kiểm nghiệm lại những luận điểm, quan điểm, khái niệm, kết luận của lí luận nhà nước và pháp luật, đề xuất và áp dụng các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nhà nước và pháp luật. Ví dụ, có thể thông qua các cuộc khảo sát, điều tra phỏng vấn, tham vấn dư luận xã hội để triển khai các hoạt động nghiên cứu về ý thức pháp luật, ý thức chính trị, văn hóa, pháp luật, đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà nước và tác dụng của pháp luật, xác định nhu cầu về thông tin và tư vấn pháp luật…
- Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau trong đó có lí luận nhà nước và pháp luật. Áp dụng phương pháp so sánh để nghiên cứu về nhà nước và pháp luật sẽ cho phép người nghiên cứu có thể phát hiện ra những điểm giống nhau và khác nhau của các hiện tượng nhà nước và pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự đồng nhất và dị biệt đó. Nhờ phương pháp so sánh mà hệ thống tri thức trong lí luận nhà nước và pháp luật có được tính khách quan và khoa học.
Khi nghiên cứu về nhà nước và pháp luật cẩn phải sử dụng kết hợp những phương pháp chung (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) với những phương pháp riêng; khôtng thể chỉ chú ý tới một trong hai nhóm phương pháp đó hoặc sử dụng chúng một cách tách biệt nhau. Những phương pháp chung là cơ sở nhưng những phương pháp riêng lại thể hiện tính đặc thù của khoa học lí luận nhà nước và pháp luật. Mỗi phương pháp riêng được sử dụng để nghiên cứu về nhà nước và pháp luật chỉ có thể mang lại kết quả tốt khi nó được sử dụng cùng với phương pháp biện chứng duy vật, với tư cách là một trong những hình thức cụ thể hóa của nó và được phát triển trong sự nhận thức khoa học.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và văn minh nhân loại, các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có sự hỗ tương hỗ mạnh mẽ và xâm nhập vào nhau, làm xuất hiện nhu cầu khách quan là các khoa học phải sử dụng kết hợp và hài hòa các phương pháp nghiên cứu của nhau. Theo đó, trong khoa học pháp lí nói chung và trong lí luận nhà nước và pháp luật nói riêng, việc sử dụng các phương pháp tiếp cận liên ngành ngày càng trở nên phổ biến. Ví dụ, phương pháp chính trị – pháp lí; phương pháp kinh tế – pháp lí; phương pháp xã hội học pháp luật…
IV. CẤU TRÚC CỦA LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Cấu trúc của lí luận nhà nước và pháp luật gồm những bộ phận kiến thức cơ bản dưới đây:
1. Những kiến thức lí luận chung về nhà nước
Trong đời sống khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lí nói riêng hiện nay còn tồn tại những quan điểm khác nhau về nội hàm và hướng phát triển của khoa học lí luận nhà nước và pháp luật. Nhà nước với tính chất là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị nên vấn đề tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước luôn là đối tượng nghiên cứu của chính trị học. Vì vậy, có quan điểm cho rằng cần tách những vấn đề lí luận nhà nước và những vấn đề lí luận pháp luật thành những bộ môn khoa học độc lập. Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm biện chứng thì giữa nhà nước và pháp luật có mối liên hệ rất mật thiết và không thể tách rời nhau; nhà nước cũng là đối tượng nghiên cứu của chính trị học, nhất là vấn đề quyền lực nhà nước nhưng chế định nhà nước (xét từ góc độ luật học) luôn phải là đối tượng nghiên cứu của lí luận nhà nước và pháp luật.
2. Những kiến thức lí luận chung về pháp luật
Đây là bộ phận kiến thức cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của lí luận nhà nước và pháp luật. Trong khoa học pháp lí, cần phải biết triết học pháp luật với lí luận pháp luật. Triết học pháp luật có đối tượng nghiên cứu hẹp hơn và chủ yếu dựa trên cơ sở lí luận và phương pháp luận của triết học để giải quyết một số vấn đề pháp luật với tư cách là đối tượng nghiên cứu ứng dụng của triết học. Trong giáo trình này, triết học pháp luật là bộ phận nội dung của lí luận nhà nước và pháp luật.
