CÁ NHÂN – CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ?
NGUYỄN ĐỨC LAM
Từ khi mới xuất hiện đến nay chức năng chính của Luật quốc tế là điều chỉnh các mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau, bởi vậy chủ thể chính của luật quốc tế trong lịch sử phát triển của nó là các quốc gia. Nhưng từ những năm 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai trong khuôn khổ của luật quốc tế xuất hiện một ngành mới là luật về quyền con người. Quyền con người không còn là đối tượng điều chỉnh của hệ thống luật của từng quốc gia nữa đã làm nảy sinh ra vấn đề: cá nhân con người có phải là chủ thể của luật quốc tế hay không?
Khẳng định cá nhân là chủ thể của luật quốc tế, nhiều tác giả thậm chí đưa ra đề nghị đổi thuật ngữ Luật quốc tế thành “Luật thế giới”, “Luật hoàn cầu”, “Luật toàn cầu”… Một số khác lại phủ định tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân trong luật quốc tế. Để chia sẻ quan điểm với các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin nêu một vài suy nghĩ về vấn đề này.
1- Khái niệm về chủ thể của luật quốc tế
Chủ thể chiếm vị trí trung tâm trong luật quốc tế với nhiệm vụ chính là phục vụ các quyền lợi của chủ thể, điều tiết các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Bản tính của luật quốc tế gắn liền với tính chất của chủ thể và mối quan hệ đó. Chủ thể luật quốc tế không những là chủ các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ quốc tế, mà còn là những chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình thiết lập và thi hành các qui tắc của luật quốc tế. Như vậy chủ thể của luật quốc tế là những thực thể độc lập có những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, tham gia vào quá trình thiết lập và thực hiện các quy tắc của luật quốc tế nhờ những đặc điểm và bản chất của mình. Đó là các quốc gia có chủ quyền- chủ thể chính của luật quốc tế; các tổ chức liên Chính phủ; các quốc gia đang đấu tranh cho nền độc lập của mình; các tổ chức tương đương với nhà nước; và cuối cùng- trong phạm vi nào đó là cá nhân con người.
Một số tác giả khi nói đến chủ thể của luật quốc tế thì cho rằng chúng cần phải tham gia vào quá trình thiết lập các quy tắc của luật quốc tế. Trong trường hợp đó dĩ nhiên cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế. Nhưng cũng có thể định nghĩa một cách khác rằng chủ thể của luật quốc tế là bất kỳ một thực thể nào có quyền và nghĩa vụ pháp lý từ các điều luật của công pháp quốc tế.
Như vậy trong luật quốc tế có ít nhất hai dạng chủ thể. Dạng thứ nhất là các tổ chức không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà còn trực tiếp tạo ra các điều luật quốc tế, thực hiện các biện pháp để đảm bảo cho việc áp dụng các điều luật đó trên thực tế. Đó là các quốc gia có chủ quyền- chủ thể chính của luật quốc tế. Dạng thứ hai là các tổ chức mà các hoạt động của chúng được điều tiết bởi luật quốc tế nhưng không có những đặc điểm của dạng thứ nhất. Vậy cá nhân có thuộc dạng chủ thể này không? Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn vấn đề này ở các phần sau của bài viết.
Chủ thể của luật quốc tế có những đặc điểm sau: năng lực pháp luật, năng lực hành vi pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể luật quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Năng lực hành vi pháp luật thể hiện qua sự thực hiện có ý thức các quyền và nghĩa vụ của chủ thể luật quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế có năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật quốc tế của mình. Những tính chất trên được gọi là tính chủ thể pháp lý. Chủ thể của luật quốc tế có tính chủ thể pháp lý chung, tính chủ thể pháp lý ngành và tính chủ thể đặc biệt.
Tính chủ thể pháp lý chung là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ thể của luật quốc tế theo ipso facto. Chỉ có các quốc gia có chủ quyền mới có tính chủ thể chung.
Tính chủ thể ngành là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ thể của luật quốc tế ở một lĩnh vực nhất định trong quan hệ quốc tế. Ví dụ Tổ chức hàng hải quốc tế có quyền tham gia vào các vấn đề vận chuyển đường biển quốc tế; hoặc UNESCO tham gia vào việc điều tiết những vấn đề liên quan đến giáo dục, khoa học và văn hoá thế giới.
