Bài tập học kỳ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Leenin có đáp án.
MỞ ĐẦU
Voltaire đã từng nói rằng "Tình cờ là một từ vô nghĩa, không gì có thể tồn tại mà không có nguyên nhân”. Tương lai được mua bằng hiện tại và quá khứ là nguyên nhân dẫn đến những sự kiện của ngày hôm nay. Có thể nói, mối liên hệ nhân quả là một trong những mối liên hệ tự nhiên đầu tiên được phản ánh vào đầu óc con người, là mối quan hệ vốn có trong thế giới vật chất, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chúng ta. Như định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lômônôxốp ( Nga) cũng chỉ ra rằng, mọi kết quả đều phát sinh từ một nguyên nhân nào đó, vấn đề là ở chỗ ý thức của chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ nguyên nhân đó mà thôi. Ngoài ra, trong sự vận động của hiện thực xã hội, mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ được lặp đi lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Hơn nữa, vấn đề này cũng rất thú vị và mang tính thực tiễn cao, vì vậy chúng tôi đã chọn đề bài “ Phân tích ba tình huống trong thực tiễn để làm rõ nội dung và ý nghĩa của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả” làm bài tập nhóm. Dù đã cố gắng song bài tập vẫn khó tránh những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn. Sau đây chúng tôi xin được trình bày nội dung bài tập nhóm 13B3.
NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Bên cạnh các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật như cái riêng- cái chung,cái đơn nhất,tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng,khả năng và hiện thực....Cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả được coi là những cặp phạm trù mang tính cơ bản nhất, phổ biến nhất.
1. Khái niệm:
Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định. Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt các yếu tố trong một sự vật, hiên tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
2.1 Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng có sau nguyên nhân.Tuy nhiên không phải mối quan hệ nối tiếp nào cũng là mối liên hệ nhân quả,ví dụ như sấm chớp, ngày đêm,...Chỉ có những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian có quan hệ nảy sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả. Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến dự hình thành có thể diến ra theo hướng thuận nghịch khác nhau và đều có ảnh hưởng đến sự hình thành kết quả nhưng vị trí , vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu...Ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp,...
2.2 Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Kết quả là do nguyên nhân sinh ra nhưng sau khi xuất hiện kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân ( hướng tiêu cực).
2.3 Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau:
Điều này có nghĩa là sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hóa, tác động qua lại tạo thành chuỗi liên hệ nguyên nhân và kết quả vô tận. Do vậy ,trong sự vận động của thế giới vật chất không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
Dựa trên cơ sở lí thuyết khái quát chung , chúng tôi xin được phân tích ba tình huống trên thực tế để làm rõ cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả với ba tình huống thực tiễn: tình huống một: , tình huống 2: vấn đề ùn tắc giao thông ở Hà Nội hiện nay, tình huống 3: sự biến đổi khí hậu trên trái đất
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Tình huống 1: Con đường cứu nước – tư duy của một vĩ nhân:
1.1 Cơ sở khách quan:
Bối cảnh lịch sử Việt Nam: Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều Nguyễn khuất phục, biến dân tộc ta thành một dân tộc nô lệ, cuộc sống nhân dân cực khổ lầm than, chìm trong bể máu và nước mắt. Cuối thế kỉ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu Cần vương do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo thất bại, hệ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ của lịch sử. Lúc này đây, phong trào yêu nước giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng bắt đầu phát triển, nhưng con đường cứu nước của các sĩ phu Nho học yêu nước hầu như thất bại, chưa phải là lối đi rõ ràng, hướng đi chưa đúng đắn.
Bối cảnh thời đại: Chủ nghĩa tư bản đã xác lập trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, cuộc đấu tranh của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa tạo thành một cao trào sôi nổi mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời càng thúc đẩy phong trào công nhân thế giới nói chung và phong trào công nhân Việt Nam nói riêng ngày càng phát triển hơn.
1.2 Nhân tố chủ quan:
Nguyễn Ái Quốc – một con người vĩ đại, được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia Nho học, ở vùng đất Nghệ An giàu truyền thống yêu nước.
