23/08/2014
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dưới góc nhìn so sánh
Mỗi một hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vi phạm. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều trường hợp hoặc là không thể chứng minh lỗi của người gây thiệt hại đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật , hoặc người này vốn dĩ không có lỗi – không hề có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại , nhưng thiệt hại vẫn xảy ra vì nhiều lý do khác nhau : ví dụ như cây cối đổ đè lên người đi đường, công trình xây dựng bị sụp lún đè lên làm sập nhà bên cạnh, chó cắn người qua đường…và nếu cứ đòi hỏi yếu tố lỗi làm căn cứ phát sinh trách nhiệm thì sẽ là rào cản cho việc bảo vệ quyền lợi những người bị thiệt hại. Thực tế ấy đòi hỏi một hướng giải quyết mới so với trách nhiệm BTTHNHĐ do hành vi gây ra mà bắt buộc phải chứng minh được lỗi của chủ thể vi phạm.

Trong trường hợp này, pháp luật nhiều quốc gia đều chung quan điểm về hướng giải quyết là áp đặt nghĩa vụ bồi thường thiệt hại lên những người có trách nhiệm ràng buộc với tài sản đó như chủ sở hữu , người quản lý hay nắm giữ tài sản đã gây ra thiệt hại nhằm mục đích khắc phục những hậu quả , khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại.Tuy nhiên mỗi quốc gia có những lập luận riêng về vấn đề này mà ảnh hưởng đến cấu trúc – nội dung chế định Bồi thường thiệt hại do tài sản trong pháp luật các quốc gia đó.

Trước bối cảnh , pháp luật dân sự Việt Nam chưa thực sự hệ thống nếu không nói còn tồn tại nhiều bất cập trong chế định Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra , tôi xin trích dẫn bài viết đăng trên Tạp chí Luật học, số 3/2013 của Ths.Bùi Thị Thanh Hằng và ThS. Đỗ Giang Nam :“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tác động của tài sản gây ra dưới góc nhìn so sánh” để giúp mọi người có cái nhìn tổng quan,sâu sắc hơn về chế định này trên cơ sở tham chiếu một số hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới.

1. Trong pháp luật Hoa Kỳ

Các nước theo hệ thống Common Law không có lý thuyết riêng về trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại , đối tượng mà luật điều chỉnh chính là hành vi sử dụng và kiểm soát tài sản của chủ sở hữu hay người quản lý được xem xét theo một trong hai loại trách nhiệm : Trách nhiệm BTTH do bất cẩn ( Neglient Tort) hoặc trách nhiệm nghiêm ngặt ( Strict Liability)

Trách nhiệm nghiêm ngặt được các nước Common Law nói chung và Hoa Kì nói riêng đề cập lần đầu tiên vào năm 1868 thông qua phán quyết vụ Rylands v. Fletcher của Anh. Theo vụ việc, nguyên đơn là ông chủ hầm mỏ kiện bị đơn là ông chủ xưởng cưa – người đã xây một bể nước lớn trên mảnh đất của mình với lý do nước từ bể nước của bị đơn đã tràn xuống gây thiệt hại cho hầm mỏ của nguyên đơn. Tuy không đưa ra được bất kì bằng chứng nào chứng minh được bị đơn có lỗi nhưng nguyên đơn đã yêu cầu toàn án xem xét vấn đề liệu có cần thiết phải chứng minh yếu tố lỗi trong trường hợp này ? Tòa án xem xét và đưa ra nhận định : Trong vụ việc này, yếu tố lỗi là không cần thiết để buộc bị đơn có trách nhiệm BTTH. Trong đó, thẩm phán Lord Cairn đã lập luận rằng, khi bị đơn tạo mục đích sử dụng không tự nhiên ( non-natural use) đối với mảnh đất của mình bằng việc xây dựng công trình nhân tạo trên đố, dẫn đến việc làm tràn nước xuống hầm mỏ của nguyên đơn thì bị đơn phải chịu trách nhiệm bòi thường. Thẩm phán Lord Cranworth đã khái quát hóa: “ Nếu một người mang vào hay xây dựng trên mảnh đất của mình bất kì thứ gì mà từ đó nếu nó gây ra thiệt hại cho láng giềng thì anh ta tự gây rắc rối cho bản thân mình”. Ông cũng nhấn mạnh nếu người quản lý một vật “ để vật đó gây ra thiệt hại thì anh ta phải chịu trách nhiệm bồi thường bất kể anh ta hành xử cẩn trọng đến đâu hay bất kể anh ta đã thực hiễn những biện pháp cảnh báo nào để ngăn ngừa tai nạn xảy ra”

