24/01/2015
Quy định của pháp luật hiện hành và thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh - Bài tập học kỳ Luật Tài chính
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể hiện quyền lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu. Với xu thế nhất thể hóa các khu vực và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói riêng và khu vực nói chung, đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế, tài chính trước những thách thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện. Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ…  Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá Nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Việc ban hành kịp thời Luật này là góp phần thể chế hoá chính sách thuế của Đảng.

Để đạt được mục tiêu gia nhập vào WTO, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tất cả các chính sách thuế hiện hành đều đã được thay đổi theo hướng giảm nghĩa vụ thuế. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đã quy định một chế định mới nhằm mục địch giảm nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế, đó là giảm trừ gia cảnh. Đây là một trong những quy định tiến bộ, thiết thực tuy nhiên vẫn còn những điểm hạn chế. Để làm rõ quy định của pháp luật  về giảm trừ gia cảnh cũng như tình hình thực thi pháp luật về giảm trừ gia cảnh trên thực tế ở nước ta, em đã lựa chọn đề tài “ Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành, thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên cứu” cho bài tập lớn.
I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH

1. Khái niệm giảm trừ gia cảnh

Trước đây, Pháp lệnh Thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao năm không có quy định về giảm trừ gia cảnh. Phải đến khi luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (thuế TNCN) được ban hành, nội dung này mới được đưa vào. Trong số rất nhiều sửa đổi, đây chính là vấn đề được đông đảo nhân dân ủng hộ nhiều nhất, xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. 

Theo quy định tại Điều 19 luật thuế TNCN, điều 12 Nghị định 100/2008/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật thuế TNCN (Nghị định 100/2008/NĐ-CP) và mục 3.1, I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế TNCN và Nghị định 100/2008/NĐ-CP thì khái niệm “giảm trừ gia cảnh” được định nghĩa như sau: Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế, đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú.

Ta có công thức tính thuế TNCN của đối tượng cá nhân cư trú theo quy định tại Luật thuế TNCN như sau: Thuế TNCN = (Thu nhập chịu thuế - giảm trừ gia cảnh – các khoản bảo hiểm) x thuế suất

2. Đặc điểm của giảm trừ gia cảnh

2.1. Đối tượng nộp thuế được giảm trừ gia cảnh

Căn cứ vào khái niệm ở trên, đối tượng nộp thuế được giảm trừ gia cảnh chỉ là cá nhân cư trú, cá nhân không cư trú không được giảm trừ gia cảnh. 

Hiện nay, đa số các nước tính thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư trú”. Tuy nhiên, khái niệm thế nào là một cá nhân cư trú tại một nước lại được định nghĩa khác nhau trong luật thuế TNCN của các nước. Có nhiều nước quy định cá nhân cư trú là người định cư tại nước đó hoặc những người đến nước đó không thường xuyên nhưng tổng số ngày ở tại nước đó vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương lịch hay năm tài chính). Tuy nhiên, một số nước lại đưa ra những định nghĩa về cá nhân cư trú cụ thể hơn và có điểm khác với định nghĩa nêu trên. Chẳng hạn như Nhật Bản đưa ra một định nghĩa tương đối phức tạp, trong đó có 3 khái niệm khác nhau là cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không thường xuyên và cá nhân không cư trú. Cụ thể là :

     + Cá nhân cư trú thường xuyên là cá nhân định cư thường xuyên ở Nhật Bản liên tục từ 1 đến 5 năm trở lên .

     + Cá nhân cư trú không thường xuyên là cá nhân không có ý định cư trú thường xuyên tại Nhật nhưng có nơi thường trú ở Nhật từ 1 năm trở lên và không được quá 5 năm .

     + Cá nhân không cư trú là cá nhân không có nơi định cư tại Nhật Bản và sống tại Nhật Bản ít hơn 1 năm .

Các cá nhân nước ngoài đến Nhật Bản sẽ được coi là có nơi cư trú tại Nhật Bản trừ khi các hợp đồng lao động hoặc các giấy tờ khác chỉ rõ rằng họ sẽ ở lại Nhật Bản ít hơn một năm. Các cá nhân cư trú thường xuyên bị tính thuế trên thu nhập từ mọi nguồn; các cá nhân cư trú không thường xuyên bị tính thuế trên thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng được trả tại Nhât Bản hoặc chuyển đến Nhật Bản. Các cá nhân không cư trú chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản.

Ở Trung Quốc quy định, một cá nhân đang cư trú trong biên giới của Trung Quốc hoặc những người không cư trú, nhưng cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc  cho không ít hơn một năm phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên bấc kỳ thu nhập thu được từ bên trong hay bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một cá nhân không phải là người cư trú cũng như cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc hoặc những người không cư trú và sống bên trong biên giới ít hơn một năm phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên bất kỳ thu nhập thu được từ bên trong biên giới Trung Quốc.

Luật thuế TNCN ở Việt Nam quy định điều kiện một cá nhân được coi là cá nhân cư trú rất cụ thể. Theo đó, cá nhân cư trú phải đảm bảo các điều kiện sau: 

Một là, Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó, ngày đến và ngày đi được tính là 01 (một) ngày. Ngày đến và ngày đi được xác định căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân đó khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú.

Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam.

Hai là, Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:

- Có nơi ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú:

+ Đối với công dân Việt Nam: nơi ở đăng ký thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký cư trú theo quy định của Luật cư trú.

+ Đối với người nước ngoài: nơi ở thường xuyên của người nước ngoài là nơi đăng ký và được ghi trong Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp.

- Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau:

+ Cá nhân chưa hoặc không có nơi ở được đăng ký thường trú, hoặc không được cấp Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú theo hướng dẫn nêu trên, nhưng có tổng số ngày thuê nhà theo hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng thuộc đối tượng là cá nhân cư trú, kể cả trường hợp thuê ở nhiều nơi.

+ Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự thuê hay người sử dụng lao động thuê cho người lao động. 

Cá nhân đảm bảo hai điều kiện trên có thể là cá nhân có quốc tịch Việt Nam kể cả cá nhân được cử đi công tác, lao động, học tập ở nước ngoài có thu nhập chịu thuế; hoặc là cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng có thu nhập chịu thuế, bao gồm: người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.

2.2. Các khoản thu nhập được giảm trừ gia cảnh

Điều 3 Luật thuế TNCN quy định các khoản thu nhập chịu thuế của cá nhân bao gồm: (1) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; (2) Thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động; (3) Thu nhập từ đầu tư vốn (bao gồm: tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần); (4) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn (bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế, từ chuyển nhượng chứng khoán, từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác; (5) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở, từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước, các khoản thu nhập khác từ chuyển nhượng bất động sản); (6) Thu nhập từ trúng thưởng; (7) Thu nhập từ bản quyền; (8) Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng; (10) Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoánh, phần vốn vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng. 

Tuy nhiên, không phải tất các khoản thu nhập trên đều được hưởng giảm trừ gia cảnh. Pháp luật thuế TNCN quy định cá nhân cư trú chỉ được hưởng mức giảm trừ gia cảnh đối với hai loại thu nhập, đó là: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, và thu nhập từ tiền lương, tiền công. Quy định như vậy là hợp lí, nó đảm bảo cho đại đa số người dân có thu nhập đều được hưởng giảm trừ gia cảnh, bởi thu nhập từ sản xuất, kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công là những khoản thu nhập thông dụng nhất mà mọi người dân đều có. Đồng thời, những khoản thu nhập này mang tính ổn định, thường xuyên hơn nhiều so với thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn hay bất động sản – những khoản thu nhập không thường xuyên và không thông dụng đối với đại đa số người dân.

2.2.1. Khái niệm thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công

Theo quy định tại Điều 3 của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Điều 3 của Nghị định số 100/2008/NĐ-CP, khoản 1, 2 mục II phần A thông tư 84/2008/TT-BTC, Điều 1 Thông tư số 62/2009/TT – BTC Hướng dẫn sửa đổi, bổ sung thông tư 84/2008/TT - BTC thì thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công được xác định như sau:

 Thu nhập từ kinh doanh: Thu nhập từ kinh doanh là thu nhập có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực sau: 

- Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật như: sản xuất, kinh doanh hàng hoá; xây dựng; vận tải; kinh doanh ăn uống; kinh doanh dịch vụ, kể cả dịch vụ cho thuê nhà, cho thuê mặt bằng. 

- Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân trong những lĩnh vực, ngành nghề được cấp giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. 

- Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản không đáp ứng đủ điều kiện được miễn thuế quy định tại khoản 6 mục III phần A Thông tư này.

 Thu nhập từ tiền lương, tiền công: Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền, bao gồm: 

 Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công.

