20/01/2015
Chế định ly hôn trong tư pháp quốc tế của Việt Nam
CHẾ ĐỊNH LY HÔN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1.   Xác định luật áp dụng


Văn bản áp dụng: Xung đột pháp luật trong lĩnh vực ly hôn được giải quyết tại Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.


« Điều 104. Ly hôn có yếu tố nước ngoài

1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.

2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.

3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. »

Chúng ta thấy rằng điều luật này rõ ràng được xây dựng theo phương pháp đơn phương: điều luật này quy định cụ thể rằng luật áp dụng để giải quyết ly hôn là luật của Việt Nam trừ trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam.

Có hai yếu tố hệ thuộc là căn cứ để xác định luật áp dụng: nơi thường trú và quốc tịch. Hai yếu tố hệ thuộc này được áp dụng theo trật tự thứ bậc: nơi thường trú là căn cứ chính còn quốc tịch là căn cứ thay thế.

1.1 Yếu tố hệ thuộc chính: nơi thường trú

Trong trường hợp hai vợ chồng không có quốc tịch Việt Nam nhưng cùng thường trú tại Việt Nam thì việc ly hôn của họ được giải quyết theo pháp luật Việt Nam. Có 2 trường hợp: hai người đều là công dân của một nước ngoài hoặc hai người là công dân của hai nước khác nhau. Pháp luật Việt Nam cũng được áp dụng trong trường hợp một trong hai người là công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng quan niệm về nơi thường trú trong khuôn khổ của quy định này phải là quan niệm của pháp luật dân sự Việt Nam và việc xác định nơi thường trú phải tuân thủ quy định tại Điều 48 Bộ luật Dân sự Việt Nam.

Trong trường hợp một trong hai người là công dân Việt Nam nhưng lại không thường trú tại Việt Nam mà nơi thường trú chung của hai người là ở nước ngoài thì áp dụng pháp luật của nước nơi thường trú chung để giải quyết việc ly hôn.

1.2 Yếu tố hệ thuộc phụ trợ: quốc tịch

Xác định luật áp dụng căn cứ vào quốc tịch Việt Nam: Nếu hai vợ chồng không có nơi thường trú chung và một trong hai người có quốc tịch Việt Nam thì áp dụng pháp luật của Việt Nam để giải quyết việc ly hôn. Quy định này được áp dụng trong những trường hợp cụ thể sau:

o Người có quốc tịch Việt Nam thường trú ở nước ngoài và người có quốc tịch nước ngoài thường trú ở Việt Nam

o Cả hai vợ chồng đều có quốc tịch Việt Nam và đều thường trú ở nước ngoài nhưng mỗi người có nơi thường trú riêng.

2.  Việc áp dụng các quy định trên

2.1 Tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài được áp dụng

Nhiệm vụ của thẩm phán. Giả sử một trong hai vợ chồng là công dân Việt Nam nhưng cả hai người đều thường trú ở nước ngoài, đơn xin ly hôn được gửi cho một Tòa án Việt Nam. Khi đó, cần phải xác định rõ rằng tại Điều 410 Bộ luật Tố tụng dân sự của Việt Nam  quy định rằng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ ly hôn này; tuy nhiên theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 thì luật áp dụng để giải quyết vụ việc này là luật của nước có nơi thường trú chung của hai vợ chồng. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc này trên cơ sở áp dụng pháp luật nước ngoài. Về vấn đề này, nhà lập pháp Việt Nam chưa đưa ra quan điểm của mình. Về mặt lô gíc, không thể yêu cầu nguyên đơn và bị đơn đưa ra chứng minh áp dụng luật nước ngoài bởi vì không phải chính họ viện dẫn việc áp dụng luật nước ngoài. Chính vì vậy, do quy phạm xung đột Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng luật nước ngoài nên thẩm phán phải tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài được áp dụng.

2.2 Vai trò của trật tự công cộng

Tính chất mập mờ, không rõ ràng trong văn bản luật. Về nghĩa vụ chứng minh áp dụng luật nước nước ngoài, các quy định pháp luật của Việt Nam tương đối rõ ràng. Tuy nhiên, đối với những vấn đề như những điều kiện buộc Tòa án Việt Nam phải áp dụng luật nước ngoài hay vấn đề công nhận hiệu lực của bản án, quyết định ly hôn hoặc ly thân của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam chưa được giải quyết một cách thỏa đáng.

Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chỉ đưa ra một giải pháp rất chung chung về vấn đề này. Theo Điều 101 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 nói trên, trong trường hợp luật áp dụng đối với lĩnh vực hôn nhân và gia đình là luật nước ngoài thì việc áp dụng đó không được trái với những nguyên tắc quy định trong luật này. Tuy nhiên, tất cả các nguyên tắc được quy định tại Điều 2 luật này không trực tiếp liên quan đến ly hôn trừ khoản 6. Khoản 6 Điều này quy định: "Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ".