Khi thực dân Pháp xâm lược, chúng bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng nhưng theo sau đó là những hệ tư tưởng mới ở châu Âu cũng du nhập vào nước ta. Nguyễn Ái Quốc đã được tiếp xúc với những hệ tư tưởng này và đã có những tư duy theo hướng mới sáng tạo hơn.
Nguyễn Ái Quốc sớm được tiếp xúc với chính trị, Người được gặp các nhà lãnh đạo kiệt xuất lúc bấy giờ, rất khâm phục tinh thần yêu nước ở các cụ nhưng Người nhận thấy đó không phải là con đường cứu nước đúng đắn. Cùng thời đại nhưng Nguyễn Ái Quốc đã ý thức hơn người, Người đã định ra cho mình một hướng đi mới "phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái" của nước Pháp.
1.3 Kết quả:
Trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc đã hình thành nên việc ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc và nuôi trong mình sự căm thù giặc, ý chí quyết tâm giải phóng nước nhà khỏi ách thống trị của thực dân.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Cuộc hành trình qua các nước tư bản, đế quốc, thuộc địa, phụ thuộc đã giúp Người nhận ra hướng đi đúng đắn do con đường mình chọn, Người nhận ra ở đâu nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột.
Từ nhận thức đó, Người đã nảy sinh ý thức về việc phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng và quyền lợi chung. Năm 1919, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị Vecsai đòi chính phủ Pháp thừa nhận những quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận nhưng nhờ đó Người đã nhận ra được bản chất thực sự của các nước đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc hăng hái tham gia phong trào công nhân ở Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp. Tháng 7 năm 1920, Người đã được đọc bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của LêNin. Đây là thời điểm đánh dấu Nguyễn Ái Quốc đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng, từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác Lênin, từ một chiến sỹ yêu nước thành một chiến sỹ cộng sản, đưa Cách mạng Việt Nam đi theo Cách mạng vô sản. Đó là con đường giải phóng duy nhất của dân tộc ta.
Kết quả to lớn mà người và toàn bộ nhân dân Việt Nam tạo ra chính là thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng 8. Cách mạng Tháng 8 đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử, nó đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngót chục thế kỉ ở nước ta, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây chính là kết quả mà Người mong muốn nhất và cũng là động lực thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước.
1.4 Áp dụng thực tiễn:
Sau thắng lợi to lớn của Cách mạng Tháng 8 nhân dân ta thoát khỏi ách đô hộ trở thành một quốc gia độc lập. Nhưng sau đó Thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhờ có đường lối đúng đắn mà Người lựa chọn nên cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp lần thứ hai của nhân dân ta giành thắng lợi bằng việc kí Hiệp định Giơnever vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Sau Hiệp định Giơnever, miền Bắc nước ta được giải phóng. Tuy nhiên miền Nam lại bị đế quốc Mĩ nấp sau lưng chính quyền Sài Gòn tìm cách xâm chiếm. Nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn và sự sáng tạo của Đảng nên nhân dân ta lại tiếp tục giành thắng lợi. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pari được kí kết đánh dấu việc đất nước ta hoàn toàn được giải phóng.
2. Tình huống 2:Ùn tắc giao thông – vấn đề muôn thuở của Hà Nội :
Hằng ngày, sau những giờ làm việc, học tập căng thẳng, người dân Hà Nội luôn phải đối mặt với một vấn đề rất bức xúc và những năm gần đây càng ngày càng trở nên trầm trọng đó chính là: vấn đề ùn tắc giao thông. Dựa vào phạm trù nguyên nhân kết quả, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về vấn đề trên
2.1 Thực trạng:
Tính đến hết năm 2010, phòng cảnh sát giao thông Hà Nội đã quản lý 400.000 xe ôtô (chiếm 22% số lượng ôtô trên toàn quốc), khoảng 3,7 triệu xe môtô . Mỗi km đường ở thành phố phải chịu sức tải bình quân gần 400 xe ôtô, 2700 môtô, xe máy... Chia bình quân chỉ còn chưa đầy 1m2 đường cho mỗi ôtô, xe máy. Lượng xe buýt chỉ đáp ứng 10%. Hiện nay chỉ có 1452 điểm đỗ xe ôtô, 680 điểm trông giữ xe đạp, xe máy. Từ những con số trên, vấn đề tắc đường ỏ đô thị nói chung và Hà Nội nói riêng là tất nhiên.
