21/11/2014
Tìm hiểu nội dung của chế độ chi ngân sách về xây dựng cơ bản, đánh giá thực tiễn áp dụng trong năm 2013 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản ở VN - Bài tập nhóm 9 điểm - môn Luật Tài Chính
MỞ ĐẦU

Ngân sách nhà nước với vai trò của nó được coi là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chức năng kinh tế cũng như chức năng xã hội của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết. Việc chi đầu tư cho phát triển của ngân sách nhà nước nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự phát triển. Nằm trong nội dung của chi đầu tư phát triển cơ bản không thể thiếu là nội dung chi ngân sách về xây dựng cơ bản. Để tìm hiểu rõ hơn về chi xây dựng cơ bản, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung của chế độ chi ngân sách về xây dựng cơ bản, đánh giá thực tiễn áp dụng trong năm 2013 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản ở VN” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình.

NỘI DUNG

I.Khái quát chung

1.Chế độ chi ngân sách

a.Khái niệm

Chi ngân sách là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước để chi dùng vào những mục đích khác nhau. 
Thu và chi ngân sách là hai mặt thống nhất của hoạt động ngân sách nhà nước. Nếu như thu ngân sách là nhằm thu hút, huy động các nguồn vốn tiền tệ vào ngân sách thì chi ngân sách nhà nước là hoạt động tài chính của nhà nước được tiến hành thông qua việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

b.Đặc điểm hoạt động chi ngân sách

Chi ngân sách nhà nước mang những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, chi ngân sách gắn liền với quyền lực nhà nước và để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. 

Thứ hai, chi ngân sách nhà nước chủ yếu là mang tính cấp phát, hầu hết là không thể thu hồi lại, trừ một số khoản chi có thể thu hồi như chi cho vay….

Thứ ba, vì hoạt động chi ngân sách nhà nước huy động khá lớn cho các nhiệm vụ chi, nên tính hiệu quả của nó chỉ có thể đánh giá trên tầm vĩ mô là hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội chứ không thể dùng các tiêu chí định lượng để đánh giá. Điều này dẫn tới một bài toán nan giải cho nhà nước ta là liệu các nhiệm vụ chi ấy có thật sự hiệu quả, có lãng phí hay không?

Thứ tư, chi ngân sách nhà nước không thể tùy tiện chi, chi bao nhiêu cũng được mà phải phụ thuộc vào khả năng thu và tình hình kinh tế - chính trị - xã hội… của đất nước trong từng thời kì; sao cho Nhà nước có thể cân đối các nhiệm vụ chi, chi có hiệu quả, phù hợp, cần thiết.

Thứ năm, về chủ thể của chi ngân sách nhà nước. Chi ngân sách nhà nước được tiến hành bởi hai chủ thể là:  

- Nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước và nhóm chủ thể sử dụng ngân sách. Nhóm thứ nhất bao gồm: các cơ quan tài chính (Bộ tài chính, sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phòng tài chính quận huyện thị xã trực thuộc tỉnh, thành phố); sở kế hoạch và đầu tư, kho bạc nhà nước.

- Nhóm chủ thể thứ hai có thể khái quát thành ba nhóm nhỏ là: 
 + Các cơ quan nhà nước (tham gia chỉ với tư cách chủ thể được hưởng kinh phí ngân sách nhà nước cấp)
+ Các đơn vị - kể cả đơn vị sự nghiệp có thu. 
+ Các chủ dự án sử dụng ngân sách nhà nước.

c.Phân loại chi ngân sách nhà nước
Có nhiều cách phân loại chi ngân sách nhà nước dựa vào các tiêu chí khác nhau: 

- Dựa vào đối tượng chi ta có thể có các loại chi ngân sách như sau: 
+ Chi cho con người; 
+ Chi cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ; 
+ Chi mua sắm, sửa chữa tài sản, trang thiết bị; 
+ Chi khác. 

- Dựa vào mục tiêu chi ta có hai loại như sau: 
+ Chi tích lũy
+ Chi tiêu dùng
Cách chia này giúp cho các cơ quan nhà nước có thể phân tích, đánh giá kết quả chi gắn với quá trình phân phối tổng sản phẩm và phản ánh được mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng của nhà nước trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, nó lại không phản ánh được mối quan hệ giữa chi ngân sách nhà nước với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, thêm vào đó, có một số khoản chi ta không thể phân biệt được đâu là chi tích lũy đâu là chi tiêu dùng. 

- Dựa vào các lĩnh vực chi, ta có: 
+ Chi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội 
+ Chi cho quản lý nhà nước 
+ Chi cho quốc phòng - an ninh 
+ Chi khác
Cách chia này có ưu điểm là ta có thể đánh giá được các mặt hoạt động của nhà nước qua thực trạng hoạt động từng lĩnh vực để thấy được tính đúng đắn của từng khoản chi. 

- Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành phân loại chi ngân sách nhà 
nước thành ba loại là: 
+ Chi đầu tư phát triển: gồm chi cho xây dựng cơ bản, góp vốn đầu tư phát triển kinh tế…, những khoản chi này không phải để tiêu dùng trong hiện tại, thường không mang tính ổn định nhưng lại có hiệu lực tác động lâu dài. 
+ Chi thường xuyên: mang tính chất tiêu dùng, tính ổn định tương đối song hiệu lực tác động của nó lại trong thời gian ngắn. 
+ Chi khác gồm bốn nhóm: chi trả nợ bao gồm cả gốc lẫn lãi, tiền vay của nhà nước; chi viện trợ cho nước ngoài; chi cho vay ngân sách trung ương; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi bổ sung ngân sách từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. 
Đây là cách chia phổ biến, được nhiều người đồng thuận.

d.Nguyên tắc chi ngân sách nhà nước

Hoạt động chi ngân sách nhà nước phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản, được quy định tại Điều 8 Luật ngân sách nhà nước 2002 như sau: 

1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

2.Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.”
Và tại Khoản 4 Điều 5 như sau: 
“ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng.”
Ta có thể tóm tắt lại các nguyên tắc như sau: 
- Nguyên tắc cân bằng thu – chi, đây là bài toán khó mà rất nhiều quốc gia chứ không riêng gì Việt Nam chưa thực hiện được. 
- Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích 
- Nguyên tắc chi tiết kiệm, có hiệu quả

e.Điều kiện chi ngân sách nhà nước

Theo quy định tại Điều 5 luật Ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước phải tuân theo các điều kiện sau: 

- Khoản chi đó phải có trong dự toán được giao trừ các trường hợp sau: 
+ Vào đầu năm ngân sách dự toán và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định thì cơ quan tài chính các cấp được tạm cấp kinh phí cho các dự sán sử dụng ngân sách nhà nước để đảm bảo hoạt động bình thường của nhà nước; 
+ Trường hợp có tăng hoặc giảm chi so với dự toán được giao;
+ Những khoản chi đột xuất ngoài dự toán nhưng cần thiết, không thể trì hoãn: dập tắt dịch bệnh, khôi phục hậu quả bão lũ…. 

- Chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức chi do nhà nước quy định hoặc được quy định trong quy chế chỉ tiêu nội bộ của đơn vị. 

- Chi ngân sách nhà nước phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được thủ trưởng đơn vị đó chuẩn chi. 

- Chi ngân sách nhà nước phải có đủ hồ sơ, giấy tờ hợp pháp, hợp lệ thì mới được duyệt chi.

f.Phương thức cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước
Có hai phương thức là cấp phát theo lệnh chi tiền và cấp phát theo dự toán

2.Chế độ chi xây dựng cơ bản

a.Khái niệm chi ngân sách về xây dựng cơ bản

Chi về xây dựng cơ bản là một trong những bộ phận của chi đầu tư phát triển, thuộc mục chi đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn, theo quy định tại Điều 31 và 33 Luật ngân sách nhà nước 2002. 

Chi ngân sách về xây dựng cơ bản: là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông…) các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình và dự án phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích qúa trình vận động vốn của doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

b.Nội dung chi ngân sách về xây dựng cơ bản

Hoạt động chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản của Nhà nước bao gồm đầu tư vào các công trình công nghiệp, công trình dân dụng và công trình công cộng, các công trình phát triển khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục, các công trình hành chính sự nghiệp và mạng lưới công trình kỹ thuật hạ tầng thuộc khu vực Nhà nước.

- Mục đích: phục vụ cho lợi ích và sự phát triển của toàn xã hội, mọi người, mọi ngành nghề, lĩnh vực (lợi ích công cộng). không nhằm mục đích lợi nhuận và kinh tế như việc chi đầu tư xây dựng cơ bản của các công ty hay doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, góp vốn cổ phần liên doanh bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết, các dự án có sự tham gia của nhà nước theo quy định của pháp luật, dự án của một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân theo quyết định của chính phủ, các dự án quy hoạch ngành lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, các công trình các dự án phát triển kinh tế xã hội.

- Nguồn vốn: cần một số lượng vốn lớn từ ngân sách nhà nước. Mỗi một năm ngân sách, Nhà nước lại trích một phần ngân sách rất lớn cho hoạt động này trong khi không tính đến khả năng thu hồi lại vốn (do đây là hoạt động nhằm phục vụ công cộng) mà hướng đến sự phát triển của toàn xã hội trong tương lai. Do đó, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhà nước ta huy động nhiều nguồn vốn khác nhau tham gia đầu tư xây dựng. Mỗi nguồn vốn có nội dung, đối tượng sử dụng khác nhau phù hợp với quá trình phát triển trong từng giai đoạn lịch sử. Trên góc độ quản lý kinh tế, tài chính vốn đầu tư được phân loại theo đối tượng sử dụng vốn như sau.

+ Vốn Ngân sách nhà nước bao gồm cả ngân sách Trung Ương và ngân sách địa phương được hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân, vốn khấu hao cơ bản và một phần vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản và các dự án không có khẳ năng thu hồi vốn, những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, trồng rừng đầu nguồn, rừng quốc gia, rừng phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, các trạm, trại, động thực vật, nghiên cứu giống mới, cải tạo vốn, các công trình văn hoá – xã hội, y tế giáo dục, nghiên cứu khoa học, các công trình quản lý nhà nước, công trình an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái.

+ Vốn tín dụng đầu tư nhà nước được hình thành do chuyển tư ngân sách nhà nước sang tổng cục đầu tư và phát triển để vay theo hình thức tín dụng ưu đãi, vốn do nhà nước vay viện trợ của nước ngoài qua hệ thống ngân sách nhà nước được chuyển sang cho tổng cục đầu tư và phát triển, vốn thu nợ các dự án vay ưu đãi đối với các dự án đã đến hạn trả nợ. nguồn vốn này được dùng để vay ưu đãi đối với các dự án, các trương trình mục tiêu quốc gia do nhà nước chỉ định.

+ Vốn tín dụng của ngân hàng đầu tư và phát triển do ngân sách nhà nước cấp, vốn do ngân hàng tự huy động. Vốn do nhà nước vay viện trợ của nước ngoài được chuyển sang cho ngân hàng đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng đổi mới kỹ thuật công nghệ, các xản xuất kinh doanh, dịch vụ theo kế hoạch đầu tư của nhà nước và chủ đầu tư có trách nhiệm trả.

+ Nguồn vốn tự cân đối dành cho đầu tư của các đơn vị kinh tế cơ sở ( các xí nghiệp, tổ chức kinh tế dịch vụ ) được hình thành từ lợi nhuận khấu hao cơ bản, tiền thanh lý tài sản và các nguồn vốn theo quy định của nhà nước. Nguồn vốn này được dùng để đầu tư xây dựng, cải tạo mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và các công trình phúc lợi của đơn vị.

+ Vốn huy động của nhân dân được đầu tư vào các công trình dự án trực tiếp đem lại lợi ích cho người cho người góp vốn như các công trình thuỷ lợi, công trình giao thông, đường xá …

- Hoạt động: xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội, hạ tầng kỹ thuật,… Hay nói cách khác: đây là hoạt động chi ngân sách cho việc xây dựng các công trình có tính chất xây dựng như: công trình giao thông, thủy lợi, thủy điện, cầu cảng, xây dựng nhà cửa, công sở, nhà máy phục vụ sản xuất phát triển kinh tế; các công trình phúc lợi xã hội như nhà văn hóa, công viên, rạp chiếu,…

- Việc lập dự toán cho chi xây dựng cơ bản phải căn cứ vào những dự án xây dựng có đủ các điều kiện bố trí vốn theo quy định tại Quy chế quản lý vốn đầu tư và xây dựng và phù hợp với khả năng ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính năm năm đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai của các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định đang thực hiện.

