10/03/2015
Những quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003 về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bài tập học kỳ Tố tụng hình sự - Hoàn thiện quy định của pháp luật về bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định cụ thể tại Đ80 BLTTHS 2003.

1. Về đối tượng

Theo các định nghĩa về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam đã nêu ở phần trên thì thấy rằng đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Toà án quyết định đưa ra xét xử thì không phải là đối tượng áp dụng biện pháp này. Ngay cả tên điều luật cũng đã chỉ rõ đối tượng bị bắt để tạm giam là bị can, bị cáo.

Bé luật TTHS đã chỉ rõ bị can, bị cáo là đối tượng áp dụng biện pháp này nhưng lại không quy định cụ thể những bị can, bị cáo đó có thể bị bắt để tạm giam trong trường hợp nào? Tuy nhiên qua việc ngiên cứu các quy định của luật có thể thấy bị can, bị cáo có thể bị bắt trong một số trường hợp nhất định chứ không phải là tất cả các bị can, bị cáo bị bắt để tạm giam. Điều đó là không cần thiết và nhiều khi không thể thực hiện trong thực tiễn và hơn nữa đây cũng chỉ là một trong số rất nhiều biện pháp ngăn chặn khác. Luật quy định có thể không áp dụng biện pháp bắt để tạm giam đối với một số bị can bị cáo mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Khoản 2 Đ88 BLTTHS quy định: “ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội lần đầu Ýt nghiên trọng, chưa có tiền án tiền sự, có thái độ ăn năn hối cải tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng mà có nơi cư trú rõ ràng thì cũng không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như: bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú…Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp vừa giảm bớt được tính nghiêm khắc vừa thể hiện sự nhân đạo của pháp luật, đồng thời vẫn đảm bảo mục đích ngăn chặn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Như sự phân tích ở trên luật không quy định rõ trong những trường hợp nào thì bị can, bị cáo sẽ bị bắt để tạm giam, song mục đích cuối cùng của việc bắt bị can, bị cáo là để tạm giam cho nên khi áp dụng thì phải xem xét thật kĩ lưỡng là có cần thiết bắt bị can bị cáo để tạm giam hay không và có thuộc các trường hợp tam giam theo quy định tại khoản 1 Đ88 hay không?

2. Các trường hợp áp dụng.

Chỉ bắt để tạm giam những bị can, bị cáo thuộc trường hợp bị tam giam theo quy định điều 88. 

Căn cứ vào tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Điểm a, khoản 1 Đ88 quy định “Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” có thể được áp dụng biện pháp tạm giam. Đặc biệt là những bị can bị cáo phạm tội về ma tuý, cướp giết người, các tội sâm phạm an ninh quốc gia hoặc là tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì nhất thiết phải bắt để tạm giam. Việc bắt để tạm giam bị can bị cáo trong trường hợp này là cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao của chúng. Mặt khác phần lớn người phạm tội trong trường hợp này đều nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải gánh chịu vì đã thực hiện hành vi đó là rất nặng nề cho nền tìm mọi biện pháp để trốn tránh, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên nhằm bảo đảm cho việc bắt bị can, bị cáo là hoàn toàn đúng đăn, phù hợp với yêu cầu thực tế và không vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân thì các yếu tố trên thường được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trường hợp thứ 2, bị can, bị cáo có thể bị bắt tạm giam là bị can, bị cáo tuy phạm tội Ýt ngiêm trọng và ngiêm trọng nhưng có hình phạt tù luật định là trên 2 năm và có căn cứ cho rằng đối tương có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. Đối với bị can, bị cáo trong trường hợp này thì có thể bị bắt để tạm giam để bảo đảm mục đích ngăn chặn tội phạm. Nhất là đối với những đối tượng có tính chất chuyên nghiệp tái phạm nhiều lần, có nhiều tiền án tiền sự, có nhân thân xấu thì dù phạm tội it nghiêm trọng cũng cần bắt để tạm giam.

Trường hợp đặc biệt bị can, bị cáo thuộc quy định tại khoản 2 Đ88 nhưng “Bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã” hoặc “Được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điÒu tra, truy tố, xét xử” hoặc “Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì xẽ gây nguy hại đén an ninh quốc gia”. Bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này thì cũng bị bắt để tạm giam.

3. Căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Cũng như các truờng hợp áp dụng thì căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam cũng không được quy định cụ thể trong điều luật. Tuy nhiên, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là 1 biện pháp ngăn chặn cho nên khi bắt người cần phải thoả mãn cac căn cứ áp dụng biện pháp găn chặn theo Đ79 BLTTHS nh­ sau:

- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt đông diều tra, truy tố, xét xử.

- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tuc phạm tội.

- Khi có căn cứ rõ ràng chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc thi hành án các căn cứ này phải được thể hiện bằng cá tài liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đúng trình tự, thủ tục và được đánh giá trên cơ sơ khách quan toàn diện chứ không phải dựa vào ý muốn chủ quan của một người hay một cơ quan nào đó.

Hơn nữa bắt bị can, bị cáo để tạm giam tức người bị bắt xẽ bị tạm giam nên ngoài ăn cư áp dụng chung cho các biện pháp ngăn chặn ở điều 79, còn phải căn cứ và điều kiện để tạm giam theo quy định tại Đ88 như đã phân tích ở trên.

Như đã nêu, đây là trường hợp bắt để tạm giam cho nên việc xem xét căn cứ để bắt và căn cứ để tạm giam là rất quan trọng vì nếu bắt xong mà không tạm giam được thì sẽ rất khó xử lí. Con nếu bắt tạm giam mà không đủ căn cứ mặc dù họ là bị can, bị cáo thì vẫn là vi phạm pháp luật và phải bị xử lí. Gần đây, việc vi phạm trong việc bắt giam con sảy ra nhiều, gây ra hậu quả nghiêm trọng. Bắt cả những trưòng hợp không đáng bắt gây quá tải cho các trại giam. Để chấn chỉnh những vi phạm này bộ chính trị đã ra chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/3/2000 và Nghị quyết 08/VQ/TW ngày 02/01/2002 như sau “ Truờng hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng được thì không bắt giam; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giam, tạm giữ; phát hiện xử lý kịp thời, những trường hợp oan sai khi bắt giữ, khi xem xét căn cứ để bắt giữ phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc quy định trong TTHS, lấy các chỉ thị, nghị quyết của Đảng nêu trên làm cơ sở lí luận, kết hợp nhuần nhuyễn với tình hình chính trị địa phương để ra một quyết định đúng đắn có tính khả thi và có tính giáo dục trong việc cáp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi có căn cứ để áp dụng thì người có thẩm quyền phải xem xét, quyết định.

4. Thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam đã được quy định rõ ràng tại khoản 1 Đ80, những người có thẩm quyền bắt bao gồm:

- Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và kiểm soát viên quân sự các cấp

- Chánh án, phó tránh án Toà án nhân dân và toà án quân sự các cấp;

- Thẩm phán giữ chức vụ chánh toà, Phó chánh án toà, toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; hội đồng xét xử

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cung cấp phê chuẩn mới được tiến hành.

Điều luật quy đinh cụ thể thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong từng giai đoạn điều tra, truy tố,xét xử chuẩn bị xét xử và tại phiên toà. Quy định này nhằm phân định rõ thẩm quyền của từng chức danh tố tụng, nâng cao trách nhiện của người có thẩm quyền.

Trong truờng hợp cơ quan điều tra ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì phải được Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là thủ tục pháp lí bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt cũng như sự cần thiết phải bắt bị can, bị cáo. Ngoài ra quy định này còn hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi Ých hợp pháp của công dân.