 Các khoản phụ cấp, trợ cấp kể cả sinh hoạt phí mà người lao động nhận được, trừ một số khoản phụ cấp, trợ cấp dưới đây: 

- Phụ cấp đối với người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi đối với người có công, bao gồm: phụ cấp, trợ cấp cho thương binh, bệnh binh, cho thân nhân liệt sỹ; phụ cấp, trợ cấp cho cán bộ hoạt động cách mạng; phụ cấp, trợ cấp cho các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, Bà mẹ Việt Nam anh hùng; 

- Phụ cấp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; 

- Các khoản phụ cấp theo quy định của Bộ luật Lao động, gồm: a) Phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm; b) Phụ cấp thu hút đối với vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn; c) Phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật đối với người làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh và khí hậu xấu.

- Các khoản trợ cấp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động: a) Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; b) Trợ cấp một lần khi sinh con, nhận con nuôi; c) Trợ cấp do suy giảm khả năng lao động; d) Trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng; đ) Các khoản trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp; e) Các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội trả.

- Trợ cấp để giải quyết tệ nạn xã hội theo quy định của pháp luật. 

Các khoản phụ cấp, trợ cấp, mức phụ cấp, trợ cấp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công nêu trên thực hiện theo các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được áp dụng thống nhất với tất cả các đối tượng, các thành phần kinh tế.

Trường hợp các văn bản hướng dẫn về các khoản phụ cấp, trợ cấp, mức phụ cấp, trợ cấp áp dụng đối với khu vực nhà nước thì các thành phần kinh tế khác, các cơ sở kinh doanh khác được căn cứ vào danh mục và mức phụ cấp, trợ cấp hướng dẫn đối với khu vực nhà nước để tính trừ. Các trường hợp chi cao hơn mức phụ cấp, trợ cấp theo quy định trên thì phần chi vượt phải tính vào thu nhập chịu thuế.

 Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng môi giới, tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự án, đề án; tiền nhuận bút do viết sách, báo, dịch tài liệu; tiền tham gia các hoạt động giảng dạy; biểu diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền thu được từ các dịch vụ quảng cáo và từ các dịch vụ khác.

 Tiền nhận được do tham gia vào các hội, hiệp hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản lý dự án, hội đồng quản lý, hội đồng doanh nghiệp và các tổ chức khác.

 Các khoản lợi ích khác bằng tiền hoặc không bằng tiền mà người lao động được hưởng ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả hoặc trả hộ cho người lao động, cụ thể như sau: 

- Tiền nhà ở, tiền điện, nước và các loại dịch vụ khác kèm theo. Trường hợp cá nhân ở tại trụ sở làm việc thì thu nhập chịu thuế căn cứ vào tiền thuê nhà, hoặc chi phí khấu hao, tiền điện, nước và các dịch vụ khác tính theo tỷ lệ giữa diện tích cá nhân sử dụng với diện tích trụ sở làm việc.

- Tiền mua bảo hiểm đối với các hình thức bảo hiểm mà pháp luật không quy định trách nhiệm bắt buộc người sử dụng lao động phải mua cho người lao động. 

- Các khoản phí hội viên phục vụ cho cá nhân như: thẻ hội viên sân gôn, sân quần vợt, thẻ sinh hoạt các câu lạc bộ văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao.

- Các dịch vụ khác phục vụ cho cá nhân trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, thể thao, giải trí, thẩm mỹ.

- Các khoản lợi ích khác mà người sử dụng lao động chi cho người lao động phù hợp với các quy định của pháp luật như: chi trong các ngày nghỉ, lễ; thuê các dịch vụ tư vấn, thuê kê khai thuế; chi cho người giúp việc gia đình như lái xe, người nấu ăn, người làm các công việc khác trong gia đình theo hợp đồng, trừ các khoản khoán chi như: văn phòng phẩm, điện thoại, công tác phí, trang phục.

- Khoản trợ cấp chuyển vùng một lần đối với người nước ngoài đến cư trú tại Việt Nam. Mức trợ cấp được tính trừ căn cứ trên hợp đồng lao động hoặc thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. 

- Khoản tiền mua vé máy bay khứ hồi do đơn vị sử dụng lao động chi trả  hộ (hoặc thanh toán) cho người lao động là người nước ngoài về phép mỗi năm một lần. Căn cứ để xác định là hợp đồng lao động và giá ghi trên vé máy bay từ Việt Nam đến quốc gia người nước ngoài mang quốc tịch hoặc quốc gia gia đình người nước ngoài sinh sống và ngược lại. 

- Khoản tiền học phí cho con của người nước ngoài học tại Việt Nam theo bậc học phổ thông do đơn vị sử dụng lao động chi trả hộ căn cứ vào hợp đồng lao động và chứng từ nộp tiền học.

 Các khoản thưởng như tháng, quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng lương thứ 13 bằng tiền hoặc không bằng tiền (kể cả thưởng bằng chứng khoán), trừ một số khoản tiền thưởng dưới đây:

- Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được nhà nước phong tặng như cả tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng, cụ thể: a) Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua như Chiến sĩ thi đua toàn quốc; Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Chiến sĩ thi đua cơ sở, Lao động tiên tiến, Chiến sỹ tiên tiến; b) Tiền thưởng kèm theo các hình thức khen thưởng như Huân chương, Huy chương các loại; c) Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu vinh dự nhà nước như danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, danh hiệu Anh hùng, danh hiệu Nhà giáo, Thầy thuốc, Nghệ sỹ Nhân dân,...;d) Tiền thưởng kèm theo giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước; đ) Tiền thưởng kèm theo Kỷ niệm chương, Huy hiệu; e) Tiền thưởng kèm theo Bằng khen, Giấy khen. Thẩm quyền ra quyết định khen thưởng, mức tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng nêu trên phải phù hợp với quy định của Luật Thi đua khen thưởng. 

- Tiền thưởng kèm theo các giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế được Nhà nước Việt Nam thừa nhận.

- Tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. 

- Tiền thưởng về phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 

Trường hợp người lao động được thưởng bằng cổ phiếu thì giá trị thưởng được xác định theo mức thưởng ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị trả thưởng. 

Các khoản thu nhập nêu trên làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế là thu nhập trước khi khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (thu nhập trước thuế). Trường hợp thu nhập thực nhận không bao gồm thuế thu nhập cá nhân (thu nhập sau thuế) thì phải quy đổi thành thu nhập trước thuế.

2.2.2. Thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công

 Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh:

Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý liên quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế. 

• Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh đối với từng trường hợp cụ thể được xác định như sau:

 Đối với cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ nộp thuế theo phương pháp khoán, thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được xác định theo công thức: Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế = Doanh thu ấn định trong kỳ tính thuế x Tỷ lệ thu nhập chịu thuế ấn định.

Doanh thu ấn định được xác định căn cứ vào kê khai của cá nhân kinh doanh, kết quả điều tra của cơ quan thuế và ý kiến tham gia của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường.

 Đối với cá nhân kinh doanh chỉ hạch toán được doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ, không hạch toán, xác định được chi phí. Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được xác định theo công thức: Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế = Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế x Tỷ lệ thu nhập chịu thuế ấn định.

Trong đó, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo sổ sách kế toán hoá đơn, chứng từ phù hợp với doanh thu để tính thuế giá trị gia tăng.

Tổng cục Thuế quy định cụ thể tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên doanh thu để áp dụng đối với trường hợp cá nhân kinh doanh không hạch toán được chi phí hoặc không hạch toán kế toán.

 Đối với cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ, thu nhập chịu thuế được xác định theo công thức: Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế = Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế - Chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập trong kỳ tính thuế + Thu nhập chịu thuế khác trong kỳ tính thuế.

Trong đó:

- Doanh thu và chi phí được xác định theo sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ. Trường hợp, cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng thì doanh thu làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế phù hợp với doanh thu tính thuế giá trị gia tăng.

- Thu nhập chịu thuế khác là các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình kinh doanh như: tiền phạt vi phạm hợp đồng; tiền phạt do chậm thanh toán; tiền lãi ngân hàng trong quá trình thanh toán, tiền lãi do bán hàng trả chậm, trả góp, tiền lãi do bán tài sản cố định; tiền bán phế liệu, phế phẩm.

• Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế:

Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế từ kinh doanh là toàn bộ tiền bán hàng hoá, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế bao gồm cả khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cá nhân kinh doanh được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.

 Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế như sau:

- Đối với hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá hoặc thời điểm lập hoá đơn bán hàng. 

- Đối với dịch vụ là thời điểm dịch vụ hoàn thành hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ.