2.2 Nguyên nhân:
Nguyên nhân chủ quan của tình trạng ùn tắc giao thông trước tiên phải nói đến sự yếu kém, bất cập trong quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ. Chủ trương của các cấp, ngành từ trung ương đến địa phương chưa cập tình hình giao thông. Nguyên nhân thể hiện rõ sự yếu kém trong quản lý nhà nước về giao thông là các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này chậm được ban hành nhưng khi ban hành lại có nội dung mâu thuẫn nhau do đó thường hạn chế đến hiệu quả trong thiết lập trật tự giao thông đường bộ. Việc phân công, phân cấp quản lý nhà nước về giao thông giữa các cấp thiếu cụ thể dẫn đến tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Mặt khác các cơ quan quản lý chưa giải quyết triệt để vấn đề nhiều người chưa đủ tuổi vẫn được điều khiển xe cơ giới. Trong thời gian qua, nhiều công trình giao thông đường bộ được xây dựng, nâng cấp, mở rộng nhưng việc tổ chức giao thông chưa hợp lý, thiếu khoa học, một số công trình giao thông chậm tiến độ, kém chất lượng, mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp. Cơ sở hạ tầng dành cho xe buýt của ta hiện nay quá kém. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp vân tải cạnh tranh gay gắt với nhau dẫn đến tình trạng đón trả khách tuỳ tiện, các loại bến cóc, bến dù, điểm đỗ chớp nhoáng … mọc lên khắp nơi, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý, giữ gìn trật tự giao thông. Hàng ngày,các buổi đến trường, tan trường của gần 1,8 triệu học sinh, sinh viên càng làm tăng thêm sức ép giao thông.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận nguyên nhân khách quan. Nước ta đang trong thời kì hội nhập và phát triển, nên đô thị hóa diễn ra nhanh chóng trong khi đó khả năng nội lực của chúng ta có hạn. Vì vậy, muốn phát triển hạ tầng cơ sở? Nói thì dễ nhưng làm không phải là dễ. Cùng với đó dân cư phân bố không đồng đều.
2.3 Kết quả:
Từ những nguyên nhân trên đã dẫn đến một số kết qủa ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Hàng ngày vào những giờ cao điểm người dân thủ đô phải chịu cảnh ùn tắc giao thông, thực tế có những vụ ách tắc giao thông kéo dài hàng vài giờ đồng hồ mới giải toả xong. Hơn nữa, lượng khói từ các phương tiện thải ra gây ô nhiễm môi trường sống, và tình trạng sức khoẻ của người dân làm cho họ cảm thấy sợ mỗi khi ra đường vào những giờ cao điểm. Không những thế ùn tắc giao thông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và mĩ quan đô thị của thành phố. Vậy cần phải có những biện pháp gì để khắc phục tình trạng trên.
2.4 Một số biện pháp khắc phục:
Với tình trạng giao thông hiện nay cần phải có những biện pháp tích cực để giảm ùn tắc giao thông. Trước hết phải nghiên cứu tổ chức lại hệ thống giao thông, nhằm khai thác có hiệu quả hơn các công trình giao thông hiện có. Và trên hết phải học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề quản lý giao thông đô thị; đầu tư, nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất giao thông. Để quy hoạch giao thông có tầm nhìn chiến lược lâu dài, phù hợp với sự phát triển của xã hôi. Chúng ta phải tổ chức tuyên truyền về ý thức tham gia giao thông cho người dân ví dụ như: thường xuyên sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, sử dụng hợp lý các phương tiện giao thông cá nhân… Xây dựng các tuyến tàu điện ngầm và trên không, tăng cường xe buýt có loại lớn. Và phải cấm loại phương tiện giao thông đã được hạn chế lưu hành: như cấm xe lam, xe xích lô trên phần lớn các tuyến phố. Tổ chức thêm tuyến phố đi một chiều, đặt giải phân cách, tăng cường các cụm đèn điều khiển giao thông hợp lý, lắp thêm camera ơ các tuyến phố, nên tổ chức phân luồng từ xa giải tỏa các chướng ngại vật, sắp xếp lại mạng lưới chợ, chấn chỉnh việc tổ chức thi và cấp bằng lái xe. Cấm học sinh dưới 18 tuổi điều khiển xe máy, nếu cố tình vi phạm sẽ phạt vĩnh viễn không cấp bằng nữa. Phân bố hợp lý thời điểm giờ đi hoc, đi làm và tan hoc, hết giờ làm cua học sinh, sinh viên, cán vộ công chức, công nhân…Giảm đến mức tối đa những ngã ba, ngã tư bằng cách xây dựng thêm các cầu vượt trên cao, các đường hầm bằng những vật liệu, phương pháp mới để rút ngắn thời gian thi công và giảm chi phí xây dựng mã vẫn đảm bảo chất lượng.