Trong lịch sử phát triển của chế định này, dường như lập luận của thẩm phán Richard Posner trong vụ Indiana Harbor Belt Railroad v.AmericanCyanamid Co là lập luận thuyết phục nhất và được thừa nhận rộng rãi bởi các thẩm phán Hoa Kỳ. Theo đó “mục đích của việc áp đặt chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt – không dựa trên yếu tố lỗi đối với các hoạt động có độ rủi ro cao là để khuyến khích việc giảm tần suất việc tham gia các hoạt động đó”. Lập luận này của thẩm phán Richard Posner được dựa trên phương pháp nghiên cứu kinh tế - luật.Theo đó, ông cho rằng có những lĩnh vực mà trách nhiệm BTTH cần dựa trên yếu tố lỗi và có những lĩnh vực chỉ trách nhiệm nghiêm ngặt ( không dựa trên yếu tố lỗi) mới phát huy tối đa hiệu quả. Nói một cách đơn giản, trường phái kinh tế - luật đã đưa ra quan điểm : Chức năng căn bản , trước hết của luật BTTH ngoài hợp đồng là giảm thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn trong xã hội. Nếu để tránh thiệt hại xảy ra, con người chỉ cẩn hành động theo những chuẩn mực cẩn trọng nhất định, nói chách khác yếu tố quyết định giảm thiệt hại là “mức độ cẩn trọng” ( The level of care) thì trách nhiệm BTTH dựa trên lỗi là giải pháp hữu hiệu nhằm tối đa hóa lợi ích xã hội. Tuy nhiên, đối với những trường hợp mặc dù con người đã cẩn trọng hay hành xử đúng theo chuẩn mực mà thiệt hại vẫn xảy ra thì khi đó trách nhiệm nghiêm ngặt được áp dụng để tác động vào “ mức độ hoạt động”.

Trên thực tế, các học giả Hoa Kì không đưa ra nguyên lý tổng quát về chế định trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra song chúng ta có thể tìm thấy bóng dáng của nó trong các trường hợp cụ thể của trách nhiệm nghiêm ngặt như: các thiệt hại do súc vật thuộc sở hữu hay quản lý của bị đơn gây ra, các hoạt động có độ nguy hiểm cao hơn mức thông thường, các thiệt hại do sản phẩm bị khuyết tật gây ra.

Bên cạnh việc các qui định của pháp luật Hoa Kì về trách nhiệm nghiêm ngặt do sản phẩm khuyết tật gây ra dường như đã trở thành khuôn mẫu cho một số quốc gia trong việc xây dựng luật về trách nhiệm sản phẩm, cũng cần nhấn mạnh rằng các qui định của pháp luật quốc gia này về trách nhiệm nghiêm ngặt do tài sản, hoạt động có độ nguy hiểm cao hơn mức thông thường (abnormally dangerous activity) cũng đang nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Điều này được chứng minh thông qua việc nhóm soạn thảo bộ nguyên tắc về luật BTTH ngoài hợp đồng châu Âu (The princile of European Tort Law- PETL) đã lựa chọn cách tiếp cận tương tự như các qui định trong Tuyển tập lần thứ 2 về BTTH ngoài hợp đồng của Hoa Kỳ ( Restatement second of Tort) . Theo đó:

Điều 159 qui định : Người thực hiện các hoạt động có tính nguy hiểm bất thường phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại về người , tài sản của người khác do hoạt động đó gây ra, bất kể người đó đã thực hiện sự cẩn trọng tối đa để ngăn ngừa thiệt hại.

Điều 520 đưa ra các yếu tố để xác định mỗi hoạt động được coi là có tính nguy hiểm bất thường bao gồm :
1. Mức độ nguy hiểm đối với thân thể hoặc tài sản của người khác;
2. Mức độ thiệt hại
3. Tính không thể tránh khỏi của thiệt hại cho dù có thực hiện sự cẩn trọng tối đa.
4. Tính thông thường của hoạt động đó trong cộng đồng
5. Sự cân bằng giữa giá trị mà hoạt động đem lại và thiệt hại mà nó gây ra cho cộng đồng

Bên cạnh chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt , pháp luật Hoa Kì còn bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại trong trường hợp tài sản gây ra tren cơ sở học thuyết “ Res Ipsa Loquytor” – “vật- bản thân nó có tiếng nói”. Học thuyết này xuất phát từ vụ Byrne v. Boadle . Theo đó , nguyên đơn bị thương nặng do thùng bột mì rơi trúng nhưng không có bất kì nhân chứng hay chứng cứ nào được tìm thấy chứng minh bị đơn đã thực hiện hành vi bất cẩn dẫn đến thùng bột mì bị rơi. Tuy nhiên, thẩm phán Chief Baron Pollock đã cho rằng : “ Có một số vụ việc, vật sẽ tự lên tiếng và trong trường hợp này, thùng bột mì sẽ không thể lăn ra khỏi ngôi nhà nếu không có hành vi bất cẩn của ai đó”.