- Điều kiện để được cấp phát vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản: có đầy đủ thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản; được ghi trong cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước; có quyết định thành lập ban quản lý dự án (trong trường hợp phải thành lập ). Bổ nhiệm trưởng ban, kế toán trưởng và chủ đầu tư phải mở tài khoản cấp vốn; đã tổ chức đấu thầu theo quy chế đấu thầu (trừ những dự án được phép chỉ định thầu); có khối lượng xây dựng cơ bản đã hoàn thành, đủ điều kiện được cấp phat thanh toán hoặc được cấp phát vốn tạm thời.

- Trình tự cấp phát vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản: Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, nghiên cứu, xây dựng các chính sách, chế độ quản lý vốn đầu tư và xây dựng để ban hành hoặc theo thẩm quyền hoặc trình tự thủ tướng ban hành. Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch nhà nước xét duyệt, Bộ tài chính thông báo cho các bộ, các ngành thuộc ngân sách trung ương và các địa phương về việc cấp phát vốn kho bạc nhà nước sẽ chuyển tiền theo kế hoạch để thực hiện việc cấp phát. Trên cơ sở kế hoạch cấp phát và các căn bản cần thiết (căn cứ cấp phát) chủ đầu tư sẽ nhận được vốn cấp phát thanh toán, hoặc vốn tạm ứng (nếu thuộc đối tượng cấp phát tạm ứng).
Vì vậy, chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn đề sức quan trọng nhưng cũng rất nan giải và phức tạp. Nó đòi hỏi phải có quy định chặt chẽ của pháp luật để đảm bảo cho quá trình đầu tư đạt hiệu quả tránh sự thất thoát, lãng phí trong quá trình chi và sử dụng vốn ngân sách.

II.Thực tiễn chế độ chi ngân sách về xây dựng cơ bản năm 2013

1.Thành tựu

 Căn cứ vào Dự toán chi ngân sách nhà nước, chi ngân sách trung ương, chi ngân sách địa phương theo cơ cấu chi năm 2013 (Kèm theo Quyết định số 3299/QĐ-BTC ngày 27/12/2012 của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán Ngân sách nhà nước năm 2013) thì tổng chi ngân sách nhà nước là 978.000 tỷ đồng trong đó tổng chi ngân sách trung ương là 550.325 tỷ đồng và ngân sách địa phương là 427.675 tỷ đồng. Bên cạnh đó dựa vào Dự toán chi ngân sách trung ương theo lĩnh vực năm 2013 (Kèm theo Quyết định số 3299/QĐ-BTC ngày 27/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán ngân sách nhà nước năm 2012) thì chi cho lĩnh vực đầu tư phát triển của trung ương là 550.325 tỷ đồng, trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 81.900 tỷ đồng, chiếm khoảng 93,8% tổng chi đầu tư phát triển và chiếm 14,9% tổng chi ngân sách trung ương 2013. Như vậy có thể thấy vốn chi cho xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng khá lớn trong chi đầu tư phát triển của trung ương cũng như trong tổng chi ngân sách trung ương năm 2013. 

Trong thời gian qua, những thành tựu về đầu tư xây dựng đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Việc áp dụng pháp luật về chi ngân sách cho  xây dựng cơ bản đã giúp cho các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư nhà nước đúng mục tiêu, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, phát huy được hiệu quả. Tạo điều kiện đưa hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trong cả nước đi vào trật tự và thích ứng với nền kinh tế thị trường mở cửa, hợp tác và hội nhập. Khuyến khích nhiều thành phần kinh tế huy động các nguồn lực đầu tư phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ phát triển, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

2.Hạn chế

 Bên cạnh những thành tựu đó lĩnh vực này cũng đã bộc lộ khá nhiều yếu kém như: chất lượng, hiệu quả công trình chưa cao, đầu tư chưa tập trung hoàn chỉnh, đặc biệt con số thất thoát vẫn còn quá lớn… Dù thực tế có vô số những cuộc thanh tra, kiểm tra, những vụ án hình sự và hàng trăm cuộc hội thảo nhằm hạn chế và tìm ra nguyên nhân tiêu cực trong lĩnh vự xây dựng cơ bản, nhưng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Không ai có thể đưa ra con số chính xác về tỷ lệ thất thoát, lãng phí tham nhũng là bao nhiêu % trên tổng số nguồn vốn trong đầu tư cho xây dựng cơ bản. Mỗi một đơn vị có trách nhiệm khác nhau lại đưa ra con số khác nhau như: 10%, 20% hay thậm chí là 50%. Trong cuộc hội thảo tầm cỡ quốc gia gần đây với tiêu chí: “Làm thể nào để chống thất thoát trong xây dựng cơ bản” người ta đã công bố hàng năm, riêng thất thoát trong xay dựng cơ bản đã lên tới 25000 tỷ đến 30000 tỷ đồng. Số tiền thất thoát đó đủ để trả lương cho toàn bộ công chức và viên chức khối hành chính sự nghiệp. Con số trên đã cho thấy thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng của nhà nước đã và đang ở mức độ nghiêm trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích xã hội, đặc biệt là lòng tin của nhân dân.

Hiện nay, thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng là điểm nóng nhạy cảm, được dư luận quan tâm và cả xã hội dõi theo. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là tình trạng này đang diễn ra phổ biến ở các dự án thuộc khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là các dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng mất cân bằng về tài chính nhà nước.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay ở nước ta, nhưng trong phạm vi bài tập chúng em xin phép phân tích một phần thực trạng và rút ra một vài nguyên nhân cơ bản sau đây:

a.Về xác định chủ trương đầu tư
Hầu hết các dự án được đầu tư đều xuất phát từ nhu cầu thực tế và trên cơ sở quy hoạch chung, nhưng trên thực tế có trường hợp không quy hoạch hoặc quy hoạch chưa hợp lý phải điều chỉnh lại, hoặc trong quá trình lập dự án do khảo sát không kỹ, lựa chọn địa điểm, công nghệ chưa thích hợp, đầu tư không đồng bộ giữa các hạng mục, xác định quy mô xây dựng công trình vượt quá nhu cầu sử dụng… Các nguyên nhân này đều dẫn đến thất thoát, lãng phí và tiêu cực khá lớn.