Tóm lại, bệnh nan y cần chữa trị bằng nhiều loại thuốc, với căn bệnh của ùn tắc giao thông đô thị, cần có loại thuốc cho người tham gia giao thông, có loại cho người quản lý giao thông và có cả loại thuốc dành cho người vì lợi ích của riêng mình gây ra không ít hệ lụy cho giao thông.
3. Tình huống 3: Sự biến đổi khí hậu trên trái đất:
Một biểu hiện nữa của cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả là sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người,mà mạnh mẽ nhất,rõ ràng nhất chính là sự biến đổi khí hậu trên trái đất.
3.1 Nguyên nhân:
Các tác động từ hoạt động sản xuất của con người là nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất khí thải nhà kính,các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối.rừng,các hệ sinh thái biển,ven bờ và đất liền khác; mà cụ thể là việc khai thác quá mức các bể trầm tích,các mỏ dầu khí,các hệ thống rừng nguyên sinh… thêm vào đó là không có ý thức bảo vệ tài nguyên cũng như môi trường xung quanh. Thực tế trong vòng 200 năm trở lại đây, các bằng chứng khoa học đã chỉ ra nguồn CO2 tăng lên nhiều, phần lớn là do họat động của con người,mà chủ yếu là do sử dụng các nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch.
Quá trình tự nhiên do tương tác và vận động giữa trái đất và vũ trụ. Đó là các quá trình biến đổi bức xạ mặt trời,lệch quỹ đạo trái đất hay quá trình kiến tạo núi,kiến tạo trôi dạt lục địa…dẫn đến nhiều phản ứng khác nhau của môi trường về biến đổi khí hậu có thể tăng cường hoặc giảm bớt các biến đổi ban đầu,hệ thống khí hậu có thể mất hàng thế kỉ hoặc lâu hơn để phản ứng hoàn toàn với các biến đổi từ bên ngoài.
3.2 Thực trạng biểu hiện:
Trong một thế kỷ qua đặc biệt vài thập kỷ gần đây, Trái đất đang dần nóng lên. Sự nóng lên của khí quyển và trái đất, thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất, sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển, sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, hệ sinh thái và hoạt động của con người.
Cụ thể,Việt Nam cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ từ biến đổi khí hậu mà nguyên nhân chính là hiệu ứng nhà kính : nhiệt độ tăng 0,3-0,5 0C, lượng mưa tăng lên 200-1000mm/năm, nước biển dâng lên khoảng 4,74cm, mùa lạnh thu hẹp (<1/2 tháng), mùa bão muộn đi (<1 tháng), sự gia tăng số cơn bão lũ và rất nhiều hiện tượng tự nhiên bất thường khác gây thiệt hại lớn về người và của ( El nino,mưa đá,mưa axit….)
3.3 Một số biện pháp khắc phục:
Những biện pháp mang tính quốc gia như ban hành các loại thuế,luật,quy định về việc khai thác và sử dụng tài nguyên rừng; tổ chức các chương trình hành động trồng rừng,làm sạch vệ sinh khu dân cư,khu công nghiệp…; tập trung nghiên cứu,đầu tư cho các dự án cải tạo nâng cấp thiên nhiên như khu nghỉ dưỡng thân thiện với môi trường,trồng nhiều cây xanh trong thành phố…Tạo ra nguồn năng lượng mới sạch và không gây ô nhiễm.
Mỗi cá nhân,tổ chức phải có trách nhiệm vào việc bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên;có ý thức bảo vệ,cải tạo,phát triển các tài nguyên đang có nguy cơ cạn kiệt,các loài sinh vật có ích.