Trường hợp, thời điểm lập hoá đơn trước thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá (hoặc dịch vụ hoàn thành) thì thời điểm xác định doanh thu được tính theo thời điểm lập hoá đơn hoặc ngược lại. 

 Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với một số trường hợp được xác định như sau:

- Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp được xác định theo giá bán hàng hoá trả tiền một lần, không bao gồm tiền lãi trả góp.

- Đối với hàng hoá, dịch vụ bán theo phương thức trả chậm là tiền bán hàng hoá, dịch vụ trả một lần, không bao gồm tiền lãi trả chậm. 

Trường hợp việc thanh toán theo hợp đồng mua bán theo phương thức trả góp, trả chậm kéo dài nhiều kỳ tính thuế thì doanh thu là số tiền phải thu của người mua trong kỳ tính thuế không bao gồm lãi trả góp, trả chậm theo thời hạn quy định trong hợp đồng.

Việc xác định chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với hàng hoá bán trả góp, trả chậm thực hiện theo nguyên tắc chi phí phải phù hợp với doanh thu.

- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cá nhân kinh doanh làm ra dùng để trao đổi; biếu, tặng; trang bị, thưởng cho người lao động, doanh thu được xác định theo giá bán hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương trên thị trường tại thời điểm trao đổi; biếu, tặng; trang bị, thưởng cho người lao động.

- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cá nhân kinh doanh làm ra tự dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của cá nhân thì doanh thu là chi phí sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó.

- Đối với hoạt động gia công hàng hoá là tổng số tiền thu về từ hoạt động gia công bao gồm cả tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác phục vụ cho việc gia công hàng hoá.                                                                                                                                    

- Đối với nhận đại lý, ký gửi bán hàng đúng giá quy định của cá nhân kinh doanh giao đại lý, ký gửi hưởng hoa hồng thì doanh thu là tiền hoa hồng được hưởng theo hợp đồng đại lý, ký gửi hàng hoá.

- Đối với hoạt động cho thuê tài sản, doanh thu là số tiền bên thuê trả từng kỳ theo hợp đồng thuê. 

Trường hợp bên thuê trả tiền thuê trước cho nhiều năm thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được phân bổ cho số năm trả tiền trước hoặc xác định theo doanh thu trả tiền một lần. 

Trường hợp bên thuê trả tiền thuê trước cho nhiều năm và chịu toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được phân bổ cho số năm trả tiền trước nhưng phải tính ngay số thuế nộp tương ứng từng năm và nộp cho cả thời gian thu tiền trước.

- Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, giá trị hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng công trình nghiệm thu bàn giao. Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị thì doanh thu tính thuế là số tiền từ hoạt động xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị.

- Đối với hoạt động vận tải là toàn bộ số tiền thu được từ việc vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hóa. 

 Các khoản chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế

Các khoản chi phí hợp lý được trừ là các khoản chi phí thực tế phát sinh, có liên quan trực tiếp đến việc tạo ra doanh thu, thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế và có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Các khoản chi phí hợp lý được xác định như sau:

- Chi phí tiền lương, tiền công, phụ cấp, trợ cấp, các khoản thù lao và các chi phí khác trả cho người lao động theo hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể theo quy định của Bộ luật Lao động. Chi phí tiền lương, tiền công không bao gồm khoản tiền lương, tiền công của cá nhân là chủ hộ kinh doanh hoặc các thành viên đứng tên trong đăng ký kinh doanh của nhóm kinh doanh. Tiền trang phục trả cho người lao động không vượt quá 1.000.000 đồng/năm.

- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá thực tế sử dụng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ liên quan đến việc tạo ra doanh thu, thu nhập chịu thuế trong kỳ được tính theo mức tiêu hao hợp lý, giá thực tế xuất kho do hộ gia đình, cá nhân kinh doanh tự xác định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Mọi trường hợp tổn thất vật tư, tài sản, tiền vốn, hàng hoá đều không được tính giá trị tổn thất đó vào chi phí hợp lý trừ trường hợp tổn thất do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh và các trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường. Đối với vật tư hàng hoá vừa dùng cho tiêu dùng cá nhân, vừa dùng cho kinh doanh thì chỉ được tính vào chi phí phần sử dụng vào kinh doanh.

- Chi phí khấu hao, duy tu, bảo dưỡng tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tài sản cố định được trích khấu hao tính vào chi phí hợp lý phải đáp ứng các điều kiện sau: Tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, kinh doanh; Tài sản cố định phải có đầy đủ hóa đơn, chứng từ và các giấy tờ hợp pháp khác chứng minh tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của cá nhân kinh doanh; Tài sản cố định phải được quản lý, theo dõi, hạch toán trong sổ sách kế toán của cá nhân kinh doanh theo chế độ quản lý và hạch toán kế toán hiện hành. Mức trích khấu hao tài sản cố định được tính vào chi phí hợp lý theo quy định về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Tài sản cố định đã khấu hao hết giá trị nhưng vẫn tiếp tục được sử dụng cho sản xuất, kinh doanh thì không được trích khấu hao. Đối với tài sản cố định vừa sử dụng cho mục đích kinh doanh, vừa sử dụng cho mục đích khác thì chi phí khấu hao được trừ căn cứ vào mức độ sử dụng tài sản cho kinh doanh và mức sử dụng chung.

- Chi phí trả lãi các khoản tiền vay vốn sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ liên quan trực tiếp đến việc tạo ra doanh thu, thu nhập chịu thuế.Mức lãi suất tiền vay được tính theo lãi suất thực tế căn cứ vào hợp đồng vay vốn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Trường hợp vay của các đối tượng không phải là ngân hàng, tổ chức tín dụng thì chi phí trả lãi tiền vay được căn cứ vào hợp đồng vay nhưng mức tối đa không quá 1,5 lần mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay. Chi phí trả lãi tiền vay nêu trên không bao gồm trả lãi tiền vay để góp vốn thành lập cơ sở của cá nhân kinh doanh.

- Chi phí quản lý: Chi phí trả tiền điện, tiền nước; tiền điện thoại; tiền mua văn phòng phẩm; tiền thuê kiểm toán; tiền thuê dịch vụ pháp lý; tiền thuê thiết kế, tiền mua bảo hiểm tài sản; các dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ mua ngoài khác; Các khoản chi phí để có các tài sản không thuộc tài sản cố định như chi mua và sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, giấy phép chuyển giao công nghệ, nhãn hiệu thương mại được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh;  Tiền thuê tài sản cố định hoạt động theo hợp đồng thuê. Trường hợp trả tiền thuê tài sản cố định một lần cho nhiều năm thì tiền thuê được phân bổ dần vào chi phí sản xuất, kinh doanh theo số năm sử dụng tài sản cố định; Chi phí dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài khác phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có chứng từ, hoá đơn theo chế độ quy định;  Chi về tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ bao gồm: chi phí bảo quản, đóng gói, vận chuyển, bốc xếp, thuê kho bãi, bảo hành sản phẩm, hàng hoá.

- Các khoản thuế, phí và lệ phí, tiền thuê đất phải nộp có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật bao gồm: Thuế môn bài, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà, đất, tiền thuê đất; Thuế giá trị gia tăng mà pháp luật quy định được tính vào chi phí; Các khoản phí, lệ phí mà cơ sở kinh doanh thực nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.

- Phần chi phụ cấp cho người lao động đi công tác (không bao gồm tiền đi lại và tiền ở) tối đa là hai lần mức qui định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính đối với cán bộ công chức, viên chức Nhà nước.

- Các khoản chi phí khác liên quan trực tiếp đến việc tạo ra doanh thu, thu nhập chịu thuế có chứng từ, hoá đơn theo chế độ quy định.

 Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công

 Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền lương, tiền công, tiền thù lao, các khoản thu nhập khác có tính chất tiền lương, tiền công mà đối tượng nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế. 

 Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế: Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế. 

2.3. Mức giảm trừ gia cảnh

2.3.1. Đối tượng giảm trừ gia cảnh

Theo luật thuế TNCN thì có 2 đối tượng giảm trừ gia cảnh. Đó là bản thân đối tượng nộp thuế và người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế. Trong đó: 

 Đối tượng nộp thuế: là cá nhân cư trú đảm bảo các điều kiện đã phân tích ở phần 2.1 bài viết này.

 Người phụ thuộc: Người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế bao gồm 4 đối tượng sau:

- Một là :Con của đối tượng nộp thuế. Con dưới 18 tuổi (được tính đủ theo tháng) không phân biệt con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú; Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động; Con đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng.

- Hai là: Vợ hoặc chồng của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng.

- Ba là: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng), mẹ kế, bố dượng của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng.