So với quy định của BLTTHS năm 1988, thì bộ luật TTHS năm 2003 có một số điểm mới sau đây:

Một là, bá qua quy định Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà có quền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Đầy là một tiến bộ trong kĩ thuật lập pháp và khắc phục được mâu thuẫn của bộ luật TTHS năm 1988 là một mặt tại Điều 62 quy định: “Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà” có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Nhưng mặt khác tại điều 152 Bộ luật tố tụng quy định: “Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án quyết định. “Nghĩa là quy định tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu chủ toạ phiên toà” không có giá trị áp dụng trên thực tiễn. Bởi vì thực tiễn áp dụng bộ luật TTHS năm 1988 cho thấy, chỉ có Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có quyền ra lệnh hoặc bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Hai là, quy định Thẩm phán giữ chức danh Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Quy định như vậy là hợp lý và đảm bảo được ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp nhăn chặn nói chung, trong đó có việc áp dụng biện pháp bắt bị cáo, bị can để tam giam; cũng như hạn chế được số người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Bởi vì , Toà án nhân dân tối cao có ba Toà phúc thẩm là Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Cho nên quy định Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đã hạn chế được khả năng bắt người tràn lan có thể xảy ra do Thẩm phán các Toà phúc thẩm đều có quyền và bảo đảm được sự cẩn trọng hơn trong việc áp dụng biệ pháp ngăn chặn này.

Ba là, quy định hội đồng xét xử có quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam. Quy định này khắc phục được sự không rõ ràng và gây tranh cãi là Thẩm phán chủ toạ phiên toà (trong đó có Thẩm phán Toà án cấp huyện) không có quyền ra lệnh bắt tạm giam bị cáo tại phiên toà nhưng lại kí lệnh bắt bắt tạm giam; Chánh án Toà án ký lệnh bắt bị cáo tại phiên toà vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập, trực tiếp và liên tục của hội đồng xét xử.

BLTTHS 2003 cũng không quy định thẩm quyền riêng của từng người từng cấp trong cơ quan điều tra nh­ trước mà quyết định thẩm quyền chung của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Quy đinh nh­ vậy vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu mà vẫn bảo đảm được nội dung của điểm d, khoản 1 Đ62 BLTTHS năm 1988.

Như vậy về cơ bản những quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong BLTTHS 2003. Đã sử đổi bổ sung một cách hợp lí, đầy đủ và chính xác, chặt chẽ hơn so với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên để tránh tình trạng bắt người sai pháp luật thì cần có quy định rõ ràng cụ thể hơn về phạm vi bắt người của từng cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Nên quyết định phạm vi bắt theo hương hẹp dần để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện biện pháp bắt người này.

5. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Khoản 2, Điều 80 quy định, thủ tục áp dụng bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh bắt bị can, bị cáo phải là lệnh viết bằng tay, lệnh phải ghi rõ ràng ngày tháng năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị bắt, lÝ do bắt. Lệnh phải được người ra lệnh kí, đóng dấu. Lệnh yêu cầu có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát thì phải có mục phê chuẩn của Viện kiểm sát, ghi rõ số, ngày, tháng, năm phê chuẩn họ tên, chữ kí của người phê chuẩn và phải có đóng dấu. Tóm lại lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ngoài hình thức thể hiện đặc thù như tên gọi, còn phải thể hiện dưới hình thức thể hiện đặc thù như tên gọi, còn phải thể hiện dưới hình thức văn bản pháp lí nhà nước.

Người được giao chủ trì thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải chuẩn bị các phương tiện, bố trí lực lượng, phải có sự tham gia của các thành phần bắt buộc. Đảm bảo cho việc bắt được an toàn, nghiêm túc thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, quyền uy của nhà nước, lệnh bắt phải được công khai, có sự giải thích luật cho người bị bắt biết. Việc bắt người phải được lập thành biên bản ghi rõ ngày giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản, những việc đẫ làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, thái độ chấp hành của người bị bắt, người liên quan. Ghi rõ đầy đủ những đồ vật, tài liệu bị thu giữ những khiếu nại của người bị bắt, Biên bản phải ghi đầy đủ, tỉ mỉ tránh việc bắt người có nhiều nội dung, tình huống không ghi hết hoặc ghi quá văn tắt như theo mẫu biên bản in sẵn, gây khó khăn cho giải quyết về sau, không có điÒu kiện khắc phục. Biên bản phải đọc công khai cho mọi thành phần nghe, các ý kiến bổ xung phải được ghi lại đầy đủ. Người bị bắt và người có liên quan phải kí xác nhận vào biên bản.