Tóm lại,cần có nhận thức đúng đắn,có trách nhiệm trong việc bảo vệ,sử dụng hợp lí các nhân tố tự nhiên,nắm được quy luật nguyên nhân-kết quả để hiểu và sử dụng có hiệu quả những ưu đãi,thuận lợi của tự nhiên để đáp ứng nhu cầu vật chất một cách tốt nhất và lâu dài.
Thông qua ba tình huống thực tiễn đã làm sang tỏ nội dung và ý nghĩa của cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả:
Mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân – quả. Trong thế giới hiện thực không thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi không có nguyên nhân nào không dẫn tới những kết quả nhất định.
Mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
Một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể gây nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân – quả.
KẾT LUẬN
Triết gia Aristote đã khẳng định thế giới ta đang sống được chi phối hoàn toàn bằng những quy luật chứ không phải định mệnh may rủi. Mọi sự việc xảy ra đều có lý do cụ thể và mọi hành động đều phản ánh một loại kết quả nào đó bất kể nhận thức hay mong muốn của chúng ta. Isaac Newton nhận định “ Bất kỳ hành động nào cũng dẫn đến một phản ứng tác động ngược lại với mức độ tương đương”. Còn đối với chúng ta, cách diễn đạt chung nhất cho quy luật này là “ Tư duy là nguyên nhân, điều kiện là kết quả”. Victor Hugo từng nói “ Hành động làm nên ta, hoặc làm hỏng ta, chúng ta là kết quả hành vi bản thân”. Thành công không phải như một phép nhiệm màu, mà do chính ta tạo ra. Bạn có thể đạt được thành quả như mong muốn nếu nhận diện được mục tiêu rõ ràng, nỗ lực tìm hiểu và học hỏi. Không những tác động đến cá nhân, đây còn là một quy luật vô cùng quan trọng, là “ quy luật bất biến” của tư tưởng và triết học Tây phương. Tìm kiếm không ngừng về chân lý và các mối liên hệ nhân quả trong các sự việc đã làm Tây phương phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật, y học, triết học và thậm chí chiến tranh trong hơn hai ngàn năm qua. Ngày nay, quy luật này đang là tâm điểm thúc đẩy những tiến bộ công nghệ làm thay đổi cả thế giới một cách rõ rệt.
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Giáo trình đại học luật
- Giáo trình khoa Luât – Đại học Quốc gia
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
- Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Tiểu luận hóa môi trường :" Hiệu ứng nhà kính & biến đổi khí hậu đối với Việt Nam." giáo viên hướng dẫn: Hà Thị Hiền; sinh viên thực hiện: Nguyễn Tiến MInh; Bùi Tiến Đạt; Phạm Văn Việt; Nguyễn Duy Quân
- 200 câu hỏi, đáp về môi trường sưu tầm :Lê Đức Toàn; Nguồn: cục bảo vệ MT
- Báo Hà Nội mới
- Báo phụ nữ Việt Nam
- 24h.com.vn/tin-tức -trong-ngày
- Hanoimoi.com.vn/kinhte/quyhoach
- dalatsme.com
- Dangkiemoto.com
- danhngon.com
- Tailieu.com
- vi.wikipedia.org
- Cand.com- Khổ như đỗ ô tô trên phố Hà Nội- Lan Thi- 08/10/2011
Đất tại công trường phải đủ ổn định để mang tải từ các công trình qua các bước chân mà không trải qua các khu định cư không mong muốn trong quá trình xây dựng và trong thời gian phục vụ.
ReplyDeleteChức năng này của đất được kiểm tra thông qua quá trình điều tra địa điểm. Do đó, vị trí xây dựng được xử lý và nén chặt dựa trên báo cáo điều tra địa điểm. Lượng đầm nén cần thiết cho đất trong khu vực tương ứng khác nhau tùy theo từng địa điểm.
Để xác định lượng đầm nén theo yêu cầu của đất và hàm lượng nước tối ưu tại độ nén, các thử nghiệm đầm nén được tiến hành trên đất từ vị trí trong phòng thí nghiệm.
>> Xem thêm tại: Mật độ khô tối đa và độ ẩm tối ưu của đất