26/01/2015
Nội dung của nguyên tắc ngân sách toàn diện và sự thể hiện trong Luật Ngân sách nhà nước 2002 - Bài tập cá nhân Luật Tài chính
Nguyên tắc ngân sách toàn diện là một trong những quan niệm cổ điển về ngân sách, được xây dựng đầu tiên ở các nước có nền dân chủ sớm phát triển như Anh, Pháp, Đức… từ thế kỉ XVII, XVIII. Cho đến ngày nay, nguyên tắc này vẫn được giới khoa học đương thời thừa nhận như một quan điểm khoa học có tính lịch sử và đi xa hơn, họ còn luôn tìm cách củng cố, phát triển và đổi mới chúng để cho phù hợp với bối cảnh của nền tài chính công hiện đại.

1. Nội dung của nguyên tắc ngân sách toàn diện

Theo từ điển mở Wikitonary, “toàn diện” có nghĩa là “đầy đủ các mặt, không thiếu mặt nào”. Cũng theo triết học Mác Lênin, nguyên tắc toàn diện là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật, đòi hỏi khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố kể cả các mặt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự vật. Dựa vào đó, “ngân sách toàn diện” có thể được hiểu khái quát là một bản ngân sách có đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật và không được phép thiếu một nội dung nào, đồng thời các nội dung phải được thể hiện rõ ràng, khúc triết trong cùng một bản dự toán ngân sách. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 1 Luật NSNN năm 2002 “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán” thì có thể thấy ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính quan trọng và bao giờ cũng được cấu trúc bởi hai phần, đó là phần thu và phần chi. Do đó, một ngân sách toàn diện trước hết và cơ bản phải luôn thể hiện được đầy đủ hai bộ phận nêu trên.

Cụ thể, nguyên tắc này có thể được diễn tả bằng hai nội dung cơ bản sau đây:

- Thứ nhất:  Mọi khoản thu và mọi khoản chi đều phải ghi và thể hiện rõ ràng trong bản dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định. Có nghĩa là các khoản thu và chi trong ngân sách nhà nước phải được hợp thành một tài liệu duy nhất, phản ảnh đầy đủ mọi chương trình tài chính của Chính phủ, không được phép để ngoài dự toán ngân sách bất kỳ khoản thu, chi nào dù là nhỏ nhất. Nguyên tắc này bảo đảm tính nghiêm ngặt của ngân sách nhà nước, giúp nhà nước nắm và điều hành toàn bộ ngân sách nhà nước; chống tùy tiện, đảm bảo cho ngân sách được thiết lập rõ ràng, cụ thể, minh bạch, đầy đủ và dễ kiểm soát, tránh sự thất thoát, lãng phí, sự gian lận hay biển thủ công quỹ trong quá trình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.

- Thứ hai: Các khoản thu và chi không được phép bù trừ cho nhau mà phải thể hiện rõ ràng từng khoản thu và mỗi khoản chi trong mục lục ngân sách nhà nước được duyệt; không được phép dùng riêng một khoản thu cho một khoản chi cụ thể nào mà mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chi. Hay nói cách khác, các khoản thu và các khoản chi phải được ghi vào ngân sách bằng các đại lượng tiền tệ cụ thể, trong đó khoản thu được tập hợp thành một khối thống nhất không phân biệt để thực hiện các khoản chi. Mặc dù vậy, các khoản chi có thể được chuyên trách hóa (được chia ra làm nhiều quỹ nhỏ) cho những mục đích nhất định đã được xác định trước, và tất nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần tính đến việc phải tuân hủ nguyên tắc “Các khoản đi vay để bù đắp bội chi ngân sách không được sử dụng để chi tiêu dùng mà chỉ được sử dụng để chi cho đầu tư phát triển”.

2. Sự thể hiện của nguyên tắc ngân sách toàn diện trong Luật NSNN năm 2002

Nguyên tắc ngân sách toàn diện được thể hiện khá cụ thể trong Luật ngân sách nhà nước năm 2002.