- Bốn là: Các cá nhân khác là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng mà đối tượng nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng, bao gồm: Anh ruột, chị ruột, em ruột của đối tượng nộp thuế; Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của đối tượng nộp thuế; Cháu ruột của đối tượng nộp thuế (bao gồm con của anh ruột, chị ruột, em ruột); Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.

Người tàn tật, không có khả năng lao động theo hướng dẫn nêu trên là người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh hoặc người bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh không có khả năng tự phục vụ bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.

2.3.2. Mức giảm trừ gia cảnh cụ thể với từng đối tượng giảm trừ gia cảnh

 Đối với đối tượng nộp thuế: Mức giảm trừ được áp dụng là là 4 triệu đồng/tháng, 48 triệu đồng/năm. Mức 4 triệu đồng/tháng là mức tính bình quân cho cả năm, không phân biệt một số tháng trong năm tính thuế không có thu nhập hoặc thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng. 

 Đối với người phụ thuộc: mức giảm trừ được áp dụng là 1,6 triệu đồng/tháng kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng. Mức giảm trừ trên được áp dụng với mỗi người phụ thuộc.

 Trường hợp cá nhân cư trú vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công thì sẽ tính giảm trừ gia cảnh một lần vào tổng thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công. 

Ví dụ: Ông A là đối tượng nộp thuế được giảm trừ gia cảnh. Ông có 2 người con, 1 người con 14 tuổi và 1 người con đang học đại học không phát sinh thu nhập riêng. Ngoài ra ông phải nuôi dưỡng cha đẻ đã ngoài độ tuổi lao động. Cả 3 đối tượng trên đều thuộc đối tượng người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và đều kê khai giảm trừ gia cảnh vào thu nhập của ông A.

Mức giảm trừ gia cảnh ông được hưởng trong 1 tháng là:

- Đối với bản thân ông A : 4 triệu đồng

- Đối với 3 người phụ thuộc: 1,6 triệu đồng x 3 = 4,8 triệu đồng

- Ông A sẽ được giảm trừ gia cảnh số tiền là : 4 + 4,8 = 8,8 triệu đồng/1 tháng

3. Các bước thực hiện giảm trừ gia cảnh

3.1. Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh

Căn cứ vào điểm 3.1.1, mục I, phần B thông tư 84/2008/TT-BTC thì khi thực hiện giảm trừ gia cảnh, có một số nguyên tắc bắt buộc phải tuân theo như sau:

-  Đối tượng nộp thuế chỉ được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu đối tượng nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế. 

-  Việc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế. Người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng phát sinh tháng nào thì được tính giảm trừ tháng đó. 

Trường hợp nhiều đối tượng nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì các đối tượng nộp thuế phải tự thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một đối tượng nộp thuế.

Ví dụ: Cả 2 vợ chồng đều là đối tượng nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng là 2 đứa con thì không thể kê khai giảm trừ cả 2 đứa con cho cả vợ  và chồng. Vợ chồng phải thỏa thuận để mỗi người được giảm trừ cho 1 đứa con hoặc 1 người giảm trừ cho cả hai đứa con.

- Đối tượng nộp thuế có trách nhiệm kê khai số người phụ thuộc được giảm trừ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực trong việc kê khai này.

3.2. Các bước thực hiện giảm trừ gia cảnh

Dựa vào nguyên tắc “Đối tượng nộp thuế chỉ được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu đối tượng nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế” (điểm 3.1.1, mục I, phần B thông tư 84/2008/TT-BTC) thì để giảm trừ gia cảnh, đối tượng nộp thuế phải thực hiện các bước sau:

Bước 1: Đăng ký mã số thuế. 

- Đối với cá nhân kinh doanh việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế như sau:

       + Cá nhân đã có mã số thuế: được sử dụng mã số thuế đã được cấp để kê khai nộp thuế TNCN. Khi có thông tin thay đổi thì thực hiện kê khai bổ sung theo Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính.

       + Cá nhân chưa có mã số thuế: thực hiện đăng ký thuế theo hướng dẫn tại Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính để được cấp mã số thuế. Mã số thuế được sử dụng chung cho việc kê khai tất cả các loại thuế (kể cả thuế TNCN). Sau đó cơ quan Thuế nhập xử lý cấp mã số thuế cho tất cả cá nhân thuộc đối tượng này để đáp ứng nhu cầu kê khai nộp thuế. Cục Thuế, Chi cục Thuế sử dụng ứng dụng, nhập tờ khai đăng ký thuế theo mẫu 03/ĐKT-TCT (Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính) để cấp mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho nhóm cá nhân kinh doanh này.

       + Đối với cá nhân chưa đăng ký thuế: Cơ quan Thuế sẽ tập trung cấp mã số thuế cho các cá nhân đã nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Các cá nhân khác có thu nhập từ tiền lương, tiền công khác sẽ cấp mã số thuế vào năm 2009.

Đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập chịu thuế khác (trừ cá nhân kinh doanh nêu trên): cá nhân chỉ đăng ký thuế một lần. Mã số thuế được sử dụng chung để khai thuế đối với tất cả các khoản thu nhập.

- Mẫu tờ khai đăng ký thuế và hồ sơ đăng ký thuế thu nhập cá nhân: Thực hiện theo Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính. Nhưng để tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm chi phí cho người nộp thuế, cá nhân đang nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao áp dụng ngay mẫu tờ khai và hồ sơ đăng ký thuế mới theo hướng dẫn tại Thông tư 84 khi thực hiện đăng ký thuế bao gồm 13 mẫu tờ khai: 02/KK-TNCN; 03/KK-TNCN; 04/KK-TNCN; 01/KK-BH; 01/KK-XS; 07/KK-TNCN; 08/KK-TNCN; 11/KK-TNCN; 08A/KK-TNCN; 12/KK-TNCN; 14/KK-TNCN; 19/KK-TNCN; 24/KK-TNCN

- Thủ tục đăng ký: Các cá nhân truy cập vào website tncnonline.com.vn và tải về phần mềm (gồm các tài liệu, phần mềm và hướng dẫn quy trình kê khai thuế) đăng ký mã số thuế cá nhân, cập nhật các thông tin đăng ký thuế vào phần mềm theo hướng dẫn sử dụng của chương trình rồi gửi lại cho cơ quan thuế cũng tại website này. Sau đó, cơ quan thuế sẽ gửi phản hồi cho cá nhân trong thời gian sớm nhất.        Với trang web này, những người làm công ăn lương qua tổ chức chi trả thu nhập không phải trực tiếp đến cơ quan thuế để đăng ký thuế mà sẽ được hướng dẫn, cung cấp ứng dụng nhập tờ khai. Tổ chức chi trả thu nhập thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế vào ứng dụng và kết xuất ra file dữ liệu tải lên web hoặc qua đĩa mềm, đĩa CD, thẻ nhớ USB gửi cho cơ quan thuế, sau đó in bảng kê đăng ký thuế từ dữ liệu đã được nhập vào ứng dụng, đóng dấu và ký xác nhận gửi cho cơ quan thuế qua đường bưu điện. Tiếp đó, cục thuế các địa phương tập trung toàn bộ file dữ liệu của các cơ quan thuế trên địa bàn rồi gửi về Tổng cục Thuế. Sau khi nhận, xử lý và cấp mã số thuế tập trung theo từng địa bàn tỉnh, thành phố, Tổng cục Thuế sẽ gửi trả lại dữ liệu mã số thuế cho các cục thuế, trên cơ sở đó, mỗi chi cục thuế trực thuộc sẽ nhận lại dữ liệu mã số thuế để truyền về cho các tổ chức chi trả thu nhập trên địa bàn, kịp thời thông báo cho các cá nhân đăng ký.  Việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân trực tuyến này dự kiến kết thúc vào tháng 10-2009. Hạn chót nộp bảng kê hồ sơ đăng ký thuế và file dữ liệu được chuyển đến cơ quan thuế chậm nhất là ngày 31-8-2009.  

- Thủ tục cấp mã số Thuế: Khái niệm mã số thuế: Mã số thuế là một dãy số, chữ cái hoặc ký tự khác do cơ quan quản lý thuế cấp cho người nộp thuế dùng để quản lý thuế.(10)  Việc cấp mã số thuế cho người nộp thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực hiện thành công Luật thuế TNCN. Cũng chính vì hiểu rõ tầm quan trọng của mã số thuế đối với công tác quản lý thuế TNCN mà ngay sau khi Luật thuế TNCN được thông qua, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 2188/TCT-CNTT ngày 3/6/2009, gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn cụ thể việc triển khai đăng ký thuế cho cá nhân làm công ăn lương qua tổ chức trả thu nhập trong năm 2009. Công văn nêu rõ: đối tượng được cấp mã số thuế cá nhân là người lao động có thu nhập từ tiền lương, tiền công kê khai đăng ký Thuế thu nhập cá nhân thông qua tổ chức trả thu nhập. Căn cứ công văn Tổng cục Thuế chỉ đạo Cục Thuế các tỉnh, thành phố cấp mã số thuế cho các đơn vị, cơ quan chi trả thu nhập và các cá nhân hiện nay đang thuộc diện nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đối với các tổ chức, cá nhân khác sẽ thực hiện kê khai, cấp dần mã số thuế trong năm 2009.