Nguyên nhân dẫn đến quyết định chủ trương sai một phần do trình độ, nhận thức, quan điểm của người có thẩm quyền chưa đủ tầm, một phần do công tác kiểm định của cơ quan chuyên môn tham mưu cho người có thẩm quyền. Do đó không ít các dự án sau khi ra quyết định đầu tư, việc triển khai thực hiện các dự án đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng thì không sử dụng, sử dụng không hết công suất hoặc công nghệ lạc hậu nên chất lượng sản phẩm làm ra thấp, giá thành cao, kinh doanh thua lỗ.

Có thể kể đến rất nhiều ví dụ như: Trường THCS Cộng Hòa (xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, Hà Nội) từ tháng 7/2010 được đầu tư xây mới 2 khối nhà 2 tầng nhưng gần hoàn thiện thì bỏ hoang, đến nay có chỗ mọc rêu xanh. Theo lãnh đạo địa phương, tổng số vốn đầu tư của dự án “sửa chữa và xây mới” 10 phòng học, nhà phòng bộ, phòng chức năng, sân trường, tường rào, khu vệ sinh… tại trường học này là hơn 11 tỷ đồng.

Hay tại xã Quảng Phú Cầu (huyện Ứng Hòa, Hà Nội) đã có ba công trình nước sạch. Nhưng vẫn có chủ trương đầu tư thêm các công trình khác, hệ thống cấp nước sinh hoạt được phê duyệt xây dựng từ năm 2008 và đã khởi công từ năm 2010 với số vốn dự kiến hơn 8 tỉ đồng. Đến năm 2011, nhà máy nước sạch cơ bản hoàn thành. Các đường ống nước cũng đã được đưa về để chuẩn bị lắp đặt nhưng từ đó đến nay, công trình không được tiếp tục thi công và nhà máy nước sạch bị bỏ hoang kể từ khi hoàn thành và trở thành... trại nuôi gà của một hộ dân gần đó.

Ngoài ra, còn tình trạng đầu tư tràn lan, công nghệ lạc hậu và kém hiệu quả khá phổ biến. Điểm lại từ ngày triển khai công cuộc đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều đợt đầu tư “theo phong trào”, nhiều “hội chứng đầu tư” đã xuất hiện. Nào là đua nhau đầu tư xây dựng nhà máy bia, thuốc lá, tiếp đến là xi măng lò đứng, mía đường, lắp ráp xe máy, sản xuất bột sắn, đánh bắt xa bờ, xây dựng cảng biển, khu công nghiệp và khu kinh tế, kể cả kinh tế cửa khẩu. Kế đến là bột giấy, cán thép, thủy điện nhỏ và vừa, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị, “tận thu” khoáng sản, trường đại học, sân golf rồi sân bay…Trong số các dự án đó, có phần do doanh nghiệp đầu tư nhưng một phần không nhỏ bắt nguồn từ đầu tư công của trung ương và địa phương lẫn doanh nghiệp nhà nước. Tiếc rằng, cho tới nay chưa thấy có công trình tổng kết nào phân tích rõ xem những dự án ấy hiệu quả tới đâu, lãng phí thế nào và đã tác động ra sao đến những bất ổn vĩ mô và làm cho nền kinh tế nước ta kém hiệu quả.

Từ những phân tích trên ta nhận thấy: nguyên nhân của vấn đề gây thất thoát, lãng phí do những sai lầm trong chủ trương đầu tư ở các cấp, các ngành, địa phương là do: 
- Việc bàn bạc, cân nhắc tình toán về khía cạnh hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, môi trường đầu tư còn hời hợt, thiếu cụ thể. 
- Có không ít trường hợp khi quyết định về chủ trương đầu tư còn nặng về phong trào, chạy theo thành tích nên kéo theo tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả.

b.Về khâu thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán

Công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán ở nhiều địa phương, nhiều ngành còn tình trạng chưa tuân thủ các quy định về nội dung được phê duyệt trong quyết định đầu tư của dự án, áp dụng sai định mức, sai đơn giá, chậm tiến độ hoàn thành dự án, … đã tạo khe hở, khó khăn cho công tác quản lý, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn:

Một là, tình trạng một số cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, dự toán chi tiết thiếu chính xác dẫn đến phải bổ sung, điều chỉnh nhiều lần, thậm chí có không ít dự án vừa thiết kế vừa thi công đến giai đoạn cuối hoặc khi xong công trình mới trình duyệt hoặc xin đơn điều chỉnh tổng dự toán nhằm hợp thức hóa các chi phí đã phát sinh.

Hai là, chế độ nhà nước quy định về chi phí tư vấn được tính tỷ lệ thuận với chi phí công trình. Vì vậy, trong thực tế các nhà thiết kế có xu hướng tăng quy mô và hệ số an toàn của công trình cao hơn mức bình thường để tăng giá trị công trình nhằm tăng chi phí thiết kế để hưởng lợi mà ít chú ý đến nghiên cứu thiết kế hợp lý để giảm bớt các khối lượng không cần thiết. Hiện tượng này cũng dẫn đến phê duyệt giá trị dự toán không sát thực tế, gây lãng phí và thất thoát vốn đầu tư đồng thời tạo sơ hở để giảm khối lượng trong quá trình thi công nhằm hưởng lợi.

Ba là, quá trình khảo sát lập dự án đầu tư cũng tạo ra khe hở gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản của nhà nước. Để đơn giản hóa trong khâu trình duyệt chủ trương đầu tư, nhiều chủ đầu tư chia dự án lớn thành nhiều dự án nhỏ hoặc nhiều nhiều hạng mục chỉ tạm tính nhằm mục đích làm cho tổng mức đầu tư thấp đi. Do vậy trong quá trình thi công đã vượt mức dự toán khá lớn có khi gấp đôi so với tổng mức vốn đầu tư đã duyệt ban đầu nên phải điều chỉnh tổng mức và phải duyệt lại. Thậm chí có dự án khi hoàn thành cũng không duyệt lại tổng mức vốn mà lấy số vốn thực tế đã cấp làm quyết toán. Tình trạng này cũng gây sơ hở cho công tác quản lý trong quá trình thực hiện dự án đến lãng phí, thất thoát vốn đầu tư một cách hợp pháp đồng thời tạo lỗ hổng cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng có thể xảy ra.