Trong trường hợp người bị thiệt hại không thể chứng minh bị đơn đã thực hiện hành vi bất cẩn nhưng chứng minh được ba yếu tố : Tai nạn thông thường không thể xảy ra nếu không có sự bất cẩn, tai nạn được tạo ra bởi vật hoặc công cụ thuộc quyền kiểm soát đặc biệt của bị đơn và người bị thiệt hại hoàn toàn không có lỗi trong việc xảy ra tai nạn thì người có quyền kiểm soát vật, công cụ đó sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH do hành vi bất cẩn của mình,

2. Trong pháp luật công hòa liên bang Đức

Nhìn chung, pháp luật TNBTTHNHĐ của Đức cho đến nay chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi bởi tại điều 823 BLDS Đức đã nêu rõ “Không thể có trách nhiệm mà không có lỗi”. Do vậy, thước đo để xác định trách nhiệm chính là nghĩa vụ hành xử theo những chuẩn mực mà hoản cảnh yêu cầu – nghĩa vụ hành xử cẩn trọng. Tuy nhiên , cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, pháp luật của Đức cũng đã dè dặt thừa nhận trách nhiệm nghiêm ngặt trên cơ sở điều 833 – trách nhiệm do vật nuôi. Sự thừa nhận này có thể được nhìn nhận qua lịch sử phát triển khoa học pháp lý Đức . Cụ thể, từ lý thuyết nghĩa vụ hành xử cẩn trọng , khoa học pháp lý CHLB Đức đã phát triển lý thuyết bảo đảm an toàn công cộng (Verkehrssicherungspfllicht) – cơ sở xác định TN trong trường hợp thiệt hại xảy ra do tác động của tài sản mà không hoàn toàn dựa trên lỗi của người có quyền trông giữ tài sản. Theo lý thuyết này, người nào tạo ra nguồn nguy hiểm tiềm tàng cho lợi ích hợp pháp của người khác sẽ có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích đó khỏi rủi ro do nguồn nguy hiểm này tạo nên. Trách nhiệm dựa trên sự rủi ro được xuất phát từ triết lý: Người đang sử dụng những vật nguy hiểm tiềm tàng – mặc dù những vật này vẫn được coi là có ích cho xã hội, phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do tác động của vật đó, bất kể họ có lỗi hay không, nói cách khác, anh ta phải chịu trách nhiệm nghiêm ngặt khi sư dụng các vật đó .Tuy nhiên , do chịu sự chi phối của nguyên tắc nền tảng – trách nhiệm dựa trên yếu tố lỗi nên trên thực tế, tòa án của CHLB Đức chỉ áp dụng trách nhiệm dựa trên nguy cơ rủi ro trong những trường hợp được các luật khác qui định cụ thể.

Cách tiếp cận hạn chế này của người Đức được chứng minh thông qua phán quyết nổi tiếng ngày 15/10/1970 của Tòa án tối cao .Theo vụ việc, một lái xe bị thương khi tai nạn xảy ra tại ngã tư có đèn tìn hiệu giao thông bị hỏng đã kiện thành phố vì cho rằng cơ quan công quyền đã không thực hiện đúng trách nhiệm duy trì, bảo dưỡng, quản lý, hệ thống đèn tín hiệu .Tuy nhiên, yêu cầu của người lái xe bị bác bỏ bởi lẽ anh ta không thể chứng minh được hệ thống đèn tín hiệu bị hỏng là do lỗi của cơ quan quản lý. Khi người lái xe nại ra rằng, thành phố phải chịu trách nhiệm BTTh ngay cả khi không có lỗi dựa trên những rủi ro mà hệ thống đèn tín hiệu hòng đã dẫn đến tai nạn của anh ta, Tòa án tối cao đã bác bỏ luận điểm đó với lý do : “ Hệ thống pháp luật của chúng ta chỉ quy trách nhiệm đối với những hành vi sai trái của người gây thiệt hại .Cơ quan lập pháp đã qui định rõ ràng trách nhiêm dựa trên rủi ro chỉ trong một vài tình huống đặc biệt…bởi vì nó tìm thấy một nhu cầu để thực hiện một ngoại lệ cho nguyên tắc lỗi …Trong các tình huống khác mà trách nhiệm dựa trên rủi ro có thể đã được đưa ra..thì tư pháp không có thể lấn át lập pháp”