Tính chủ thể đặc biệt là khả năng của chủ thể tham gia hoạt động pháp lý trong khuôn khổ nhất định ở một lĩnh vực riêng biệt của luật quốc tế. Đó chính là cá nhân con người. Tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân được công nhận trong nhiều văn bản, tư liệu của luật quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (Điều 6), Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966 (Điều 2), Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ 1990 (Điều 8).
2- Những quan điểm khác nhau về tính chủ thể của cá nhân trong công pháp quốc tế
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài, đã phủ nhận cá nhân con người và chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, công pháp quốc tế hiện đại gắn chặt với vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định một trong những mục đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhiều điều ước, quốc tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng điều đó có đồng nghĩa với tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân con người hay không? Cá nhân là chủ thể của công pháp quốc tế là một vấn đề đang được tranh cãi chưa ngã ngũ.
Một số tác giả phủ định tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân, nhưng số khác lại công nhận rằng ở cá nhân có những đặc thù của chủ thể luật quốc tế. Ví dụ như A.Phedross (Áo) cho rằng “cá nhân con người trên nguyên tắc không phải là chủ thể của luật quốc tế bởi vì luật quốc tế bảo vệ quyền lợi của cá nhân nhưng nó đảm bảo những quyền và nghĩa vụ không phải cho từng cá nhân, mà cho quốc gia mà cá nhân là công dân của quốc gia đó“(1).
Một số tác giả cho rằng cá nhân chỉ có thể là chủ thể của các quan hệ pháp lý quốc tế. “Cá nhân do chịu sự cai trị của quốc gia không thể thay mặt mình hoạt động trên trường quốc tế như một chủ thể của luật quốc tế – B.M Shurshaloff V.M viết- Tất cả các Công ước quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được ký kết giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy những quyền và nghĩa vụ cụ thể được phát sinh ra từ những Công ước này là dành cho nhà nước chứ không cho từng cá nhân. Cá nhân được quốc gia bảo trợ, và những qui tắc của luật quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được thực hiện chủ yếu qua hoạt động của quốc gia”(2).
Vào đầu thế kỷ XX nhà luật học nổi tiếng Martence cũng có quan điểm như vậy. Ông cho rằng cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế nhưng có những quyền nhất định trong quan hệ quốc tế. Những quyền đó được nảy sinh từ bản chất tự nhiên của con người, từ tình thế họ là công dân của một quốc gia(3).
Nhà luật học quốc tế người Anh A.Brownlee có những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Một mặt ông cho rằng theo điều luật chung cá nhân không thể là chủ thể của luật quốc tế được, nhưng trong một số lĩnh vực nhất định cá nhân được xem xét như chủ thể của luật quốc tế; mặt khác theo ý kiến của Brownlee thì “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào “hàng ngũ” những chủ thể của luật quốc tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc tế”(4).
Ngành luật của Liên Xô cũ một thời gian dài đã phủ nhận tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân trên trường quốc tế. Điều đó được giải thích như là hậu quả tất yếu của việc quá nâng cao vai trò quan trọng của nhà nước không chỉ trong lĩnh vực luật quốc tế và quan hệ quốc tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên cả trường quốc tế. Nhưng cùng với thời gian mọi vật đều thay đổi. Từ việc công nhận cá nhân là chủ thể của luật quốc tế đi đến những đề nghị xa hơn mà theo đó Công pháp quốc tế có khả năng điều tiết cả những quan hệ trong một quốc gia, có cả mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân(5).
Về các tác giả khác, E.Arechaga (Uruguay) có quan điểm ôn hoà hơn. Ông cho rằng: “theo cơ cấu của luật quốc tế thì không có gì có thể cản trở nhà nước đảm bảo cho cá nhân một số quyền nhất định đã được nảy sinh từ một Công ước quốc tế, hoặc xem xét một số biện pháp quốc tế để bảo vệ những quyền đó“(6).
L.Oppenhame từ năm 1947 đã để ý rằng: “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ sở hữu các quyền và nghĩa vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế“(7). Tiếp đó ông đã làm rõ ý kiến của mình bằng ví dụ: Những cá nhân làm nghề cướp biển trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không phải nội luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Giáo sư người Nhật Sh.Oda cho rằng “Sau Đại chiến thế giới thứ nhất hình thành một quan điểm mới theo đó cá nhân là chủ thể các trách nhiệm về những vi phạm chống trật tự pháp luật thế giới và cá nhân phải bị truy tố và trừng phạt theo luật quốc tế“(8).