- Bước 2: Kê khai quyết toán thuế.

Khi thực hiện việc quyết toán thuế, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công phải nộp tờ khai thuế, đồng thời nộp tờ kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc.

Hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân được thực hiện theo quy định tại thông tư số 84/2008/TT-BTC và thông tư số 20/2010/TT-BTC. Tổ chức, cá nhân khai thuế, quyết toán thuế không phải nộp thêm bất cứ giấy tờ nào khác ngoài các mẫu biểu, chứng từ đã được quy định tại các thông tư nêu trên.

Cùng với việc khai thuế, người có thu nhập chịu thuế sẽ khai luôn người phụ thuộc để hưởng giảm trừ gia cảnh. Đồng thời phải nộp các giấy tờ chứng minh về người phụ thuộc. 

• Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc bao gồm: 

Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc được quy định tại điểm 3.1.7 mục I phần B thông tư số 84/2008/TT-BTC  và điều 2 thông tư số 62/2009/TT-BTC như sau:

 Đối với con:

- Con dưới 18 tuổi cần một trong các giấy tờ sau: bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu. 

- Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động cần có các giấy tờ sau: Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu;  Bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.

- Con đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề (kể cả con đang học ở nước ngoài) cần có các giấy tờ sau: Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu;  Bản sao Thẻ sinh viên hoặc bản khai có xác nhận của nhà trường hoặc các giấy tờ khác chứng minh đang theo học tại các trường học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; 

- Trường hợp là con nuôi, con ngoài giá thú thì ngoài Giấy khai sinh cần có bản sao quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 

 Đối với vợ hoặc chồng: Vợ hoặc chồng đã hết tuổi lao động cần một trong các giấy tờ sau: bản sao sổ hộ khẩu hoặc bản sao Giấy chứng nhận kết hôn. Vợ hoặc chồng trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên phải có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.

 Đối với cha, mẹ, anh chị em ruột:  

- Trường hợp đã hết tuổi lao động cần có: bản sao sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ liên quan khác để xác định rõ mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là cha, mẹ, anh, chị, em ruột). 

- Trường hợp trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên, cần có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.

 Đối với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu, cháu ruột cần có: các giấy tờ hợp pháp để xác định mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, cháu ruột) và bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng nộp thuế cư trú về trách nhiệm nuôi dưỡng của đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc. 

Các giấy tờ hợp pháp nêu ở đây là bất kỳ giấy tờ pháp lý nào xác định được mối quan hệ của đối tượng nộp thuế đối với người phụ thuộc như: bản sao sổ hộ khẩu (nếu có cùng sổ hộ khẩu), bản sao Giấy khai sinh thể hiện được quan hệ này.

Trường hợp người phụ thuộc trong độ tuổi lao động ngoài các giấy tờ nêu trên thì phải có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.

Các giấy tờ trong các hồ sơ theo hướng dẫn nêu trên, nếu là bản sao thì phải có công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nếu không có công chứng hoặc chứng thực thì phải xuất trình bản chính cùng với bản sao để cơ quan thuế kiểm tra đối chiếu. 

Cá nhân cư trú là người nước ngoài, nếu không có hồ sơ theo hướng dẫn đối với từng trường hợp cụ thể nêu trên thì phải có các tài liệu pháp lý tương tự để làm căn cứ chứng minh người phụ thuộc.

• Thực hiện việc kê khai giảm trừ gia cảnh:

Việc kê khai giảm trừ gia cảnh được quy định tại điểm 3.1.8 mục I phần B thông tư số 84/2008/TT-BTC:

Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công từ 4 triệu đồng/tháng trở xuống không phải kê khai người phụ thuộc. Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công trên 4 triệu đồng/tháng có nuôi dưỡng người phụ thuộc, để được giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc cần kê khai theo hướng dẫn dưới đây:

 Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công:

- Đầu năm, chậm nhất là ngày 30 tháng 1, đối tượng nộp thuế lập 02 bản đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập. Trong năm nếu có sự thay đổi về người phụ thuộc so với đăng ký đầu năm thì chậm nhất là sau 30 ngày kể từ ngày có thay đổi (tăng, giảm), đối tượng nộp thuế cần khai 02 bản đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư 84/2008 gửi cho cơ quan trả thu nhập. 

Trường hợp đối tượng nộp thuế ký hợp đồng lao động (hoặc có quyết định tuyển dụng) sau ngày 30 tháng 1 thì thời hạn đăng ký người phụ thuộc chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng ký hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng.

- Đối tượng nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc nêu trên và phải nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu nhập. 

- Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc như sau:

+ Đối với các trường hợp đã đăng ký giảm trừ gia cảnh từ đầu năm 2009 thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009.

+ Đối với các trường hợp đăng ký giảm trừ gia cảnh sau ngày 30 tháng 1 năm 2009 thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký giảm trừ.

+ Trường hợp có phát sinh tăng, giảm về người phụ thuộc so với đăng ký thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký điều chỉnh tăng, giảm người phụ thuộc.

Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp.

 Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh

- Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc cùng với tờ khai tạm nộp thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp thuế theo kê khai hoặc tờ khai thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp theo phương pháp khoán.

- Đối tượng nộp thuế khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc tại các tờ khai nêu trên vào đầu năm 2009 phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc và nộp cho Chi cục Thuế trực tiếp quản lý cá nhân kinh doanh chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009.

- Trường hợp có phát sinh tăng, giảm người phụ thuộc hoặc mới ra kinh doanh thì hồ sơ chứng minh người phụ thuộc phải nộp chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày khai người phụ thuộc tại tờ khai thuế.

- Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp. Đối với cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán phải điều chỉnh lại mức thuế đã khoán. 

 Đối với đối tượng nộp thuế vừa có thu nhập trừ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công 

Đối tượng nộp thuế vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công thì việc tạm giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc vào loại thu nhập nào là do đối tượng nộp thuế lựa chọn và đăng ký theo hướng dẫn nêu trên. Trường hợp có nhiều người phụ thuộc nhưng kê khai tạm giảm trừ không hết vào một loại thu nhập thì được tạm giảm trừ vào cả hai loại thu nhập.

3.3. Tính thuế TNCN khi có giảm trừ gia cảnh

Thu nhập tính thuế TNCN khi có giảm trừ gia cảnh là số còn lại sau khi đã trừ các khoản giảm gia cảnh cho bản thân, những người phụ thuộc mà người chịu thuế phải trực tiếp cấp dưỡng. Trường hợp các khoản giảm trừ gia cảnh cộng lại vượt quá tổng thu nhập thì cá nhân đó không phải chịu thuế.        

Ta có công thức tính thuế TNCN của đối tượng cá nhân cư trú theo quy định tại Luật thuế TNCN như sau: Thuế TNCN = (Thu nhập chịu thuế - giảm trừ gia cảnh – các khoản bảo hiểm) x thuế suất.

Ví dụ: Ông A có thu nhập từ tiền lương, tiền công trong tháng là 50 triệu đồng (đã trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc), ông A phải nuôi 2 con dưới 18 tuổi. Trong tháng ông A không đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học. 

Thuế thu nhập cá nhân tạm nộp trong tháng của ông A được tính như sau:

- Ông A được giảm trừ các khoản sau:

+  Cho bản thân là 4 triệu đồng. 

+  Cho 2 người phụ thuộc: 1,6 triệu đồng  x 2 người = 3,2 triệu đồng

- Thu nhập tính thuế áp vào biểu thuế luỹ tiến từng phần để tính số thuế phải nộp là:
50 triệu đồng - 4 triệu đồng – 3,2 triệu đồng = 42,8 triệu đồng

-  Số thuế phải nộp được tính là:

+  Bậc 1: thu nhập tính thuế đến 5 triệu đồng, thuế suất 5%:
5 triệu đồng x 5% = 0,25 triệu đồng

+  Bậc 2: thu nhập tính thuế trên 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng, thuế suất 10%:
(10 triệu đồng - 5 triệu đồng) x 10% = 0,5 triệu đồng

+ Bậc 3: thu nhập tính thuế trên 10 triệu đồng đến 18 triệu đồng, thuế suất 15%:
(18 triệu đồng - 10 triệu đồng) x 15% = 1,2 triệu đồng

+ Bậc 4: thu nhập tính thuế trên 18 triệu đồng đến 32 triệu đồng, thuế suất 20%:
(32 triệu đồng - 18 triệu đồng) x 20% = 2,8 triệu đồng

+ Bậc 5: thu nhập tính thuế trên 32 triệu đồng đến 52 triệu đồng, thuế suất 25%:
(42,8 triệu đồng - 32 triệu đồng) x 25% = 2,7 triệu đồng

Như vậy, với mức thu nhập trong tháng là 90 triệu đồng, tổng số thuế thu nhập cá nhân tạm nộp trong tháng của ông B theo biểu thuế luỹ tiến từng phần là: 
(0,25 + 0,5 + 1,2 + 2,8 + 2,7) = 4,75 triệu đồng.

II. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ GIẢM TRỪ GIA CẢNH

1. Mặt tích cực

Nhìn chung, qua 4 năm triển khai thực hiện Luật Thuế TNCN nói chung và thực hiện chính sách về giảm trừ gia cảnh nói riêng, có những điểm tích cực sau:

Một là: Việc tính toán giảm trừ gia cảnh đơn giản và ngắn gọn. Với quy định cụ thể số tiền được giảm trừ trong một tháng là 4 triệu đồng cho đối tượng nộp thuế và 1,6 triệu đồng cho người phụ thuộc, sẽ rất dễ dàng cho người dân tính toán số tiền nộp thuế và quản lí tài chính của bản thân. Đồng thời, thủ tục, hồ sơ giảm trừ gia cảnh cũng rất đơn giản, người nộp thuế chỉ phải chứng minh người phụ thuộc một lần và kèm với việc quyết toán thuế. Điều này vừa tiết kiệm lại vừa tạo tâm lí thoải mái cho người dân.

Hai là: Quy định về giảm trừ gia cảnh đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương (tức là mức thu nhập bắt đầu phải đóng thuế với mức thuế suất lớn hơn 0%) được đánh giá là phù hợp với sự gia tăng mức thu nhập bình quân, nên thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị. Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn. 

Ba là: Công tác tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế với nhiều hình thức phong phú đa dạng, nội dung cụ thể, thiết thực, dễ hiểu luôn được triển khai giúp người dân hiểu về ý nghĩa của việc thực hiện nghĩa vụ thuế, phương pháp kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế. Cụ thể trong năm 2011 Cục Thuế Hà Nội đã chỉ đạo các Chi cục phân công cán bộ có năng lực nghiệp vụ giỏi tiến hành làm thủ tục hành chính thuế và hướng dẫn kê khai nộp thuế, thành lập các đường dây nóng, các kênh thông tin cần thiết, thích hợp, nhanh chóng và hiệu quả nhất để có thể tư vấn, hỗ trợ và giải đáp những vướng mắc cho các đối tượng nộp thuế. Ngoài ra, Cục thuế Hà Nội còn là đơn vị dẫn đầu cả nước về cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế với việc triển khai thành công các dự án như “Kê khai thuế qua mạng Internet”, “Hiện đại hóa thu ngân sách nhà nước và thu thuế qua ngân hàng” và “Hệ thống ki-ốt thông tin thuế”. Những cải cách đó đã đem lại lợi ích cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, như: thủ tục nộp hồ sơ khai thuế đơn giản, nhanh gọn, hiệu quả cao và an toàn, không giới hạn về không gian, thời gian trong ngày, tiết kiệm thời gian, chi phí cho người nộp thuế; đơn giản hoá và cải cách triệt để thủ tục hành chính trong quy trình thu nộp thuế, giảm thời gian nộp thuế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế; giúp người nộp thuế thuận tiện hơn trong việc tiếp cận các thông tin liên quan đến thuế; cơ quan thuế xử lý tờ khai nhanh, chính xác, giảm thiểu lao động, thuận lợi cho việc lưu trữ hồ sơ và tra cứu dữ liệu, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu phục vụ số lượng người nộp thuế ngày càng tăng nhanh trong khi nguồn nhân lực chưa được bổ sung tương ứng…Nhờ đó, trên địa bàn Hà Nội, cơ chế tự khai tự nộp thuế theo yêu cầu của Luật Quản lý thuế được quán triệt và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc ở hầu hết các cơ quan chi trả thu nhập và các cá nhân nộp thuế. Việc tổ chức kê khai và khấu trừ thuế TNCN tại nguồn trước khi chi trả thu nhập cho người lao động đã đảm bảo được mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu 
kịp thời thuế TNCN cho nhà nước. Mặc dù có chính sách miễn thuế TNCN 6 tháng đầu năm 2009 và trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái do khủng hoảng, nhưng số thuế TNCN năm 2009 vẫn cao hơn so với những năm trước đó. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế đã làm cho cả người có thu nhập và cơ quan chi trả thu nhập đều phải tự tìm hiểu, nắm rõ nội dung của Luật và các văn bản liên quan để thực thi, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành luật pháp thêm một bước.

2. Mặt hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn có những điểm hạn chế khi thực thi pháp luật thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh như sau:

Một là: Không phủ nhận việc quy định mức giảm trừ gia cảnh bằng số tuyệt đối có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán nhưng theo em quy định như vậy vẫn chưa thật sự phù hợp. Trong bối cảnh nền kinh tế còn chưa ổn định, người dân vẫn chưa  thể đảm bảo được cuộc sống tối thiểu cho mình và gia đình thì mức giảm trừ thiếu linh động như thế sẽ dẫn đến tình trạng không công bằng, tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Trước đây, trong quá trình soạn thảo Luật thuế TNCN đã có nhiều phương án được đưa ra nhưng ban soạn thảo chọn mức giảm trừ 4 triệu đồng đối với người chịu thuế do mức lương tối thiểu lúc đó là 450.000 đồng/tháng. Giả sử mỗi năm Nhà nước tăng thêm 20% thì mức lương tối thiểu đến năm 2009 là 650.000 đồng/tháng. Mức lương trung bình tương đương với người hưởng lương hệ số 3 (người có trình độ đại học sau 10 năm làm việc) thì ở năm 2009 khoảng 1,95 triệu đồng/tháng. Em cho rằng, cách tính trên mang tính chủ quan, nhìn vấn đề ở trạng thái tĩnh của Ban soạn thảo. Khi đó có lẽ ban soạn thảo quên rằng, sau năm 2009 tình hình kinh tế-xã hội sẽ thay đổi và không giống với những dự đoán vào đầu năm 2009 và không ai có thể biết được mức trượt giá sẽ như thế nào và với 4 triệu đồng có đủ cho đối tượng nộp thuế đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu của mình hay không. Và rõ ràng hiện nay mức lương tối thiểu đã là trên 1.000.000 đồng và 4.000.000 đồng thì khó có thể đảm bảo mức sống bình thường cho người nộp thuế, bởi lẽ thu nhập cao thì chi phí càng nhiều. 

Thứ hai: Mức giảm trừ 4 triệu đồng cho người nộp thuế và 1,6 triệu đồng cho 1 người phụ thuộc là quá thấp. Theo bà Đỗ Thị Thìn - phó chủ tịch Hội Tư vấn thuế, nguyên tắc là bất cứ thu nhập nào cũng phải trừ chi phí trước khi tính thuế. Doanh nghiệp được trừ chi phí hợp lý trước khi tính thuế nên với thuế TNCN cũng cần như vậy. Bà Thìn dẫn chứng hiện các nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản... đều trừ cho cá nhân nộp thuế 40% thu nhập để người dân lo các chi phí như y tế, giáo dục, ăn ở..., sau đó mới cộng với mức giảm trừ gia cảnh để tính mức nộp thuế. Việt Nam giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng, theo bà Thìn, là quá thấp. Ít nhất cũng cần nâng lên 5 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, theo bà Thìn, cần quy định rõ trong mức 5 triệu đồng/tháng, bao nhiêu là trừ chi phí cần thiết để sống, mục đích là khi giá cả tăng, Nhà nước sẽ tăng chi phí này cho người dân. Hiện tại, người VN cho con học trường quốc tế phải trả chi phí 40-50 triệu đồng/tháng sẽ không được cho là chi phí hợp lý để trừ trước khi đóng thuế TNCN. Nhưng nếu là người nước ngoài lại được miễn khoản tiền đóng học phí cho con. Với mức giảm trừ gia cảnh hiện nay cho người phụ thuộc, nếu nhận người ngoài về nuôi, người này không có thu nhập thì được Nhà nước cho giảm trừ gia cảnh 1,6 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, nếu bố mẹ đẻ chỉ cần có thu nhập quá 500.000 đồng/tháng lại không được giảm trừ. 