Cách tiếp cận hạn chế của hệ thống pháp luật Đức về trách nhiêm nghiêm ngặt còn thể hiện ở một số điểm như sau :Luật đường sắt năm 1838 , Luật giao thông đường bộ năm 1952, Luật Hàng không năm 1922,Luật năng lượng nguyên tử năm 1959 , Luật an toàn nước năm 1952…Mặc dù đặt ra chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đôi với các hoạt động nguy hiểm nhưng các luật này lại không bảo đảm chúng. Đó là , theo các luật này, bị đơn có thể được miễn trách nhiệm trong trường hợp bất khả kháng hoặc được giảm trách nhiệm nếu nạn nhân có lỗi; bên cạnh đó mặc dù không cần yếu tố lỗi nhưng để qui tránh nhiệm BTTH thì các luật này đòi hỏi nạn nhân phai có trách nhiệm chứng minh mối quan hệ nhân quả . Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực như môi trường, biến đổi gen, các luật này cho phép nạn nhân được hưởng suy đoán đơn giản về quan hệ nhân quả.

Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, BLDS Đức mặc dù vẫn áp dụng nguyên tắc TN dựa trên yếu tố lỗi nhưng đã chuyển nghĩa vụ chứng minh lỗi của người phải bồi thường từ phía nguyên đơn sang bị đơn. Ví dụ, nếu xảy ra các thiệt hại, sự cố của công trình xây dựng ( tòa nhà, cổng, tường…) thì chủ sở hữu hoặc người đang quản lý các công trình xây dựng đã bị suy đoán là có lỗi . Trong khi qui định chung là chủ sở hữu phải phải chịu TNBTTH theo điều 836 BLDS , Điều 836 cũng đồng thời cho phép bị đơn thoát khỏi trách nhiệm đó nếu anh ta chứng minh được mình đã hành xử cẩn trọng để tránh thiệt hại đó xảy ra. Như vậy , có thể thấy răng mặc dù điều 836 đã thắt chặt trách nhiêm BTTH của chủ sở hữu hay người đang quản lý cac công trình xây dựng song về nguyên tắc , điều luật này đã không áp đặt trách nhiệm nghiêm ngặt lên bị đơn. Qui định này chỉ đưa ra suy đoán rằng bị đơn có lỗi ( chẳng hạn như không bảo trì công trình) , cho đến khi bị đơn có thể chứng minh được mình đã hành xử cẩn trọng trong việc bảo trì công trình đó. Tuy nhiên, trên thực tế xét xử, việc chứng minh điều này là rất khó khăn cho bị đơn; do vậy các qui định này thực tế cũng có tác dụng bảo vệ người bị thiệt hại không kém hiệu quả so với áp dụng chế độ nghiêm ngặt.

3. Pháp luật Pháp

Nếu xem xét trên cơ sở yêu tố lỗi, có thể nói BTTH do tác động tài sản gây ra là loại trách nhiệm dân sự đầu tiên áp dụng nguyên tắc trách nhiệm không dựa trên yếu tố lỗi trong hệ thống pháp luật Cộng hòa Pháp. Hệ thống pháp luật mà lỗi được xem là yêu tố không thể thiếu để xác định trách nhiệm BTTH.

Để có cái nhìn rõ ràng, chính xác về luật BTTH do tác động tài sản theo pháp luật dân sự của cộng hòa Pháp, việc xem xét chế định này theo sự phát triển của lịch sử là cần thiết bởi BTTH do tác động của vật gây ra nói riêng và trách nhiêm dân sự ngoài hợp đồng nói chung là chế định được phát triển chủ yếu dựa trên các án lệ.

Nói cách khác ,luật về BTTH do tác động của vật gây ra là chế định được các thẩm phán cải cách và phát triển từ thế kỉ XIX. Bên cạnh đó, cũng cần nói đến vai trò của lập pháp trong lĩnh vực này.

Bằng sự bắt đầu khiêm tốn, các nhà soạn thảo BLDS 1804 chỉ sử dụng thuật ngữ “ choses” để chỉ đến hai loại tài sản “animal” và batiment” ( nhà). Do vậy, khi thiệt hại xảy ra do tác động của tài sản không phải là động vật hay nhà , để được bồi thường thiệt hại nạn nhân phả chỉ ra lỗi của người sử dụng tài sản. Nói cách khác , lúc này trách nhiêm dân sự sẽ được xem xét bởi điều 1382 hoặc điều 1383 BLDS.