Bốn là, một hiện tượng khác cũng khá phổ biến là khi lập và phê duyệt tổng dự toán, dự toán không theo sát các định mức kinh tế kỹ thuật của nhà nước đã ban hành, không theo sát với thực tế của từng khu vực, giá cả thị trường trong từng thời kỳ dẫn đến phê duyệt tổng mức đầu tư quá chênh lệch với thực tế.
Năm là, chất lượng thiết kế của một số dự án không đảm bảo yêu cầu, không phù hợp với thực địa cảnh quan thực tế, cũng như yêu cầu kỹ thuật dấn đến phải sửa đổi, bổ sung thiết kế nên chất lượng công trình không đảm bảo.

Ví dụ như: Kết quả thanh tra của Thanh tra Nhà nước tỉnh Bình Định về việc chấp hành chính sách pháp luật trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm công, thu chi tài chính tại 29 hạng mục công trình với tổng mức đầu tư trên 108,6 tỷ đồng do Sở Y tế tỉnh Bình Định làm chủ đầu tư cho thấy nhiều sai phạm trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị y tế. Cụ thể nhiều hạng mục công trình như Nhà mổ Bệnh viện đa khoa tỉnh; các khoa dinh dưỡng thuộc Trung tâm Y tế huyện Vân Canh, Trung tâm Y tế huyện An Lão và khoa chống nhiễm khuẩn Trung tâm Y tế Vân Canh được đầu tư từ đầu năm 2011 nhưng đến 2013 chưa hoàn thành, hoặc hoàn thành nhưng chưa nghiệm thu đưa vào hoạt động đúng kế hoạch, gây lãng phí vốn đầu tư và chưa phát huy được hiệu quả.

Ngoài ra, do việc thi công và giám sát thi công thiếu trách nhiệm nên đã để một số hạng mục công trình thay đổi so với thiết kế, nhưng không lập biên bản xử lý kỹ thuật và không báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh mà tự ý chuyển đổi hạng mục rồi khấu trừ, thanh toán theo đúng giá trị khối lượng ký kết hợp đồng; việc quản lý chất lượng một số công trình không tốt nên bị xuống cấp như sơn dầu bị bong tróc, hệ thống điện, nước bị hư hỏng và công tác quyết toán vốn đầu tư thực hiện chưa đúng quy định. Kết quả thanh tra 29 hạng mục công trình cho thấy chủ đầu tư đã thanh toán sai cho các đơn vị thi công và tư vấn trên 2,535 tỷ đồng.

Qua thanh tra 13 gói thầu mua sắm trang thiết bị y tế với tổng số vốn hơn 62 tỷ đồng, cũng do Sở Y tế Bình Định làm chủ đầu tư, kết quả cho thấy, nhiều thiết bị máy móc y tế đã được mua sắm từ năm 2008-2011 vẫn chưa được đưa vào hoạt động. Chủ đầu tư chỉ lo mua thiết bị mà không đào tạo nhân lực vận hành, nên máy móc đem về đành "đắp chiếu”. 

c.Về vốn trong đầu thầu xây dựng

Đấu thầu là hình thức tiến bộ trong chọn thầu xây dựng, mục tiêu của đấu thầu là tạo ra một môi trường cạnh tranh và công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế cao cho các nhà thầu và chủ đầu tư. Tuy nhiên, trong thực tế công tác đấu thầu đã và đang diễn ra nhiều tiêu cực.

Năm 2013, Thanh tra Bộ xây dựng đã thành lập 44 đoàn thanh tra, tổng hợp báo cáo kết quả của các đoàn thanh tra,  các sai phạm và hạn chế trong công tác đấu thầu được phát hiện điển hình như: thực hiện công tác mua sắm khi chưa có văn bản giao nhiệm vụ, áp dụng chưa đúng hoặc áp dụng các nghị định hướng dẫn Luật đấu thầu năm 2005 đã hết hiệu lực; Đăng báo mời thầu chưa đầy đủ theo quy định của Luật đấu thầu; công tác lập hồ sơ mời thầu, lựa chọn nhà thầu chưa chính xác, minh bạch; chuyên gia xét thầu không có các chuyên gia đánh giá về mặt tài chính, pháp lí, một số thành viên tổ chuyên gia còn yếu trong nghiệp vụ đấu thầu....

Do tính chất đấu thầu cạnh tranh khốc liệt, một số nhà thầu đã kê khai hồ sơ dự thầu không trung thực, đưa ra các thông tin sai lệch. Quy chế đấu thầu thiếu chặt chẽ, không công khai minh bạch đã dẫn đến việc một nhà thầú không đủ tiêu chuần lại trúng thầu, nhà thầu trúng thầu nhưng sau đó chia phần cho các nhà thầu còn lại, thông thầu, bán thầu, hay giành giật gói thầu bằng giá quá thấp, bằng 28,9% giá gói thầu (gói 2B hầm đèo Hải Vân), hoặc chênh lệch lên tới 400 tỷ đồng (gói thầu xây dựng cảng Cái Lân)... tình trạng bỏ thầu thấp, kéo dài thời gian thi công, đợi thay đổi giá để nâng giá,. Việc này dẫn đến hậu quả là giá lúc đấu thầu thì thấp nhưng khi quyết toán lại thành giá cao, trong khi chất lượng công trình lại kém, thời gian thi công kéo dài, chi phí phát sinh lớn.

Ví dụ: Thanh tra Bộ Giao thông vận tải, đã phát hiện một số sai phạm trong 3 công trình nạo vét, duy tu luồng hàng hải năm 2013 gồm: luồng Hòn Gai – Cái Lân, luồng Vũng Tàu – Thị Vải và luồng Soài Rạp – Hiệp Phước: Tại công trình nạo vét, duy tu luồng Hòn Gai – Cái Lân, công ty Bảo Quân là đơn vị không có phương tiện, nhân lực, kinh nghiệm thi công nạo vét luồng hàng hải, nhưng sau khi nhận thầu từ đơn vị trúng thầu là Tổng công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco) đã chuyển nhượng toàn bộ công việc công ty Tân Việt thực hiện để hưởng khoản chênh lệch 548,45 triệu đồng. Cũng với thủ đoạn trên, tại công trình nạo vét, duy tu luồng Vũng Tàu – Thị Vải năm 2013, công ty cổ phần đầu tư, xây dựng và nạo vét đường thủy (Ciwaco) tuy không có phương tiện thi công phù hợp nhưng vẫn nhận làm thầu phụ của Vinawaco, rồi chuyển nhượng toàn bộ cho công ty Song Thương và hưởng chênh lệch 1,26 tỷ đồng.