Thứ ba: Thủ tục khai giảm trừ gia cảnh còn cứng nhắc, nhiêu khê. Theo quy định, ngoại trừ trường hợp người nộp thuế và người phụ thuộc cùng chung hộ khẩu thì tương đối dễ dàng, trường hợp khác hộ khẩu phải có giấy xác nhận của chính quyền địa phương (phường, xã) nơi đối tượng nộp thuế hoặc nơi người phụ thuộc sinh sống. Nếu người phụ thuộc trong độ tuổi lao động thì ngoài giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người nộp thuế, còn phải có thêm giấy xác nhận của cơ quan y tế về mức độ tàn tật không đủ khả năng lao động mới được giảm trừ thu nhập khi tính thuế. Anh Nguyễn Hoàng Nghĩa (Hải Phòng) kể anh nuôi bà nội năm nay 100 tuổi, có xác nhận của UBND phường nơi anh sống nhưng khi nộp hồ sơ thì Cục Thuế TP Hải Phòng không chấp nhận giảm trừ cho anh với lý do bà nội anh còn nơi nương tựa là bố mẹ anh. Do vậy, cơ quan thuế chỉ chấp nhận giảm trừ gia cảnh cho bố mẹ anh. Tuy nhiên theo anh Nghĩa, bố mẹ anh đã lớn tuổi và không có thu nhập nên tính giảm trừ cho anh là hợp lý. Tương tự, anh H. sống tại TP.HCM cho biết cũng rối với quy định người phụ thuộc. Anh có em gái trong độ tuổi lao động, bị tàn tật nhưng UBND phường nơi anh sinh sống cho rằng em gái anh vẫn có khả năng lao động nên không chứng nhận là người phụ thuộc. Trường hợp khác, chị Vân tại TP.HCM cho rằng quy định giảm trừ khá cứng nhắc, nếu trong độ tuổi lao động thì phải tàn tật, không có khả năng lao động trong khi chồng chị mới 54 tuổi bị bệnh thận rất nặng, không có khả năng lao động, chạy chữa hằng tháng rất tốn kém lại không được giảm trừ. Do nhiêu khê thủ tục như vậy nên hầu hết người nộp thuế đã tìm cách “lơ” trong thời gian giãn thuế. Về phía cơ quan được giao xác nhận hồ sơ giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế là UBND phường, xã cũng rất ngán vì không nắm hết mối quan hệ của người nộp thuế cũng như nguồn thu và tình trạng sức khỏe của người phụ thuộc. Đặc biệt trường hợp người nộp thuế và người phụ thuộc không sống cùng địa phương thì càng nan giải. Do vậy, chính quyền địa phương hầu hết chỉ xác nhận chữ ký chứ không thể xác nhận tính chính xác của nội dung kê khai.

Thứ tư: Nhà nước vẫn chưa kiểm soát được việc thu thuế TNCN dẫn đến nhiều bất hợp lí, không công bằng. Báo cáo đánh giá Luật thuế TNCN hiện tại, Hội Tư vấn thuế nêu thực tế Nhà nước thu được từ thuế TNCN ngày càng tăng: năm 2007 khoảng 7.000 tỉ đồng thì năm 2009 đã lên gấp đôi, tới 14.300 tỉ đồng (dù đã miễn thuế sáu tháng đầu năm do suy giảm kinh tế). Đến năm 2010, số thuế Nhà nước thu được cũng tăng gần gấp đôi, lên gần 25.000 tỉ đồng. Hội Tư vấn thuế cũng chỉ rõ thực tế hiện Nhà nước chỉ thu được thuế TNCN của những người làm công ăn lương. Những đối tượng này lại chỉ được hưởng mức giảm trừ quá thấp, trong khi có nhiều đối tượng trốn thuế ngang nhiên với số tiền “được giảm trừ” lên đến hàng tỷ đồng. Người dân thì vất vả với số tiền lương ít ỏi nay lại phải gánh thêm thuế thu nhập với mức giảm trừ không đủ ăn thì thật là đẩy khó cho dân nghèo.

III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH

1. Nguyên nhân của những bất cập

Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, là do hệ thống văn bản luật và các văn bản hướng dẫn còn chưa hoàn thiện, có những nội dung còn chưa sát với thực tế quản lý thu thuế tại Việt Nam, nên còn gây ra những hạn chế trong việc tận thu vào ngân sách nhà nước.

Thứ hai, do trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp sẽ dẫn tới sự yếu kém trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế đến mọi người dân. Lâu nay Nhà nước buộc người dân phải thực hiện nghĩa vụ thuế nhưng chưa chỉ ra cho họ thấy quyền lợi được hưởng, rằng mỗi con đường, mỗi ngôi trường, bệnh viện, sự an ninh của khu phố… đều từ tiền thuế của dân mà ra. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp cũng dẫn đến những sai phạm trong quá trình quản lý thu thuế: tính thuế, quyết toán thuế…Đặc biệt trong công tác thanh tra thuế, điều này càng thể hiện rõ ràng hơn. Thủ đoạn trốn thuế hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp. Trình độ cán bộ thuế còn nhiều hạn chế thì không thể phát hiện ra những sai phạm của đối tượng bị thanh tra. Trong những năm gần đây ngành thuế đã tập trung đào tạo kiến thức cơ bản cho cán bộ của ngành nhưng mới chỉ dừng lại ở việc gửi cán bộ đi học tại các trường đại học và trung học chứ chưa chuyên sâu về nghiệp vụ thuế và các kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch công chức nhà nước quy định. Ngành thuế đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng mới chỉ tập trung vào một số cán bộ chủ chốt, chưa làm được nhiều và thường xuyên đối với đội ngũ đông đảo cán bộ trực tiếp quản lý ở các địa phương. Đối với thuế thu nhập cá nhân thì luôn có chỉnh sửa thì việc đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thuế lại càng trở nên quan trọng. Vì vậy, trình độ chuyên môn của cán bộ thuế ở cấp cơ sở còn thấp. Nhiều cán bộ chưa nắm được kiến thức cơ bản về luật thuế ngay trong lĩnh vực chuyên môn mình đảm nhận.

Thứ ba, ở Việt Nam hiện nay, quá trình thanh toán tiền bằng tiền mặt vẫn là chủ yếu nên đã gây khó khăn cho cán bộ thuế trong công tác kiểm tra thu nhập của đối tượng lao động. Cơ quan thuế khó có thể xác minh và thẩm tra những kê khai về thu nhâp của đối tượng nộp thuế một khi thu nhập người lao động dưới hình thức tiền mặt, không có một chứng từ nào xác nhận việc thanh toán. Trong khi đó các khoản thu nhập lại rất không ổn định.

Thứ tư, do ý thức người dân về thuế TNCN còn thấp. Rất nhiều người dân chưa hiểu biết đầy đủ về thuế thu nhập cá nhân, sự tự giác còn chưa cao, chưa có sự hiểu biết cặn kẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế nên còn có những biểu hiện trốn tránh, thoái thác việc thực hiện Pháp luật thuế. Bản thân những người hiểu biết cũng cố tình làm sai và không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngay cả các cơ quan chi trả thu nhập, vì lợi ích của bản thân các đơn vị đó nên đã không tiến hành khấu trừ thu nhập. Nhà nước vẫn chưa thực sự chú trọng vào thuế thu nhập cá nhân, những chương trình tuyên truyền và giáo dục về thuế thu nhập cá nhân gần như không không được phổ biến rộng rãi . Điều này đã khiến cho thuế thu nhập cá nhân vẫn còn là một sắc thuế xa lạ đối với rất nhiều người.

Tóm lại, để hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, huy động nhiều hơn và hợp lý hơn nữa thu nhập của cá nhân cho nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội, ngành thuế và các cơ quan liên quan phải tìm các giải pháp thích hợp để giải quyết những hạn chế.