Cuối thế kỉ XIX, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa là sự gia tăng những nguy hiểm do máy móc mang lại , cùng với đó là những thiệt hại mà các nhà soạn thảo BLDS năm 1804 chưa dư liệu được và không thể áp dụng các qui đinh về trách nhiệm dựa trên lỗi để cho phép bồi thường do trong các trường hợp này rất khó chứng minh lỗi là nguyên nhân gây ra thiệt hại, cũng như xác định người có lỗi. Khi đó , sự đòi hỏi phải chứng minh lỗi đã trở thanh yếu tố cản trở việc bồi thường , ngay cả trong trường hợp thiệt hại đó là nghiêm trọng. Đây chính là yếu tố thúc đẩy các thẩm phán tìm ra hướng đi mới trong việc xác định trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Hướngđi này được đánh dấu bằng phán quyết về vụ Teffaine năm 1896. Theo vụ án , vợ của người tử nạn trong vụ nổ nồi hơi chiếc tàu kéo mà nạn nhân đang làm việc đã kiện chủ sở hữu của tàu kéo đòi bồi thường thiệt hại. Tòa phúc thẩm đã dựa trên điều 1386 về trách nhiệm của chủ sở hữu ngôi nhà bị đổ nát để đưa ra phán quyết buộc chủ sở hữu ngôi nhà bị đổ nát để đưa ra phán quyết buộc chủ sở hữu máy móc phải chiu trách nhiêm bồi thường thiệt hại với lập luân : Chủ sở hữu máy móc cũng phải chịu trách nhiệm đối với bất kì khiếm khuyết nào của tài sản tương tự như chủ sở hữu đối với nhà đổ nát. Tuy nhiên , lập luận này đã bị Tòa phá án bác bỏ với luận điểm chỉ cần chú trọng vào BTTH chứ không quan tâm đến nguyên nhân của thiệt hại do có lỗi hay không. Theo đó, dựa trên đoạn 1 điều 1384: Mỗi người phải chịu trách nhiệm không chỉ đối với những thiệt hại do chính mìn gây ra , mà còn cả những thiệt hại gây ra do tác động của người mà họ phải chịu trách nhiệm và vật họ phải coi giữ,Tòa phá án đã quy trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu tàu kéo và đưa ra nguyên tắc chung cho trách nhiệm do tác động của tài sản gây ra – trách nhiệm không cần lỗi.

Hai năm sau phán quyết vụ Teffaine,Luật ngày 9/4/1898 về tai nạn lao động được thông qua – Luật liên quan đến lĩnh vực trách nhiệm bồi thường lấy cơ sở từ lý thuyết về rủi ro. Luật này đưa ra trách nhiệm không cần lỗi của người sử dụng lao động.

Bên cạnh tai nạn lao động, loại thiệt hại khác cũng gây khó khăn trong việc chứng minh lỗi là thiệt hại xảy ra trong các tai nạn giao thông - những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về thân thể. Loại thiệt hại này một lần nữa cho thấy sự cản trở của nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi đối với việc bồi thường. Án lệ của Cộng hòa Pháp đã giải quyết khó khăn này thông qua phán quyết vụ Jand’Heur ngày 13/2/1930 – phán quyết về yêu cầu BTTH của mẹ đứa trẻ bị xe tải đâm, bằng cách chỉ ra nguyên tắc suy đoán trách nhiệm được rút ra từ đoạn 1 Điều 1384. Theo đó, người trông giữa tài sản chỉ có thể được miễn trách nhiệm bằng cách chứng minh thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hay do nguyên nhân bên ngoài không thể tính trước . Điều này cho phép nạn nhân có thể dễ dàng quy trách nhiệm mà không dựa vào lỗi của người trông giữ tài sản và người trông giữ tài sản cũng khó có thể tránh được trách nhiệm bồi thường.