Như vậy, công tác đấu thầu năm 2013 vẫn tồn tại nhiều tiêu cực, gây thất thoát, lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do những lỗ hổng trong pháp luật về đấu thầu và công tác tổ chức, quản lí, giám sát đấu thầu, hơn nữa là  những nhà thầu luôn có tư tưởng chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm bằng mọi cách luồn lách  để trúng thầu.

d.Về công tác chuẩn bị xây dựng

Công tác chuẩn bị xây dựng bao gồm nội dung sau: điều tra khảo sát, lập hồ sơ thiết kế xây dựng, lập tổng dự toán và dự toán chi tiết, chuẩn bị mặt bằng xây dựng .Trong đó nội dung chuẩn bị mặt bằng xây dựng với trọng tâm là công tác đền bù, hoạt động giải phóng mặt bằng để xây dựng gây thất thoát và lãng phí vốn rất lớn.
   
Trong những năm gần đây thì thất thoát trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng diễn ra rất phổ biến nguyên nhân là do những sai phạm mà nhà thầu và chủ đầu tư gây ra điển hình là những hành vi tiêu cực sau: Bớt xén tiền đền bù của dân vùng có dự án thi công theo quy định dẫn đến người dân không đồng tình hoặc gây khó khăn trong đời sống nên không chịu di dời; hay việc đền bù không thoả đáng, không đúng đối tượng; chi trả tiền đền bù không theo định mức, khung giá Nhà nước và địa phương ban hành; khai khống diện tích, khối lượng tài sản được đền bù; làm giả hồ sơ đền bù... từ đó làm tăng thêm vốn đầu tư xây dựng công trình và chính việc đền bù không thoả đáng, hợp lý,không tuân theo quy định làm cho việc bàn giao mặt bằng xây dựng không đúng thời hạn quy định, dẫn đến chậm tiến độ thi công công trình, gây lãng phí thất thoát vốn. 

Ví dụ như: Dự án mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 1A đoạn Nam tuyến TP. Hà Tĩnh – Kỳ Anh được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại quyết số 224/QĐ-BGTVT ngày 30/01/2011 do Sở GTVT làm chủ đầu tư được khởi công từ cuối tháng 7/2013. Thế nhưng, trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng hiện vẫn còn có nhiều khuất tất, mập mờ, làm cho người dân không khỏi bất bình khi chưa được đền bù thỏa đáng. Do đó làm chậm tiến độ thi công công trình gây thất thoát vốn.
   
Ngoài ra trong công tác giải phóng mặt bằng, chính sách của Đảng và Nhà nước được chủ đầu tư tuyên truyền đến người dân còn ít khiến cho việc dân hiểu và thực hiện còn hạn chế; công tác khảo sát đền bù còn chậm và không sát thực tế…dẫn đến tình trạng một số hộ dân khi biết Nhà nước có chủ trương thu hồi đất và đền bù thì lập tức xây dựng hoặc trồng cây trên phần đất đó, tình trạng này làm thiệt hại cho NSNN.
   
Bên cạnh đó thì thất thoát trong khâu khảo sát thiết kế diễn ra khá phổ biến việc khảo sát không đảm bảo chất lượng, chưa đủ mẫu, chưa sát với thực tế hoặc không đúng với những tiêu chuẩn, quy chuẩn dẫn đến việc phải khảo sát lại hoặc phải phải thay đổi, bổ sung, điều chỉnh thiết kế, phương án thi công nhiều lần, kéo theo là làm thay đổi dự toán, làm chậm tiến độ thi công, gây lãng phí thời gian, tiền của của dự án; phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng vật tư, vật liệu không phù hợp với loại công trình (sử dụng vật liệu quá đắt tiền cho công trình cấp thấp);việc chọn hệ số an toàn quá cao, tính toán không chặt chẽ gây lãng phí vật liệu xây dựng.

Như vậy không chỉ trong khâu xác định chủ đầu tư,trong đấu thầu xây dựng mà trong công tác chuẩn bị xây dựng cũng đã làm thất thoát và lãng phí gây thiệt hại cho NSNN.

e.Về khâu tổ chức thực hiện dự án

Lãng phí trong việc tổ chức thực hiện dự án khá lớn, được đánh giá vào khoảng 16% tổng vốn thất thoát. Là người được nhà nước giao toàn quyền sử dụng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước để xây dựng công trình, chủ đầu tư được toàn quyền tổ chức từ khâu lập dự án đầu tư, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đến khâu tổ chức thực hiện dự án đầu tư bao gồm: tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng và được quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan của nhà nước công bố công khai các quy định có liên quan đến công việc đầu tư như quy hoạch xây dựng, đất đai, tài nguyên… và được quyền phê duyệt thiết kế dự toán những hạng mục công trình góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội.

Trong việc bố trí danh mục các dự án đầu tư quá phân tán, dàn trải không sát với tiến độ thi công của dự án đã được phê duyệt, bố trí kế hoạch đầu tư cho dự án không đủ điều kiện dẫn đến kéo giài thời gian thi công, chậm đưa vào sử dụng làm giảm hiệu quả dòng vốn đầu tư; bố trí kế hoạch đầu tư chỉ chú trọng kế hoạch khối lượng, không xây dựng kế hoạch vốn dẫn đến phát sinh mất cân đối giữa kế hoạch khối lượng từ đó làm phá sinh hiện tượng thừa thiếu vốn giả tạo cho các dự án; bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm cho các dự án không theo sát tiến độ đầu tư thực hiện dự án đã được cấp thẩm quyền phê duyệt trong quyết định đầu tư. 