3. Những kiến thức lí luận ứng dụng về nhà nước và pháp luật
Trên cơ sở những kiến thức lí luận chung về nhà nước và pháp luật, lí luận nhà nước và pháp luật đi sâu phân tích thực tiễn về các kiểu, các mô hình nhà nước và pháp luật đa, đang tồn tại và phát triển ở những khi vực và các nước trên thế giới nhằm kiểm chứng và làm rõ những khía cạnh bản chất, những đặc điểm chung, riêng, chứng minh tính phong phú, đa dạng của các hình thức biểu hiện của nhà nước và pháp luật trong thực tiễn…
4. Những kiến thức lí luận nhà nước và pháp luật Việt Nam
Đây là bộ phận có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phân tích và làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn có tính đặc thù về mô hình nhà nước và pháp luật Việt Nam; luận chứng về cơ sở khoa học, thực tiễn, tính đúng đắn và sự vận dụng sáng tạo các tinh hoa kiến thức lí luận nhà nước và pháp luật vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Lí luận nhà nước và pháp luật là bộ môn khoa học pháp lí cơ sở. Những vấn đề được trình bày và kết luận trong nội dung môn học là hệ thống tri thức chung, sâu sắc và toàn diện về nhà nước và pháp luật, là cơ sở để hình thành quan điểm hệ thống khi tiếp cận các lĩnh vực cụ thể của khoa học pháp lí. Vì vậy, cần phải nắm vững kiến thức của lí luận trước khi nghiên cứu các vấn đề khác của khoa học pháp lí, bởi vì: “Người nào tiếp cận những vấn đề riêng mà trước đó không giải quyết vấn đề chung thì trong mỗi bước đi sẽ không thể tránh khỏi những vấn đề chung đó một cách vô thức" . ( )
Lí luận nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức khoa học, vì vậy nó đòi hỏi khi xem xét, nghiên cứu và kết luận các vấn đề phải dựa trên cơ sở của quan điểm biện chứng khoa học, phải đặt nhà nước và pháp luật trong mối liên hệ qua lại với các hiện tượng khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức, ý thức… để một mặt thấy rõ sự tác động và ảnh hưởng của các yếu tố đó đối với nhà nước và pháp luật; mặt khác làm sáng tỏ tính độc lập tương đối và vai trò to lớn của nhà nước và pháp luật trong sự tác động đến quá trình phát triển của xã hội. Phải nghiên cứu nhà nước và pháp luật một cách toàn diện, theo quan điểm phát triển, gắn những vấn đề chung về nhà nước và pháp luật với thực tiễn để trả lời câu hỏi của thực tiễn và phải coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá sự đúng đắn của các luận điểm khoa học, là tiêu chuẩn để xác định hiệu quả của chúng.
Suy cho cùng thì mọi khoa học có mục đích phục vụ xã hội, phục vụ con người. Lí luận nhà nước và pháp luật với nhiệm vụ nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về nhà nước và pháp luật nhằm làm rõ những thuộc tính bản chất của nhà nước và pháp luật, phát hiện và giải thích những quy luật và những vấn đề có tính quy luật về sự ra đời, tồn tài và phát triển của nhà nước và pháp luật, hệ thống hóa những tri thức lí luận nhà nước và pháp luật. Những kiến thức này có ý nghĩa hết sức quan trọng cho việc hình thành nhận thức đúng đắn về những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của lí luận nhà nước và pháp luật, phát triển năng lực tư duy và khả năng vận dụng sáng tạo vào giải quyết những vấn đề cụ thể đặt ra trong thực tiễn đời sống nhà nước và pháp luật.
Về mặt kĩ thuật, tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể về giảng dạy, nghiên cứu, phù hợp với từng cấp học và đối tượng người học, các nội dung trên có thể được trình bày thành hai, ba hoặc bốn phần. Trong nội dung giáo trình này, các vấn đề trên được trình bày thành ba phần với cách tiếp cận chủ đạo là đi từ cái chung đến cái riêng, đề cao những giá trị lí luận cơ bản đồng thời cũng chú trọng đúng mức đến tính ứng dụng của lí luận nhà nước và pháp luật.
No comments:
Post a Comment