Như vậy, trong giai đoạn này, các thẩm phán chính là người đã xây dựng nên nguyên tắc chung của trách nhiệm BTTH do tác động của tài sản gây ra xuất phát từ đoạn 1 Điều 1384.Bởi trên thực tế, ở thời điểm soạn thảo, đoạn 1 điều 1384 chỉ được xem là điều khoản chuyển tiếp về mặt ngữ pháp từ các điều 1382,1383 về trách nhiệm dựa trên lỗi sang các điều 1385 và 1386 về trách nhiệm do động vật, nhà đổ nát gây ra nhưng bằng sự sáng tạo, các thẩm phán đã giải phóng nó khỏi mục đích ban đầu và biến nó trở thành nguyên tắc chung về trách nhiệm BTTH do tác động của tài sản gây ra – Nguyên tắc không dựa trên lỗi. Điều này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của người Pháp từ triết lý tự do sang triết lý có tính xã hội cao hơn. Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc trách nhiệm dân sụ quan trọng nhất ở Cộng hòa Pháp.

Từ năm 1930, cùng với sự phát triển của cơ chế trách nhiệm không dựa trên lỗi, trách nhiệm BTTH do tác động của tài sản gây ra cũng ngày càng phong phú hơn khổng chỉ nhờ các án lệ mà òn nhờ hoạt động lập pháp mà trước hết , phải kể đến Đạo luật ngày 05/7/1985 – Đạo luật Badinter. Đạo luật này đã thiết lập cơ chế trách nhiệm BTTH đặc biệt do vật , phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gây ra. Theo qui định của Đạo luật này ,nạn nhân có thể được bồi thường mà không cần chứng minh lỗi của người lái xe hay chủ sở hữu của phương tiện vì đó là trách nhiệm BTTH dựa trên rủi ro. Đặc biệt cơ chế nỳ đôi khi còn tách biệt với khái niệm quan hệ nhân quả ( nói cách khác, cơ chế này bỏ qua khái niệm quan hệ nhân quả) bởi người lái xe, chủ sở hữu phương tiện cơ giới đôi khi phải bồi thường ngay cả khi thiệt hại không phải do họ gây ra mà do nguyên nhân , tình huống ngoài ý chí không thể dự kiến và không thể vượt qua được. Đạo luật này đã đánh dấu sự tiến bộ trong pháp luật trách nhiêm của cộng hòa Pháp và có ảnh hưởng lớn tới các luật được ban hành gần đây như luật BTTH nạn nhân của hoạt động khủng bố. Đây là loại BTTH được thực hiện độc lập trong chừng mực nào đó , việc BTTH được tách khỏi khái niệm trách nhiệm dân sự,

Luật quan trọng thứ hai trong hệ thống luật về TNBT do tài sản gây ra là luật về trách nhiệm BTTH do sản phẩm có khuyết tật. Đây là Luật rát quan trọng ở Cộng hòa Pháp bỏi vì nó điều chỉnh việc bồi thường tất cả các thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng. Điểm đáng lưu ý là Luật cho phép người bị thiệt hại có thể được bồi thường trong mọi trường hợp mà không cần chỉ ra họ có cần xác lập hợp đồng với nhà sản xuất hay không và ngay cả trong trường hợp nạn nhân không xác định được nhà sản xuất thì họ vẫn có thể yêu cầu nhà phân phối bồi thường.

Có thẻ nói hai luật này thực sự là bước phát triển quan trọng của pháp luật Cộng hòa Pháp trong lĩnh vực BTTH do tác động của tài sản bởi đối tượng điều chỉnh của chúng đã vượt ranh giới giữa trách nhiêm trong và ngoài hợp đồng .

Trong xu hướng phát triển của cơ chế trách nhiệm không dựa trên yếu tố lỗi , pháp luật Pháp đã mở rộng phạm vi đối tượng gây thiệt hại không chỉ gồm những vạt chuyển động mà bao gồm cả những vật không chuyển động; không chỉ gồm những vật là nguồn nguy hiểm mà còn là những vật về bản chất không phải nguồn nguy hiểm; ngày nay, đối tượng này còn được mở rộng đến cả dược phẩm , thực phẩm, sản phẩm máu, môi trường sinh thái..Cùng với đó, là việc mở rộng phạm vi các loại thiệt hại theo xu hướng mọi thiệt hại chứng minh được đều được bồi thường và cuối cùng là mở rộng cả về phạm vi người chịu trách nhiêm cũng như người được bồi thường.

Xu hướng mở rộng trách nhiệm BTTH không dựa trên yếu tố lỗi của Pháp “ xa lạ” với các quốc gia khác nhưng hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội của quốc gia này và điều này được giải thích bởi hệ thống bảo hiểm rất phát triển. Hệ thống này cho phép nạn nhân được bảo vệ cao nhát nhưng lại không đè nặng trách nhiệm lên người trông giữ tài sản gây ra thiệt hại – Hệ thống BTTH được bảo đảm bằng tập thể hay sự khách quan hóa luật BTTH do tác động tài sản gây ra.