Bên cạnh đó, việc thi công xây lắp công trình còn gây thất thoát lãng phí. Thi công không đảm bảo khối lượng theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi công không đúng thiết kế dẫn đến phải phá đi làm lại, dử dụng vật liệu không đảm vảo chất lượng; khai khống khối lượng; ăn bớt vật liệu trong quá trình thi công, chất lượng công trình không đảm bảo…

Ví dụ như: Bộ Giao thông - Vận tải gấp rút cơ cấu lại công tác tổ chức, điều hành 18 dự án nhằm giúp Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tập trung vào nhiệm vụ chính là nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách và hàng hóa. Bên cạnh đó, tiến độ, tổng mức đầu tư nhiều dự án hạ tầng đường sắt bị vỡ cũng là những giọt nước tràn ly dẫn tới quyết định quan trọng này.  Cụ thể, một số công trình trọng điểm dù được bố trí đủ vốn, nhưng chậm đưa vào khai thác, như 3 dự án thông tin tín hiệu, Dự án Tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông; hoặc bố trí nguồn lực không hợp lý dẫn tới thi công dang dở, như tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân…

Việc các chủ đầu tư không chấp hành một cách nghiêm túc trình tự đầu tư và xây dựng, thiếu ý thức tiết kiệm trong tính toán chi tiêu nên đã tạo ra kẽ hở gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản của nhà nước thể hiện ở một số khâu sau: Thứ nhất: Nâng giá, tăng khối lượng nghiệm thu, thanh toán giữa A – B. Thứ hai: Quá trình giám sát thi công không chặt chẽ, không bám sát hiện trường… để nhà thầu sử dụng không đúng chủng loại đầu tư, ăn bớt vật tư gây lãng phí. Thứ ba: Thất thoát vốn trong khâu nghiệm thu đã tạo nên sự thiệt hại “kép” vì chính từ khâu nghiệm thu không đúng, nhà thầu thu lợi bất chính được một khoản tiền. Nhà thầu đem khoản tiền này hối lộ lại cho chủ đầu tư, hối lộ bên có thẩm quyền để mua dự án, để được thi công, làm tê liệt công tác thẩm định, duyệt dự án, dẫn đến quyết định sai chủ trương đầu tư gây lãng phí lớn cho xã hội; hối lộ cơ quan bố trí kế hoạch để được bố trí danh mục dự án khác lại thiếu vốn; hối lộ nhà thiết kế, cơ quan thanh toán vốn, cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…

Thực trạng nghiệm thu khống khối lượng công trình trong thời gian qua ngày càng trầm trọng, kéo dài từ năm này qua năm khác kéo theo từ chỗ nghiệm thu sai về khối lượng, chất lượng công trình ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do: Thứ nhất: Cơ chế hiện hành chưa có quy định rõ ràng trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi giám sát, nghiệm thu từng phần cũng như toàn bộ công trình; các hình thức xử phạt các hành vi vi phạm quy định về quản lý chất lượng còn thấp (mức phạt cao nhất là 5 triệu đồng trong khi đó giá trị khối lượng nghiệm thu không đúng có khi lên tới hàng tỷ đồng). Thứ hai: Trình độ và năng lực tổ chức của các Ban quản lý dự án còn nhiều khiếm khuyết.

Theo số liệu báo cáo của Bộ Tài chính, nợ xây dựng cơ bản ở các địa phương hiện rất lớn. Tình trạng nợ nần dây dưa kéo dài cả chục năm, không ít doanh nghiệp chật vật hàng năm trời để được thanh toán khoản nợ nhưng chẳng có một con số thống kê chính thức nào về loại nợ này Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, tính đến tháng 12-2012, tổng số nợ đọng trong xây dựng cơ bản trên địa bàn cả nước lên tới 85 nghìn tỷ đồng. Để giải quyết tình trạng này, chỉ thị 27/CT-TTg ban hành tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu từ năm 2013, các địa phương phải ưu tiên bố trí vốn để xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản trong kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách địa phương và coi đây là chỉ tiêu bắt buộc trong quy trình tổng hợp, bố trí và giao kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách địa phương. Như vậy việc chi ngân sách về xậy dựng cơ bản chưa đạt hiệu quả, vẫn còn nhiều lãng phí gây ra các hậu quả như: Công trình thi công dở dang, kéo dài, hiệu quả đầu tư kém; chủ đầu tư không có nguồn vốn để thanh toán cho giá trị khối lượng thực hiện; nhiều doanh nghiệp xây dựng, nhà thầu nợ lương công nhân, chiếm dụng vốn của nhau, không ít doanh nghiệp giải thể và phá sản; góp phần làm cho nợ xấu của ngân hàng tăng lên,… Thực trạng trên đã và đang ảnh hưởng xấu đến an ninh tài chính, an toàn nợ công và tăng trưởng kinh tế bền vững.

III. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản ở Việt Nam
Do xã hội ngày càng thay đổi nên các qui định về chi ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ bản trước đây dường như không còn phù hợp. Vậy việc nhanh chóng tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật là vô cùng cấp bách. Sau đây là một số ý kiến về giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực xây dựng cơ bản:

Thứ nhất, cần nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác đầu tư xây dựng cơ bản. 

- Thường xuyên quan tâm tới công tác đào tạo, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ quản lý đầu tư XDCB ở các cấp bộ địa phương để có đủ năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm thực thi công việc. 

- Bên cạnh việc có những chính sách ưu đãi trên thì cũng cần có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, tăng cường kiểm tra nội bộ, theo dõi và quản lý cán bộ công chức Nhà nước làm cơ sở đánh giá chất lượng cán bộ, kịp thời ngăn chặn tiêu cực phát sinh gây ra thất thoát, lãng phí.Bởi muốn tăng hiệu quả đầu tư, tránh thất thoát, lãng phí trong quản lý, sử dụng nguồn vốn nhà nước thì cần phải nâng cao tính trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình sử dụng nguồn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Pháp luật hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm cũng như chưa có chế tài xử lý dẫn tới tình trạng lạm quyền, thất thoát ngân sách. Chính vì vậy cần phải xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật xác định rõ địa vị pháp lí, có những chế tài cụ thể về trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong quá trình sử dụng ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản. Đặc biệt là đối với các chủ thể có vai trò quan trọng sau:

Đối với chủ đầu tư:Đây là chủ thể trực tiếp tiếp nhận vốn xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước để thực hiện việc xây dựng công trình đã được phê duyệt và phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chất lượng của công trình được giao. Vì thế trách nhiệm cụ thể của chủ đầu tư phải được qui định thật rõ ràng. Ở đây yêu cầu các chủ đầu tư phải có trách nhiệm duyệt các thiết kế, dự toán từng phần sẽ đổ vào công trình để tránh việc lãng phí tiền vào những phần công trình không cần thiết. Trong quá trình xây dựng, chủ đầu tư phải trực tiếp hoặc cần cử người thanh tra, kiểm tra thường xuyên chất lượng của công trình cũng như việc sử dụng tiền đầu tư có đúng theo bản báo cáo và dự toán chi tiêu đã nộp cho chủ đầu tư hay không. Và cuối cùng chủ đầu tư phải có trách nhiệm nghiệm thu công trình đúng thiết kế, đảm bảo về chất lượng và giao lại cho cơ quan nhà nước để đi vào sử dụng. Việc qui định trách nhiệm cụ thể của chủ đầu tư nhằm tránh tình trạng chậm giảm ngân vốn đầu tư, tránh thất thoát lãng phí tiền của nhà nước đồng thời không để cho bất cứ cá nhân nào có thể sử dụng được tài sản công.

Đối với Ban quản lí dự án:Trách nhiệm của ban quản lí dự án không được phân định rõ ràng khiến cho việc qui kết trách nhiệm khi có hành vi vi phạm pháp luật trở nên khó khăn. Trên thực tế, ban quản lí dự án được lập ra để quản lí tất cả các khâu trong quá trình xây dựng, sự dụng nguồn ngân sách nhà nước được cấp vì thế trách nhiệm của ban quản lí dự án phần nào trùng với trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc phê duyệt thiết kế, dự toán đến thanh tra và nghiệm thu công trình. Nhưng ban quản lí dự án có quyền quản lí đối với chủ đầu tư, kiểm soát việc chủ đầu tư chi tiền xuống công trình, lãnh đạo chủ đầu tư phải xây dựng công trình theo đúng mục đích của nhà nước. Việc ban quản lí dự án có quyền quản lí chủ đầu tư nhằm tránh tình trạng chính chủ đầu tư có ý định thất thoát tiền nhà nước hoặc rót vốn xuống công trình nhằm ăn hoa hồng.
Đối với cơ quan thiết kế, giám sát thi công: Thực tế cho thấy phần lớn các thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản được phát hiện thông qua kiểm soát chi ngân sách nhà nước là do sự buông lỏng khâu thiết kế và giám sát thi công. Cần có những chế tài cụ thể trong vi phạm về quản lí trong các khâu này.
Các cấp, các ngành cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nhằm chống thất thoát, lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư; thường xuyên giao ban với các chủ đầu tư, nhà thầu để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Các chủ đầu tư (ban quản lý dự án) đôn đốc các nhà thầu khẩn trương hoàn thành các dự án; kịp thời lập hồ sơ thanh toán đối với những khối lượng hoàn thành đã đủ điều kiện nghiệm thu, thanh toán.

Thứ hai, cần phải hoàn thiện công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. 
Trong việc sử dụng ngân sách đối nói chung hay sử dụng ngân sách trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng cũng đều cần một cơ chế quản lý hiệu quả vừa đảm bảo việc chi hiệu quả, vừa tránh được tình trạng thất thoát ngân sách. Muốn vậy thì cần phải thực hiện tốt các công tác sau:

- Công tác quy hoạch: Phải được thực hiện một cách thực chất, phù hợp với nền kinh tế thị trường, đặc điểm và điều kiện đất nước, tránh bệnh hình thức, đảm bảo quy hoạch đi trước một bước, gắn quy hoạch với kế hoạch đầu tư và xây dựng trung và dài hạn.

- Quyết định chủ trương đầu tư: Việc phân bổ vốn cho các dự án phải được quốc hội và hội đồng nhân dân tỉnh xem xét và quyết định toàn bộ chứ không chỉ là những dự án quan trọng do Chính phủ hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh trình. Bên cạnh đó để nâng cao hiệu quả của các quyết định đầu tư cũng cần được kế hoạch hóa chặt chẽ và giám sát nghiêm túc như quá trình thực hiện đầu tư.

- Nâng cao chất lượng lập và thẩm định dự án, thiết kế tổng dự toán

- Tăng cường công tác đấu thầu rộng rãi nhằm hạn chế tiêu cực và tính hình thức trong đấu thầu. Khắc phục tình trạng các nhà thầu liên kết với nhau để lần lượt thắng thầu. Thực hiện cạnh tranh tích cực nhằm chọn nhà thầu với giá thầu tốt nhất.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động đầu tư XDCB nhằm xử lý nghiêm minh từng trường hợp vi phạm đã được phát hiện và phải được thông tin rộng rãi trên các phương tện thông tin đại chúng nhằm răn đe và ngăn ngừa triệt để tình trạng này.

- Làm tốt công tác kiểm soát trong khâu quyết toán, tăng cường kỷ luật trong công tác quyết toán vốn đầu tư để xác định đúng giá trị của công trình.
Thứ ba, đối với vốn thực hiện dự án: 

- Cần phải khắc phục hơn nữa các tồn đọng trong chậm đấu thầu, công tác đền bù giải phóng mặt bằng để tiến hành các dự án một cách nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và hiệu quả. 

- Để hoàn ứng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm cho công tác quản lý vốn và thu ngân sách Nhà nước theo quy định, các chủ đầu tư (ban quản lý dự án) cần rà soát kỹ tiến độ thực hiện dự án để tập trung tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhằm sớm hoàn thành đưa vào sử dụng.

KẾT LUẬN

Hoạt động chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế và xã hội, nó không chỉ góp phần hình thành cơ cấu nền kinh tế hợp lý theo định hướng của nhà nước mà còn tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng suất lao động xã hội. Nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng đó, ta thấy cần không ngừng hoàn thiện hơn về pháp luật chi ngân sách cho lĩnh vực cơ bản của Việt Nam sao cho phù hợp và linh hoạt để nền kinh tế nước ta có nền móng, cơ sở vững chắc hơn cho sự phát triển và những đòi hỏi của thời kì hội nhập kinh tế thế giới.


No comments:

Post a Comment