Tổng hợp lại cá nhân có thể là chủ thể của luật quốc tế bởi vì:
a) Trách nhiệm pháp lý quốc tế
Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc soạn thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người, tội phạm chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao cấp thậm chí là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách nhiệm pháp lý hay được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành động theo lệnh của cấp trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm pháp lý.
Trong lời buộc tội của Toà án binh quốc tế 1945 ở Nurnberge cũng có nói : “Tội phạm chống Công ước quốc tế được thực hiện bởi những con người cụ thể chứ không phải do các tổ chức trìu tượng, bởi vậy chỉ cách trừng phạt những cá nhân đã gây ra những tội phạm đó thì qui tắc của luật quốc tế mới được thực hiện đúng đắn”.
Theo Công ước quốc tế 1968 về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, trong trường hợp các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, không phụ thuộc vào việc các tội phạm đó diễn ra vào thời bình hay thời chiến, không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm.
Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc kẻ đó là lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân. Tội phạm diệt chủng bị xử bởi toà án quốc gia bị diệt chủng hoặc Toà án hình sự quốc tế. Toà do các nước thành viên tham gia Công ước hoặc Liên hợp quốc lập ra.
b) Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế
Theo Điều 25 của Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người. Đơn cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền đối với người làm đơn do Nhà nước tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng Châu Âu và được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không có tác dụng, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có quyết định cuối cùng về vụ việc này.
Theo Điều 190 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án quốc tế về biển.
Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các toà án quốc tế cũng được công nhận ở nhiều tài liệu khác của luật quốc tế.
c) Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật quốc tế
Theo Công ước về vị thế của người tị nạn 1951, vị thế pháp lý của người dân bị nạn được xác định bởi pháp luật của nước mà họ đang sống. Công ước quy định cho người tị nạn có những quyền như quyền lao động theo hợp đồng, quyền lựa chọn nghề nghiệp, quyền tự do di chuyển…
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của các kiều dân và thành viên trong gia đình họ 1990 tuyên bố: Mỗi kiều dân lao động và thành viên trong gia đình có quyền được công nhận là chủ thể pháp lý, trước hết là những chủ thể pháp lý quốc tế. Theo Điều 35 của Công ước thì Nhà nước không được cản trở sự di dân quốc tế của nhân dân lao động và các thành viên trong gia đình họ. Công pháp quốc tế cũng được xác định vị thế pháp lý quốc tế của người phụ nữ có chồng, của trẻ em và nhiều nhóm cá nhân khác.
Qua những chứng cứ và ví dụ trên đây chúng ta có thể tạm cho rằng Nhà nước trong một số lĩnh vực (mặc dù không nhiều lắm) đã tạo cho cá nhân một số đặc thù của tính chủ thể pháp lý quốc tế. Phạm vi của tính chủ thể pháp lý đó ngày càng được mở rộng hơn bởi vì mỗi thời đại lịch sử lại sản sinh ra những chủ thể mới của luật quốc tế.
Những người phản đối việc công nhận cá nhân là chủ thể của luật quốc tế thường dựa vào chứng cứ chính là cá nhân không thể ký kết các điều ước quốc tế. Vì vậy không thể tham gia vào quá trình lập pháp quốc tế. Thế nhưng trong bất kỳ lĩnh vực nào của luật học các chủ thể đều có những quyền và nghĩa vụ không tương ứng lắm. Ví dụ như trong luật quốc tế tính chủ thể pháp lý quốc tế hiểu theo nghĩa đầy đủ, chính xác chỉ có ở quốc gia mà thôi. Những chủ thể khác như các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức tương đương với nhà nước, các quốc gia đang đấu tranh cho nền độc lập dân tộc chỉ có tính chủ thể pháp lý ở mức độ tương đối, trong một phạm vi nhất định mà thôi.
Cá nhân có những quyền và nghĩa vụ quốc tế nhất định, có khả năng bảo đảm sự chấp hành các điều luật quốc tế (ví dụ như qua các cơ quan toà án quốc tế). Điều đó đủ để chứng tỏ ở cá nhân những đặc thù của một chủ thể quốc tế. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn vấn đề này khi đi sâu xem xét mối quan hệ giữa quyền con người và luật quốc tế.
3- Tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân trong mối tương quan giữa luật quốc tế và vấn đề nhân quyền
Hiện nay quyền con người được khẳng định trong nhiều công ước quốc tế khác nhau. Đó là Công ước Geneva về cải thiện điều kiện của thương binh, bệnh binh trong quân đội 1949; Công ước Geneva về việc đối xử với tù binh 1949; Công ước Geneva về việc bảo vệ dân lành trong thời chiến 1949; Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945; Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948; Công ước về việc ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948; Công ước bổ sung về xoá bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, những tập tục giống với chế độ nô lệ 1956; Công ước về quyền chính trị của phụ nữ 1952; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá 1966; Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966; Công ước chống tra tấn và những biện pháp mang tính dã man vô nhân đạo 1984…
Trong số các công ước khu vực nổi bật là Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và các quyền tự do 1950 và 11 Nghị định thư bổ sung; Công ước các nước SNG về nhân quyền và tự do 1995…
Các quyền quốc tế của cá nhân xuất phát từ những nguyên tắc và điều luật chung của luật quốc tế được công nhận và khẳng định trong 20 Công ước đa phương và trong một loạt các điều ước song phương khác.
Ví dụ như theo Điều 4 của Công ước bổ sung về chế độ nô lệ 1956, nô lệ được phát hiện có mặt trên tàu của nước tham gia Công ước thì iso facto được tự do. Hay Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966 công nhận quyền mỗi cá nhân được: a) Tham gia vào đời sống văn hoá; b) Sử dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học và ứng dụng thực tiễn; c) Bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần liên quan đến các công trình khoa học, các tác phẩm văn học- nghệ thuật mà họ là tác giả.
Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khẳng định: “Mỗi cá nhân con người dù ở đâu đều có quyền yêu cầu công nhận tính chủ thể pháp lý của mình” (Điều 6). Điều 23 Công ước của các nước SNG cũng có tuyên bố tương tự.
Ở đây cần làm sáng tỏ thêm về tính chủ thể pháp lý của cá nhân trong các điều luật quốc tế về quyền con người. Một mặt những điều luật này nói đến quyền của cá nhân, điều đó chứng tỏ chính cá nhân là chủ thể của những điều luật đó. Nhưng mặt khác các Công ước quốc tế về quyền con người đều đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo cho cá nhân những quyền hạn trên. Bản thân phần lớn các quyền được nói đến trong các điều luật quốc tế về nhân quyền không được đảm bảo trực tiếp bởi Công pháp quốc tế mà thông qua các điều luật của nội luật. Trong trường hợp này có thể nói đến tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân đặt trong mối tương quan với các điều luật quốc tế về nhân quyền và tự do của con người được không?
Phần lớn các điều luật quốc tế trong lĩnh vực quyền con người là những điều luật được tạm gọi là bất tự thi. Bản thân chúng không đảm bảo cho cá nhân các quyền, tự do (thậm chí nếu hiến pháp của nước đó công nhận chúng là một phần của nội luật) nếu như không có bộ máy thực thi thích hợp. Bởi vậy nhiều điều luật, ví dụ như Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966, bắt buộc nhà nước phải đảm bảo cho cá nhân những quyền đã được công nhận và khẳng định trong công ước.
Toà án Hiến pháp của Ý trong phán quyết ra ngày 6/2/1978 về việc áp dụng một số điểm của công ước trên đã từ chối áp dụng một số điều khoản trong Công ước vì “luật pháp chỉ chấp nhận những điểm tự thi của Công ước mà thôi“(9). Ở Anh trong quá trình thảo luận ở Viện quý tộc, người đại diện cho Chính phủ tuyên bố về Công ước quốc tế được áp dụng với nhiều nước có các hệ thống pháp lý và hành chính khác nhau khó có thể thích hợp để các Công ước đó thâm nhập thẳng vào nước Anh…(10).
Phải chăng điều đó có nghĩa là cá nhân con người không liên quan gì đến các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và chỉ có quyền đó qua các điều luật của nội luật? Theo chúng tôi nghĩ thì không hẳn là như vậy. Điều luật của Công pháp quốc tế về nhân quyền một mặt bắt buộc quốc gia đảm bảo cho cá nhân các quyền đã được quy định, đồng thời mặt khác quy định cho cá nhân quyền đòi hỏi ở quốc gia việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, hơn nữa cá nhân còn có quyền thỉnh cầu lên toà án quốc tế nếu mọi biện pháp của luật không đáp ứng đòi hỏi pháp lý của cá nhân. Có thể nói khi chấp nhận với các điều luật quốc tế về quyền con người, quốc gia tự nhận trách nhiệm pháp lý không chỉ trước các quốc gia tham gia Công ước mà còn trước các công dân của mình.