4. Trách nhiệm BTTH do tác động tài sản gây ra theo đề xuất của PETL và DCFR.

Hiện nay xu hướng quan trọng đang được hình thành ở Châu Âu là hài hòa hóa các luật trái vụ, trong đó có luật BTTH do tác động của tài sản hoặc hoạt động nguy hiểm gây ra. Điều này thể hiện ở việc các học giả luật so sánh nhiều lần kêu gọi việc xây dựng điều khoản chung về trách nhiệm nghiêm ngặt đối với những người trông giữ các nguồn nguy hiểm, nhằm thay thế cho sự “ chắp vá” của các luật đặc biệt. Các đề xuất này cũng chính là sự phản ánh việc lựa chọn giữa hai mô hình : Nguyên tắc điều khoản chung hay nguyên tắc liệt kê.

Xuất phát từ mong muốn nhát thể hóa hệ thống pháp luật BTTH ngoài HĐ để tiến tới xây dựng BLDS chung châu Âu, 2 nhóm nghiên cứu bao gồm các học giả hàng đầu đã nghiên cứu đề xuất bộ nguyên tắc về luât BTTH ngoài hợp đồng châu Âu ( PETL) năm 2005 và bộ tham khảo chung về BTTH ngoài hợp đồng ( Draft common Frame of reference, viết tắt là DCFR). Điều đáng chú ý là trong nỗ lực nhất thể hóa này, các học giả không chỉ nghiên cứu luật châu Âu mà còn tham chiếu những qui tắc mà họ cho là hợp lý trong pháp luật Hoa Kì về trách nhiệm nghiêm ngặt.

Trong PETL, các học giả lựa chọn nguyên tắc điều khoản chung. Theo đó điều khoản chung duy nhất về trách nhiệm nghiêm ngặt – Điều 5: 101 ( 1) có nội dung : “người thực hiện các hoạt động có tính nguy hiểm bất thường phải chịu trách nhiệm nghiêm ngặt đối với các thiệt hại do nguy cơ tiềm tàng của những hoạt động đó gây ra”

Tiếp theo đó Điều 5:101(2) PETL đưa ra các tiêu chí đánh giá hoạt động được coi là có tính nguy hiểm bất thường gồm:

“ a, Nó tạo ra một mối nguy hiểm cao độ và có thể dự báo trước, ngay cả khi tất cả các sự cẩn trọng cần thiết đã được thực hiện trong quản lý nó
b, Nó không phải là hoạt động phổ biến”

Như vậy theo PETL yếu tố quyết định để qui trách nhiệm nghiêm ngặt ở đây không phải là hành vi sai, lệch chuẩn của con người mà là sự kiểm soát của người đó đối với các hoạt động nguy hiểm, vì vậy trách nhiệm có thể được áp đặt ngay cả khi rủi ro diễn ra là do lỗi của người khác trong việc quản lý, vận hành nó. Điều đáng chú ý đối với qui định tại điểm b thì dường như việc điều khiển các phương tiện giao thông không phải là hoạt động bị áp đặt chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt, mặc dù hoạt động này rõ ràng có tính nguy hiểm bất thường, có nguy cơ xảy ra tai nạn cao, ngay cả khi người điều khiển thực hiện tất cả các sự cẩn trọng cần thiết. Nhưng để đảm bảo sự mềm dẻo của nguyên tắc này , Điều 5:102 dường như mở rộng phạm vi áp dụng chế độ trách nhiệm bằng việc cho phép luật của các quốc gia thành viên quy định thêm các hoạt động được đặt dưới chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt. Có nghĩa là, các quốc gia có thể đưa vào phạm vi trách nhiệm nghiêm ngặt những hoạt động không phải là nguy hiểm bất thg hay những hoạt động thuộc sử dụng thông thường .Cụ thể các quốc gia có thể tự mình quyết định việc đưa các hoạt động giao thông đường bộ vào phạm vi trách nhiệm nghiêm ngặt; trên thực tế, hầu hết các quốc gia Châu Âu đều coi hoạt động giao thông đường bộ là hoạt động có khả năng gây nguy hiểm cao.