2.2.1 Ly hôn

Sự khác nhau giữa các quy định pháp luật: Trong trường hợp, người chồng căn cứ vào pháp luật nước ngoài, đưa đơn ly hôn tại Tòa án Việt Nam khi người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng. Khi đó, trên cơ sở nguyên tắc thứ 6 quy định tại Điều 2 và Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, Tòa án Việt Nam sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ ly hôn.

Tuy nhiên, khó khăn nảy sinh khi một trong hai bên yêu cầu ly hôn với lý do bên kia có lỗi hoặc hai người không hợp tính. Thực tế, trong pháp luật của Việt Nam, chỉ có một nguyên nhân là tình trạng của hai vợ chồng rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì sau khi xem xét Tòa án có thể giải quyết cho ly hôn.

Cần phải nhớ rằng, mặc dù luật không quy định cụ thể nhưng pháp luật Việt Nam vẫn là một trong những hệ thống pháp luật công nhận quyền tự do ly hôn. Do đó, cần phải xem xét đến hai trường hợp sau.

Luật nước ngoài quy định khắt khe hơn luật Việt Nam. Khi đó, vấn đề đặt ra là liệu quyền tự do ly hôn trong pháp luật Việt Nam có được coi là một nguyên tắc sao cho việc giải quyết các vụ ly hôn theo pháp luật nước ngoài phải phù hợp với nguyên tắc đó không? Quan điểm của pháp luật Việt Nam về vấn đề này không rõ ràng. Điều chắc chắn là nếu pháp luật nước ngoài cấm ly hôn thì sẽ không áp dụng pháp luật của nước đó. Vấn đề này trở nên tế nhị hơn trong trường hợp pháp luật nước ngoài cho phép ly hôn nhưng quy định việc ly hôn hết sức chặt chẽ.  Cụ thể, pháp luật Pháp chỉ chấp nhận cho ly hôn trong những trường hợp do luật quy định.

Dù sao, xã hội Việt Nam vẫn mang đậm tư tưởng truyền thống. Điều này giải thích xu hướng hiện nay trong thực tiễn xét xử đó là xu hướng coi việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình là do lỗi của hai vợ chồng hoặc một trong hai người và lỗi được coi là một nguyên nhân của việc ly hôn.

Luật nước ngoài quy định tự do hơn luật Việt Nam. Không thể viện dẫn trật tự công cộng để phản đối việc xin ly hôn của một bên đặc biệt nếu việc xin ly hôn đó là từ phía người phụ nữ. Tuy nhiên, quy định này không phải lúc nào cũng được áp dụng nếu người xin ly hôn một bên là người chồng: điều này nhằm bảo vệ người phụ nữ bởi trong nhiều trường hợp chấp nhận xin ly hôn một bên có thể gây ra những hậu quả bất lợi đối với người phụ nữ.

Tuy nhiên, chúng ta không thể không thấy rằng nguyên tắc tự do ly hôn được đưa vào trong pháp luật Việt Nam trong hoàn cảnh đời sống pháp luật về gia đình của Việt Nam mang đậm tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trên cơ sở nguyên tắc bảo vệ người phụ nữ, thẩm phán Việt Nam không được phép tuyên bố cho ly hôn một cách bất lợi cho người phụ nữ nếu họ không có lỗi và việc chấp nhận nguyên tắc tự do ly hôn kéo theo hệ quả là không thể không công nhận quyết định, bản án ly hôn của Tòa án nước ngoài nếu các quyết định, bản án này không trái với pháp luật của nước mà hai vợ chồng có quốc tịch chung hoặc không trái với pháp luật của nước mà hai vợ chồng có nơi thường trú chung.

2.2.2 Ly thân

Ly thân không được quy định trong luật của Việt Nam. Viện dẫn lý do là giải pháp này trái với trật tự công của Việt Nam nên hiệu lực của những bản án, quyết định ly thân của Tòa án nước ngoài không được công nhận ở Việt Nam. Trường hợp này có thể làm phát sinh một số khó khăn trong thực tiễn. Đặc biệt, trong trường hợp người vợ hoặc người chồng ly thân chết, theo quy định pháp luật của một số nước, ví dụ của Pháp thì người còn sống sẽ không được hưởng thừa kế theo pháp luật.

2.3 Phạm vi áp dụng của luật được dẫn chiếu

2.3.1. Xác định Tòa án có thẩm quyền

Theo tinh thần của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 thì căn cứ vào luật được dẫn chiếu để xác định Tòa án có thẩm quyền. Do đó, khi nhận được đơn ly hôn hoặc đơn yêu cầu công nhận bản án, quyết định ly hôn của Tòa án nước ngoài, điều đầu tiên mà thẩm phán Việt Nam phải làm là xác định luật áp dụng là luật của nước nào và sau đó theo quy định pháp luật của nước đó phải xem xét xem Tòa án thụ lý đơn ly hôn hoặc Tòa án đã giải quyết ly hôn có thẩm quyền đó không. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi áp dụng pháp luật của nước nào để giải quyết ly hôn thì thẩm phán Việt Nam phải áp dụng các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam. Nói một cách khác, trong trường hợp này luật của nơi có Tòa án giải quyết vụ việc được áp dụng để tiến hành giải quyết vấn đề tố tụng.