Ngay tại Điều 1 các nhà làm luật đã quy định rõ ràng: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Quy định này đã chứng minh cho nội dung đầu tiên của nguyên tắc ngân sách toàn diện: mọi khoản thu và chi của ngân sách nhà nước đều phải tập trung đầy đủ, toàn bộ vào ngân sách nhà nước; các khoản thu, chi phải được hợp thành một tài liệu duy nhất là bản dự toán ngân sách nhà nước và do Quốc hội quyết định. 

Điều 3 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 cũng chỉ rõ “Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước”. Quy định này cho thấy sự phân cấp trong quản lý ngân sách nhà nước, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Quốc hội trong công tác xây dựng, phê chuẩn và giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước để đảm bảo xây dựng một bản dự toán đầy đủ, toàn diện nhất. 

Bên cạnh đó, Điều 6 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 quy định: “Các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước đều phải được hạch toán, kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp  thời, đúng chế độ”. Khoản 2 Điều 12 cũng viết: “Kế toán và quyết toán ngân sách nhà nước được thực hiện thống nhất theo chế độ kế toán của Nhà nước và Mục lục ngân sách nhà nước”. Bằng cách quy định như vậy, các nhà làm luật muốn rằng mọi khoản thu và chi của ngân sách nhà nước, bất luận là ngân sách trung ương hay ngân sách địa phương, lớn hay nhỏ đều phải được ghi chép đầy đủ vào các tài liệu kế toán ngân sách theo chế độ kế toán hiện hành; phải bảo đảm tính công khai, minh bạch giúp cho các cơ quan hữu trách dễ kiểm soát chúng trong quá trình thực hiện; từng khoản thu và khoản chi phải được thể hiện rõ ràng trong mục lục ngân sách nhà nước.

Đồng thời, tại khoản 2 Điều 8 Luật ngân sách nhà nước năm 2002, các nhà lập pháp đã quy định cụ thể về vấn đề bội chi ngân sách – nội dung quan trọng của nguyên tắc ngân sách toàn diện  : “Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.” Quy định này cho thấy pháp luật không cho phép bất cứ khoản thu, chi nào được để ngoài ngân sách nhà nước, nếu có bội chi ngân sách thì cũng phải dùng khoản thu từ nguồn vay trong nước và ngoài nước để bù đắp. Hơn thế nữa, giữa các khoản thu, chi của bất kỳ đơn vị dự toán nào cũng không được bù trừ cho nhau, mà mọi khoản thu được thống nhất và dùng để thực hiện mọi khoản chi. Đồng thời, khi áp dụng nguyên tắc mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chi cũng phải tuân thủ nguyên tắc này.

Ngoài những quy định trên, nguyên tắc ngân sách toàn diện còn được thể hiện trong nhiều nội dung khác của Luật NSNN năm 2002 như Điều 37, Điều 61,... Có thể nói, về lý thuyết, việc thực hiện nguyên tắc ngân sách toàn diện rất tốt cho việc quản trị tài chính công. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện nguyên tắc này có một vài điểm bất cập mà chính những bất cập đó đã sinh ra một vài ngoại lệ của việc thi hành nguyên tắc ngân sách toàn diện. Trong những trường hợp này, pháp luật cũng chấp nhận nhưng sau đó phải có báo cáo về việc tăng chi, trường hợp xảy ra bội chi thì phải có các giải pháp để khắc phục. 

KẾT LUẬN:Từ những phân tích về nội dung cũng như sự thể hiện trong Luật NSNN năm 2002 của nguyên tắc ngân sách toàn diện, chúng ta thấy được tầm quan trọng của nguyên tắc này trong công tác quản lí nền tài chính quốc gia nói chung và trong công tác quản lí, chỉ đạo ngân sách nhà nước nói riêng. Việc tuân thủ và thực hiện tốt nguyên tắc ngân sách toàn diện cũng là sự thể hiện công tác quản lí, chỉ đạo ngân sách nhà nước một cách khoa học, hiệu quả. Một khi xa rời nguyên tắc này, không những dẫn đến nguy cơ phá vở trật tự quản lí ngân sách nhà nước mà còn tạo điều kiện cho việc vi phạm pháp luật về ngân sách nhà nước gia tăng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010
2. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002

No comments:

Post a Comment