Khác với những người soạn thảo PETL, những người soạn thảo DCFR lại khước từ một điều khoản chung. Thay vào đó ,họ lựa chọn nguyên tắc liệt kê thay vì việc né tránh những chế độ đặc biệt. Trong DCFR, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được phân loại thành : Trách nhiệm BTTH do cố ý ( intentional tort) , TNBTTH do vô ý ( negligent tort) và trách nhiêm BTTH không do cố ý hay bất cẩn ( thực chất là TNBTTH nghiệm ngặt – strict liability). Chương III quyển VI của DCFR xác định các loại trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt đối với : Thiệt hại do tình trạng không an toàn của bất động sản gây ra ( Điều VI-3:02), thiệt hại do động vật gây ra ( Điều VI- 3:203),thiệt hại do sản phảm bị khuyết tật gây ra( Điều VI-3:204); thiệt hại do phương tiện giao thông cơ giới gây ra ( điều VI- 3:205), thiệt hại do các chất hoặc khí thải nguy hiểm gây ra ( điều VI- 3:206)

Hai đề xuất này đều nhận được những chỉ trích nhất định . Có học giả nhận xét “Điểm chung của hai chế độ này là các qui định của chúng về trách nhiệm nghiêm ngặt kể cả là chế độ một điều khoản chung hay chế độ liệt kê các loại trách nhiệm nghiêm ngặt cụ thể là chưa đựng các điều khoản cho phép luật của các quốc gia thiết lập thêm nhiều trường hợp trách nhiệm nghiêm ngặt hơn nữa”. Nhiều học giả đã phê phán điểm yếu nhất của DCFR là thiếu qui định chung về trách nhiệm nghiêm ngặt đối với thiệt hại do tài sản gây ra, mặc dù qui đinh từ điều VI- 3:202 đến 3:206 DCFR rõ ràng hàm chứa các hoạt động mà thông thường được coi là có độ nguy hiểm cao hơn mức thông thường như : Trông giữ động vật, phương tiện giao thông,công trình xây dựng hay các chất độc nguy hại..Nguyên nhân chính có lẽ do các nhà soạn thảo DCFR đặt trọng tâm vào tính xác định , an toàn pháp lý và tính dự báo trước bởi nếu chỉ xay dựng một điều khoản chung ( mặc dù đi kèm với những yêu cầu pháp lý về điều kiện xác định một hoạt động được coi là tạo ra mức độ nguy hiểm cao hơn so với mức thông thường của PETL) sẽ cho phép tòa án có thể áp đặt trách nhiệm nghiêm ngặt một cách tùy tiện và điều này gây lo ngại rằng các chủ thể có thẻ không dự báo được trước hoạt động nào sẽ bị áp đặt trách nhiệm nghiêm ngặt Tuy nhiên, việc thiếu điều khoản chung sẽ không phản ánh được phạm vi bao quát việc ápđặt chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt lên các hoạt động nguy hiểm bất thường mà ngay cả khi chủ thể của nguồn nguy hiểm đó đã thực hiện việc quản lý cẩn trọng nhất nhưng cũng không thể tránh khỏi nguy cơ rủi ro.

Ở Đức , chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt được gắn chặt với thuyết rủi ro – trách nhiệm nghiêm ngặt chỉ áp dụng đối với vật mà bản chất của nó thường tạo ra mức độ nguy hiểm cao hơn thông thường; hệ thống pháp luạt của Cộng hòa Pháp lại áp đặt chế độ này đối với  tất cả các vật . cho dù vật đó về bản chất có nguy hiểm hay không hoặc có khuyết tật hay không. Trong khi đó, Hoa Kì dù không đưa ra lý thuyết về trách nhiệm BTTH mà không dựa trên hành vi sai lệch chuẩn của con người song cũng đưa ra những qui định áp đặt chế dộ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với sử dụng ,quản lý, khai thác các tài sản hàm chứa nguy cơ xảy ra tai nạn cao hơn mức thông thường cho dù các chủ thể có áp dụng tất cả các biện pháp quản lý an toàn cũng không thể hạn chế được tai nạn. Như vậy những qui định này của Mỹ xét ở chừng mực nhất định không có sự khác biệt quá lớn đối với các qui định trong pháp luật Đức

Nghiên cứu các qui định về TNBTTH do tài sản gây ra trong pháp luật Đức, Hoa Kì, Pháp và 2 dự thảo đề xuất của Châu Âu cho thấy dù các quốc gia này có đưa ra những mô hình pháp lý khác nhau, cũng như cơ sở khác nhau cho các mô hình đó nhưng dường như các quốc gia này đều tiến theo xu hướng chung đó là tìm cách bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại thông qua chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt mà trọng tâm của nó là không cần chứng minh yếu tố lỗi , hay trong một số trường hợp hạn chế hơn là đảo ngược nghĩa vụ chứng minh không có lỗi của người phải bồi thường...]

No comments:

Post a Comment