Thậm chí nếu bản thân điều luật quốc tế không đảm bảo những quyền được quy định, điều luật đó vẫn có khả năng cản trở việc áp dụng những điều luật của nội luật trái với nó. Ví dụ nếu như luật pháp của một nước nào đó không đảm bảo quyền được hội họp (đã nhắc đến trong Công ước về quyền công dân và quyền chính trị, Điều 20) thì bản thân Điều khoản này là cơ sở để đòi hỏi nhà nước đảm bảo quyền đó. Các chuẩn mực quốc tế trong những trường hợp đó là cơ sở pháp lý cho những đòi hỏi của cá nhân.
Những điều vừa nói chứng minh vai trò ngày càng tăng của tính chủ thể pháp lý cá nhân trong lĩnh vực quyền con người và công pháp quốc tế, về mối quan hệ trực tiếp giữa cá nhân và công pháp quốc tế. Trong đó -theo chúng tôi đối với việc xác định tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân thì không có ý nghĩa khi các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền phần lớn được thi hành qua các điều của nội luật. Nhân đây cũng xin dẫn ra ví dụ: các điều khoản liên quan đến quyền con người của Hiến pháp các nước cũng có nhiều điều không đảm bảo trực tiếp các quyền này. Đòi hỏi phải có sự thông qua những điều luật khác, thậm chí cả các biện pháp hành chính. Nhưng điều đó không có nghĩa cá nhân phải là chủ thể của luật hiến pháp. Ngoài ra sự phát triển của các tổ chức quốc tế có nhiệm vụ theo dõi, hỗ trợ cho việc chấp hành quyền và tự do của con người, việc tiếp nhận các cá nhân vào những tổ chức đó chứng minh rằng cá nhân ngày càng gắn liền với luật quốc tế.
Kết luận
Đến đây chúng ta có thể tạm thời cho rằng cá nhân là một trong những chủ thể của luật quốc tế. Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều luật quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các toà án quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó.
Thế nhưng một mặt khác việc những chủ thể khác của luật quốc tế ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động trên trường quốc tế làm cho các hoạt động này phức tạp hơn, khó điều khiển hơn. Kết quả là vai trò của quốc gia – chủ thể chính của luật quốc tế, không những không giảm đi mà ngày càng tăng lên. Điều đó được các nhà luật học trên thế giới khẳng định, nhất là những ai đó hoạt động thực tế, chẳng hạn như nguyên Tổng thư ký liên hợp quốc, giáo sư luật quốc tế B.Butros Galli nhấn mạnh đến “sự quan trọng và tính không thể thay thế của quốc gia có chủ quyền như chủ thể chính của luật quốc tế“(11).
Do tính chưa ngã ngũ của vấn đề thường xuất hiện hai thái cực khi xem xét quyền con người trong thực tế: hoặc dựa vào con bài nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền, hoặc dựa vào nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nước khác để cản trở sự điều tiết của luật quốc tế đối với vấn đề quyền con người. Thiết nghĩ ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn. Và cũng cần nhấn mạnh rằng chủ yếu không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá nhân, về quyền con người mà tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội luật và công pháp quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế giữa các tổ chức, quốc gia với nhau.
-----------------------------------------------
(1)Phedross A. Luật quốc tế. M. 1959.tr. 130.
(2) Shurshaloff V.M.Quan hệ pháp lý quốc tế. M. 1971. tr 77.
(3) Martence F.F. Luật quốc tế hiện đại. T.I. M 1996. tr. 220-221.
(4) Brownlee A. Luật quốc tế. M. 1977. tr 117.
(5) Zakharova N.V. Cá nhân- chủ thể của luật quốc tế. Tạp chí pháp luật số 11 1989.M
(6) Arechaga E..Luật quốc tế hiện đại. M. 1983. tr 259
(7) Oppenhame L.Luật quốc tế T.I.M. 1893. tr 259
(8) Oda Sh.The Individual in International Law. London. 1978. p. 471
(9) The Italian Yearbook of International Law 1978-1979, Napoli, 1980. p 187.
(10) The British Yearbook of International Law 1978, Oxford,1979.p.936.
(11) Butross Galli B. Bản báo cáo hàng năm của tổng thư ký liên hợp quốc. Tạp chí của Bộ ngoại giao Cộng hoà Liên bang Nga 1992 số 13-14, tr.46.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 9 NĂM 2000
No comments:
Post a Comment