Bắt bị can, bi cáo để tạm giam là một trong những trường hợp của biện pháp ngăn chặn, một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, vì vậy khi thi hành lệnh phải có đại diện chính quyền xã phường, thị trấn hay đại diện cơ quan tổ chức nơi người bị bắt cư trú, làm việc. Trong trường hợp bắt tại nơi cư trú của bị cáo, bị can phải có người láng giềng chứng kiến.

Đại diện chính quyền địa phương tham gia với tư cách là người quản lí về nhân hộ khẩu của người bị bắt trong địa bàn mình quản lí. 

Gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đồng thời sự có mặt của chính quyền địa phương xẽ hỗ trợ giúp sức khi cần thiết để việc thi hành lệnh bắt được thuận lợi.

Sự có mặt của người láng giềng chứng kiến có ý nghĩa đảm bảo việc bắt người được công khai dân chủ, đồng thời tăng cường tính giáo dục tuyên truyền pháp luật.

Tuy nhiên để đảm bảo tính khả thi về sự có mặt của người đại diện chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức nơi người bị bắt cư trú hay làm việc, bộ luật TTHS chia làm ba trường hơp:

- Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện chính quyền, xã, phường, thị trấn và người láng giêng của người bị bắt chứng kiến.

- Khi tiến hành bắt người tại nơi làm việc của họ phải có mặt đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc chứng kiến.

- Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành việc bắt chứng kiến.

So với quy định tại Đ62 BLTTHS năm 1988, thì quy định tại điều 80 BLTTHS năm 2003 có điểm mới và hoàn thiện hơn về kĩ thuật lập pháp là quy định rõ việc bắt người tại từng nơi bắt. Bởi vì, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể diễn ra ở nơi cư trú, nơi làm việc của người bị bắt hoặc tại nơi khác. Nhưng BLTTHS năm 1988 chỉ quy định: “Khi tiến hành bắt người, phải có đại diện chính quyền xã phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến.” Với quy định như trên thì xẽ có hai nhóm ngườ chứng kiến việc bắt người là: đại diện của chính quyền xã phường, thị trấn nơi người bị bắt cư trú và người láng giềng của người bị bắt; đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc và láng giềng của người bị bắt và người láng giềng của người bị bắt. để thoả mãn yêu cầu này thì không thể bắt người tại nơi người đó làm việc khi ở đó không có láng giềng của họ. Đồng thời cũng không thể bắt người ở những nơi khác không phải ở nởi cư trú và nơi làm việc. Trong khi thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những bị can, bị cáo bị bắt để tạm giam thường không có mặt tại nơi cư trú. Có nhiều bị can, bị cáo phải truy nã mới bắt được. Cho nên, BLTTHS năm 2003 có quy định thêm trường hợp khi tiến hành bắt nguời tại nơi khác (ngoài nơi cư trú và nơi làm việc) phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người là hoàn toàn chính xác.

Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách nh­ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quả tang, truy nã. Vì vậy để đảm bảo chính đáng quyền lợi của người bị bắt, của thân nhân, của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc, tránh gây căng thăng do việc bắt người gây ra, khoản 3, Đ80 BLTTHS quy định: “Không được bắt người vào ban đêm”.

Ban đêm được tính từ 22h tối hôm trước đến 6h sáng hôm sau, điều đó có nghĩa là chỉ bắt bị can. bị cáo để tạm giam từ 6h sáng đến 22h đêm. Ngoài thời gian đó mà bắt là bị vi phạm thủ tục TTHS. Ngưòi bị bắt, công dân có quyền phản đối. Người ra lênh và thi hành lệnh mà cố ý làm trái thì có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên để đảm bảo việc bắt người được an toan, có hiệu quả, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cần thực hiện nghiêm chỉnh quy định về bí mật nhà nước đối với việc ra lệnh và phê chẩn lệnh bắt. Cơ quan điều tra phải bố trí lực lượng theo dõi để khi tiến hành bắt người bị bắt có mặt, chuẩn bị đầy đủ các phưong tiện, điều kiện để việc bắt đạt hiệu quả cao.

No comments:

Post a Comment