Cần phải lưu ý rằng việc áp dụng các quy định tại Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 nói trên không có nghĩa là xác định Tòa án Việt Nam là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn. Trên thực tế, đó là trường hợp luật của một nước xác định Tòa án nước mình có thẩm quyền giải quyết một vụ ly hôn cụ thể và dẫn chiếu luật áp dụng là luật của Việt Nam.

Trong tư pháp quốc tế của Việt Nam, việc xác định thẩm quyền xét xử được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Lại một lần nữa, thông qua văn bản này, nhà lập pháp Việt Nam đã sử dụng phương pháp đơn phương: họ chỉ quy định cụ thể thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. Kết quả là theo các quy định trong Bộ luật này, trên phương diện tư pháp quốc tế, có sự phân biệt giữa thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam.

2.3.1.1 Thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam

Nội dung quy định: Theo quy định tại Điều 410 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc ly hôn trong trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam. Kết hợp điều này với Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cho phép xác định rằng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn và áp dụng luật của Việt Nam trong những trường hợp sau:

o Người đưa đơn ly hôn là người nước ngoài và người kia là công dân Việt Nam. o  Người đưa đơn ly hôn là công dân Việt Nam và người kia là người nước ngoài. o  Cả hai vợ chồng đều xin ly hôn và một trong hai người là công dân Việt Nam.

Phạm vi áp dụng của quy định này. Việc quy định thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của Tòa án (thẩm quyền riêng biệt của Tòa án sẽ được phân tích trong phần sau) kéo theo hệ quả là thẩm quyền chung không có tính chất bắt buộc. Do đó, các bên liên quan có thể tránh áp dụng quy định này bằng cách đưa vụ ly hôn ra trước toà án nước ngoài.

2.3.1.2 Thẩm quyền riêng biệt

Hệ thuộc luật nơi thường trú. Toà án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt giải quyết các vụ việc ly hôn giữa công dân Việt Nam và công dân người nước ngoài hoặc người không quốc tịch nếu cả hai vợ chồng cùng thường trú tại Việt Nam.

Phạm vi áp dụng của quy định này. Một mặt quy định này sẽ loại trừ thẩm quyền của toà án nước ngoài dĩ nhiên trừ trường hợp có các quy định khác trong công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Mặt khác, quy định này sẽ cản trở việc công nhận hiệu lực của bản án, quyết định ly hôn của toà án nước ngoài.

2.3.2 Trình tự tố tụng

Giống như ở Pháp, ở Việt Nam việc ly hôn bắt buộc phải do Tòa án giải quyết. Do đó, một quyết định ly hôn không phải của Tòa án mà ví dụ là của Tòa thị chính sẽ không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (trong pháp luật Nhật Bản, việc ly hôn có thể do hai bên thỏa thuận với nhau).

2.3.3 Hệ quả pháp lý của việc ly hôn

Hệ quả về mặt nhân thân: luật nhân thân có thẩm quyền điều chỉnh những hệ quả về mặt nhân thân giữa hai vợ chồng (chấm dứt quan hệ vợ chồng, nuôi giữ con…).

Hệ quả về mặt tài sản: Cần phải lưu ý rằng, trong luật tư pháp quốc tế của Việt Nam không hề có quy phạm xung đột nào giải quyết vấn đề chế độ tài sản giữa vợ và chồng. Ngay cả khái niệm "chế độ tài sản giữa vợ và chồng" cũng hầu như ít được đề cập đến trong luật của Việt Nam. Chỉ có một vài điều khoản trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 và một số điều luật khác trong Nghị định hướng dẫn thi hành luật này có đề cập đến mối quan hệ tài sản giữa hai vợ chồng. Tuy nhiên, những quy định đó chưa tạo nên một chế định riêng.

Do khái niệm chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong tư pháp quốc tế của Việt Nam còn ít được quan tâm nên các hệ quả về mặt tài sản của việc ly hôn chịu sự điều chỉnh của luật được áp dụng để điều chỉnh nguyên nhân ly hôn, tức là luật nhân thân, trừ trường hợp tài sản tranh chấp là bất động sản thì áp dụng luật nơi có tài sản. Giải pháp này có vẻ không hợp lý lắm bởi vì thông thường việc phân chia bất động sản thuộc lĩnh vực thanh lý và chia khối tài sản chung. Do đó, vừa có những quy định chung về việc thanh lý và chia khối tài sản chung vừa có những quy định riêng về việc chia tài sản là bất động sản là điều không hợp lý. Hơn nữa, việc áp dụng luật nơi có tài sản (lex rei sitae) có thể phải kèm theo các thủ tục về chiếm hữu và công bố công khai. Để giải quyết việc phân chia tài sản là bất động sản, liệu việc áp dụng luật nơi có tài sản (lex rei sitae) có đặt lại câu hỏi về nguyên nhân ly hôn không?... Chính vì sự bất cập này trong các quy định pháp luật mà chất lượng của tư pháp quốc tế của Việt Nam chưa thể cải thiện được.

No comments:

Post a Comment