2. Định hướng hoàn thiện 

Căn cứ vào những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, cần hoàn thiện việc thực thi pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh theo các hướng sau đây:

- Thứ nhất: Hợp lí hóa quy định của pháp luật về mức giảm trừ gia cảnh theo hướng tăng mức giảm trừ gia cảnh tuyệt đối hoặc xây dựng các mức giảm theo lương cơ bản. Nếu theo hướng tăng mức giảm trừ gia cảnh tuyệt đối thì theo em nên tăng mức giảm trừ lên 5 triệu đồng/đối tượng nộp thuế và 2 triệu đồng/ người phụ thuộc để đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân tại các đô thị lớn. Nếu theo hướng xây dựng các mức giảm theo lương cơ bản thì tại cuộc hội thảo lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Luật thuế TNCN do Văn phòng Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, đã có ý kiến bày tỏ sự không đồng tình với việc quy định mức giảm trừ gia cảnh bằng con số cố định. Một số đề xuất tính giảm trừ gia cảnh theo mức trượt giá và mức độ tăng trưởng kinh tế-xã hội, tương ứng với mức lương tối thiểu do nhà nước quy định và điều chỉnh qua từng thời kỳ, nếu không luật sẽ trở nên lạc hậu. Theo TS Lý Phương Duyên - Học viện Tài chính, các nước đều cho người dân mức giảm trừ gia cảnh nhưng thường áp dụng khoảng ba năm là điều chỉnh. Mức giảm trừ ở Việt Nam cần linh động hơn và nên giao Bộ Tài chính thay đổi theo biến động giá cả thay vì áp cố định trong luật. Việc xây dựng và ban hành luật thuế thu nhập là công việc phức tạp, tuy nhiên việc đảm bảo thực thi còn phức tạp hơn nhiều lần. Để đảm bảo luật được thực thi, Chính phủ cần phải có cơ chế chặt chẽ cho phép giám sát được các khoản thu nhập chịu thuế của cá nhân. Làm được điều này cần phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước liên quan. trong bối cảnh khi nền kinh tế chưa có sự ổn định, lương chưa tăng mà giá đã tăng thì không nên quy định một mức cụ thể mà nên căn cứ vào mức lương tối thiểu để xác định mức miễn trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế như kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế chuyển đổi, chưa có sự ổn định như Việt Nam. Kết hợp hai ý kiến nói trên và điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, theo em luật nên quy định: Mức miễn trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế gấp 5 lần mức lương tối thiểu; Khoản giảm trừ cho người phụ thuộc gấp 2 lần mức lương tối thiểu.

- Thứ hai: Cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng kí giảm trừ gia cảnh. Bỏ quy định căn cứ vào hộ khẩu của người phụ thuộc để xác định người được giảm trừ gia cảnh mà chỉ cần xác định được mối quan hệ thuộc phạm vi được giảm trừ gia cảnh. Đối với những người phụ thuộc không có cùng hộ khẩu hoặc có cùng hộ khẩu với người có thu nhập thì chỉ cần những giấy tờ chứng minh người phụ thuộc theo quy định (bản sao giấy khai sinh để chứng minh quan hệ) mà không cần sổ hộ khẩu.

- Thứ ba: Bảo đảm bình đẳng giữa các nhóm lợi ích khác nhau. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh cần "hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ”.Theo đó, chúng ta phải làm sao để ai có thu nhập cũng phải nộp thuế nhưng thuế suất cho từng loại cần có nhiều bậc khác nhau (tối thiểu, trung bình thấp, trung bình cao, thu nhập cao), mức giảm trừ gia cảnh cũng phải khác nhau, còn việc hoàn thuế đối với các trường hợp này nên để tính toán vào cuối năm. Việc làm này sẽ tạo ra không chỉ tính công bằng trong các đối tượng mà có thể là một biện pháp ngăn chặn được tính không minh bạch, tham nhũng của các quan chức nhà nước và viên chức khác trong các doanh nghiệp. 

- Thứ tư : Tạo điều kiện để người dân hiểu, thích ứng và ủng hộ thuế thu nhập cá nhân: Để người dân ủng hộ sắc thuế thu nhập cá nhân này, cần phải làm cho họ thấy được cái hay, cái tiến bộ, cái lợi ích của họ khi nộp thuế. Thậm chí từ lúc nhỏ đã phải để họ được làm quen với “văn hoá” nộp thuế. Cần phải thừa nhận là, trình độ dân trí của ta còn thấp, bản thân thuế thu nhập cá nhân cũng là sắc thuế khá phức tạp. Trong khi đó, cách thức tuyên truyền về Luật thuế TNCN lại chưa phù hợp. Điều này thể hiện ở chỗ sử dụng quá nhiều những thuật ngữ chuyên môn sâu mà đa số dân chúng không hiểu được. Ngay như thuật ngữ“giảm trừ gia cảnh” người dân cũng không thể hiểu được. Bởi vậy trước mắt, cần nói sao cho dân hiểu. Chẳng hạn như: thay vì nói “áp dụng giảm trừ gia cảnh” thì cần nói “chỉ đánh thuế vào phần thu nhập của người lao động sau khi trừ đi một mức nhất định của thu nhập dành để nuôi sống người lao động và những người phụ thuộc như cha mẹ, con cái". Chẳng hạn, một người phải nuôi một con nhỏ có thu nhập 8 triệu đồng/tháng thì mức thu nhập để dành nuôi sống người lao động và nuôi con theo Luật là 5 triệu + 40% x 5 triệu = 7 triệu đồng. Tức là mỗi tháng người này chỉ phải nộp (8 – 7) x 5% = 50.000 đồng tiền thuế TNCN. Một ví dụ khác, thay vì nói “Đưa lãi tiền gửi vào thu nhập chịu thuế” thì nên nói “ Đánh thuế vào những người có lãi tiền gửi cao trên 5 triệu đồng/tháng”. Tức là, nếu một người có thu nhập từ lãi tiền gửi 7 triệu đồng/tháng, sẽ chỉ phải nộp (7 – 5) x 10% = 200.000 đồng. Rõ ràng, có hiểu được các nội dung trong luật mà nhà nước quy định thì dân chúng mới sẵn lòng đóng thuế.

Nhận thức của người dân về thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân còn khá mơ hồ mà lý do dẫn đến quan niệm về thuế của đại bộ phận dân chúng hiện nay là do chúng ta chưa quan tâm đưa nội dung giáo dục pháp luật về thuế vào trong chương trình giáo dục phổ thông. Mặt khác, khi tuyên bố về mục tiêu của sắc thuế này, không nên nói là “Chuyển từ điều tiết thu nhập của người có thu nhập cao sang điều tiết thu nhập của đại bộ phận dân cư” mà nên nói “Đảm bảo điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư, theo hướng những người có thu nhập thấp thì không thu thuế, những người có thu nhập càng cao càng phải nộp thuế nhiều hơn nhưng tỷ lệ thu không quá cao”. Với mức sống chưa cao, khi mục tiêu áp dụng được diễn đạt như trên, chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Để người dân ủng hộ sắc thuế này, cần phải làm cho họ thấy được cái hay, cái tiến bộ của sắc thuế, thấy được lợi ích của họ khi áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Về lâu dài, cần đưa nội dung giáo dục pháp luật thuế vào chương trình giáo dục phổ thông. Để mỗi công dân, ngay từ lúc nhỏ, đều được làm quen với “văn hoá” nộp thuế (trong đó có thuế thu nhập cá nhân) như là một nghĩa vụ hiển nhiên.

Thêm vào đó, để người dân ủng hộ thuế thu nhập cá nhân cũng như các sắc thuế khác của Nhà nước, cần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng Ngân sách nhà nước. Đồng thời, công khai, minh bạch hoá Ngân sách nhà nước để người dân thấy được đồng tiền thuế của họ đã được sử dụng hữu ích như thế nào cho xã hội. Từ đó, họ sẽ sẵn lòng nộp thuế cho Nhà nước.

KẾT LUẬN

Giảm trừ gia cảnh là một trong những quy định mang tính chất tiến bộ của pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Bên cạnh ý nghĩa cũng như những điểm tích cực, nó vẫn còn những hạn chế bất cập cần được sửa đổi trong thực tiễn để thật sự trở thành quyền lợi cơ bản của người nộp thuế. Để người dân ủng hộ sắc thuế này, cần phải làm cho họ thấy được cái hay, cái tiến bộ của sắc thuế, thấy được lợi ích của họ khi áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Về lâu dài, cần đưa nội dung giáo dục pháp luật thuế vào chương trình giáo dục phổ thông. Để mỗi công dân, ngay từ lúc nhỏ, đều được làm quen với “văn hoá” nộp thuế (trong đó có thuế thu nhập cá nhân) như là một nghĩa vụ hiển nhiên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
2. Nghị định số 100 /2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
3. Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30 tháng 9 năm 2008, Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
4. Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18  tháng 7 năm 2007, Hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế về việc đăng ký thuế.
5. Thông tư 62/2009/TT-BTC ngày 27 tháng 3 năm 2009, hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
6. Công văn 5231/TCT-TNCN ngày 24 tháng12 năm 2009, về khấu trừ thuế TNCN đối với khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công
7.    23. Công văn số 450/TCT-TNCN ngày 08/02/2010 của Tổng cục Thuế về việc hướng dẫn tờ khai thuế TNCN.
8.    24. Công văn 451/TCT-TNCN ngày 08 tháng 02 năm 2010,hướng dẫn Quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2009.
9. Giáo trình “Luật thuế Việt Nam”, ĐH. Luật hà nội, 2010.

No comments:

Post a Comment