18/10/2014
Những khó khăn, vướng mắc cần khắc phục trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam - Bài tập nhóm - Luật Tài chính
1. Về chính sách:

1.1. Đối tượng chịu thuế:

Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế gián thu điển hình mang tính trung lập cao. Tại mỗi khâu của quá trình sản xuất, khoản thuế phải nộp được chuyển sang khâu tiếp theo cho đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nó không ảnh hưởng gì đến quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên lý thuyết thì như vậy, vì nếu như các khâu này bị đứt đoạn tức là có trường hợp nào đó được liệt vào đối tượng không chịu thuế GTGT thì ưu điểm tránh đánh thuế trùng lắp không còn ý nghĩa nữa. Lúc này doanh nghiệp không phải kê khai nộp thuế đầu ra nhưng cũng không kê khai khấu trừ thuế đầu vào. Điều đó khiến cho việc dự đoán những tác động của thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vì thế các đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ nên giới hạn trong một số ít các trường hợp.

Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó là thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế đối với mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được thông thóang mà còn gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.

Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.

Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế GTGT thì Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.

1.2. Về thuế suất:

Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống chính sách thuế thường chú trọng nhiều đến mục tiêu tài chính (do áp lực của việc thoã mãn nhu cầu chi ngân sách nhà nước) và mục tiêu kinh tế (do yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới). Mục tiêu xã hội lại được thực hiện bằng cách lồng ghép trong chính sách thuế làm mất đi tính trung lập. Tính công bằng thực hiện tương đối ổn định giữa các thành phần kinh tế trong nước nhưng lại thường không ổn định khi thực hiện giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (do hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm). Vì vậy chính sách thuế thường xuyên thay đổi về thuế suất, hệ thống thuế suất khá phức tạp. 

Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ thống nhiều mức thuế suất này.

Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể…

Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất. Giữa các khâu của quá trình sản xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng nộp thuế bị phân biệt đối xử. Chính vì lý do như vậy mà khi doanh nghiệp xác định hướng sản xuất kinh doanh của mình phải hao tốn thêm một lượng chi phí để xây dựng chiến lược mặt hàng, tính toán thuế cho từng sản phẩm, từng giai đoạn.

1.3. Phương pháp tính thuế:

Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng lắp, chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. 

* Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ bán ra * Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó.

* Phương pháp trực tiếp :
Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế * Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó.
Trong đó:
GTGT của hàng hóa, dịch vụ = Doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hóa, dịch vụ bán ra.

Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng 2 phương pháp tính thuế dẫn đến hai "sân chơi", không đảm bảo công bằng giữa đối tượng nộp thuế theo 2 phương pháp khác nhau.

Thực ra khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những hạn chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá đã có thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không công bằng giữa các địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ thuế suất riêng không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của thuế GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm đến tỷ lệ GTGT trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải nộp.

Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện tượng trùng thuế vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của phương pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế GTGT, trong trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến) thì phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.

Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam: Hiện nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, số thuế GTGT nộp của đối tượng này chỉ chiếm gần 20% tổng số thu về thuế GTGT. Và đây cũng là biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn không tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.

1.4. Chế độ hóa đơn chứng từ:

Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.

Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định số 51/2010/NĐ-CP quy định   về hoá đơn bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nhưng vẫn nảy sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.

1.5. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT:
Dù đã qua một thời gian thực hiện không phải là ngắn nhưng những bất cập về khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT vẫn đang được rất nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm.

Thứ nhất là vấn đề khấu trừ thuế. Trước đây vẫn tồn tại một số điểm có quy định trái ngược nhau làm cho đối tượng nộp thuế không biết phải làm như thế nào. Luật thuế GTGT hiện hành đã cố gắng khắc phục những tồn tại đó.

Thứ hai là vấn đề kê khai và hoàn thuế GTGT. Do là một luật thuế mới được áp dụng tại Việt Nam nên để tránh cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, luật thuế GTGT đã có một số quy định về kê khai và hoàn thuế:

Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực ra là tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà nước. Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu nhưng vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này.

Hoàn thuế là một thuộc tính của thuế GTGT đòi hỏi vừa phải chính xác, chặt chẽ vừa phải nhanh gọn thuận lợi cho các đối tượng được hoàn thuế. Chính vì lý do đó mà các quy định của của Luật thuế GTGT cũng cố gắng sao cho các cơ sở kinh doanh được tối đa hóa các quyền để khấu trừ và hoàn thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong các quy định này: Đó là cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng, điều này sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.

Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế.

Trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự án ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.

2. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế:

Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh những thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể,… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo..

Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.

Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.

Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.

Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại một số điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố, cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý.. trình độ của một số cán bộ thuế còn non kém. Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.

Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên đã hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuê trong việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.

* Nguyên nhân của thực trạng trên:

Khi bàn về nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đã gặp phải khi áp dụng thuế GTGT thì người ta thường đề cập tới hai nhóm nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Nói về yếu tố khách quan thì có lẽ nguyên nhân lớn nhất là điều kiện, hoàn cảnh áp dụng thuế GTGT, khi mà chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu, các thành phần cũng như hoạt động kinh tế chưa phát triển một cách đồng đều,… Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì sự xuất hiện của của các đối tượng kinh tế mới cũng chưa được kịp thời đưa vào sự quản lý của luật thuế GTGT.
Còn về yếu tố chủ quan thì tư tưởng, cơ chế chính sách cũng đã hạn chế nhiều thành công của Luật thuế GTGT. Khi mới bắt đầu triển khai sắc thuế này, quan điểm nóng vội muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang thuế GTGT trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công mà không quan tâm đến giải pháp xử lý cần thiết mang tính quá độ cho giai đoạn chuyển tiếp: như không quan tâm đến vấn đề hàng tồn kho, tài sản cố định lớn trước ngày 31/12/1998. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp rất lo lắng và họ đã tìm mọi cách để trốn thuế.

No comments:

Post a Comment