Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
Định Nghĩa: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma tuý.
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985, nay được nhập lại thành một điều luật. Việc nhà làm luật nhập các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma tuý để quy định trong cùng một điều luật là đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này đặt ra. Ví dụ: M vừa tàng trữ 0,5 kilôgam thuốc phiện, rồi tự mình vận chuyển số thuốc phiện đó bán cho người khác, nếu căn cứ vào Bộ luật hình sự năm 1985 thì M phải bị kết án về ba tội độc lập đó là tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội vận chuyển trái phép chất ma tuý và tội mua bán trái phép chất ma tuý và bị quyết định hình phạt hình phạt riêng từng tội rồi tổng hợp hình phạt chung. Giả thiết, M bị phạt 7 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, 7 năm tù về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý và 10 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma tuý, tổng hợp hình phạt chung cho cả ba tội là 20 năm tù, thì nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cả ba hành vi này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội có tên đầy đủ là: “tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép chất ma tuý” và người phạm tội cũng chỉ bị áp dụng một hình phạt chỉ bằng 1/3 mức hình phạt mà lẽ ra người phạm tội phải bị áp dụng theo Bộ luật hình sự năm 1985.
Tuy nhiên, Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tới 4 hành vi phạm tội khác nhau, nên phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội danh cho chính xác.
Nếu một người thực hiện cả 4 hành vi quy định trong điều luật và cùng một loại, một lượng chất ma tuý thì định tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng. Ví dụ: A chiếm đoạt được 0,3 kilôgam thuốc phiện đem cất giấu, sau 6 tháng, A tìm được người mua nên đã vận chuyển số thuốc phiện trên đem tiêu thụ thì bị bắt. Trong trường hợp này tội danh của A là: “ chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép chất ma tuý” (tội danh đầy đủ).
Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi quy định tại điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội danh đầy đủ như điều luật đã quy định. Ví dụ: Trịnh Quốc H làm nghề lái xe tải. Trong một chuyến vận chuyển hàng từ Lai Châu về Nam Hà, H đã nhận của Vũ Xuân Tr một bánh Hêrôin để đưa về Nam Hà giao cho một người có tên là Lan và được Tr trả công 1.000.000 đồng. Trên đường vận chuyển số Hêrôin trên thì bị bắt giữ. Trường hợp phạm tội này của Trịnh Quốc H là hành vi phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý”.
Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan với nhau, thì phải định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình phạt riêng cho từng hành vi rồi tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Lại Thị Ng ở Hà Nội đã mua bán 350 gam Hêrôin, tàng trữ 500 gam thuốc phiện. Lại Thị Ng bị Toà án kết án 18 năm tù về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và 8 năm tù tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Buộc Lại Thị Ng phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 26 năm tù.
Ngoài việc nhập 4 điều luật thành một điều luật, thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 còn có một số sửa đổi như sau:
- Nếu các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 2 điều này” và “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 3 điều này” thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt nữa;
- Nếu các Điều 185d, 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Sử dụng người chưa thành niên vào việc phạm tội” thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em”.18
- Nếu các Điều 185c, 185e Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tình tiết “Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em” thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt.
- Nếu khoản 1 Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “mua bán trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào” và khoản 1 Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “chiếm đoạt dưới bất kỳ hình thức nào” thì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định: “mua bán trái phép chất ma tuý” và “chiếm đoạt chất ma tuý”
- Nếu khoản 2 Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tình tiết “Thu lợi bất chính lớn” và khoản 3 Điều 185đ quy định tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định các tình tiết này là yếu tố định khung nữa.
- Nếu khoản 2 Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tình tiết “có sử dụng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm” là yếu tố định khung hình phạt thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định các tình tiết này là yếu tố định khung nữa.
Về mức hình phạt chính quy định ở từng khung hình phạt có một số thay đổi như:
- Nếu khoản 4 các Điều 185c, 185d, 185đ, Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Nếu khoản 1 Điều 185đ và khoản 1 Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù thì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù;
- Nếu khoản 2 Điều 185đ và khoản 2 Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ mười năm đến mười lăm năm tù thì khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù;
Về hình phạt bổ sung, cũng có những thay đổi như:
- Nếu Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc bị tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” thì khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội thì người dưới 16 tuổi vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà người sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự vê tình tiết “sử dụng trẻ em vào việc phạm tội”
Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 194 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma tuý.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất chất ma tuý. Các chất ma tuý được liệt kê trong các bảng 1, bảng 2, bảng 3 và bảng 4 danh mục các chất ma tuý, chất hướng thần, theo quy định của Công ước quốc tế 1961; 1971; 1988. Công ước này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798-QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của Chủ tịch Nước cộng hoà xã hội Việt Nam.19
ở nước ta, các chất ma tuý thường gặp là thuốc phiện, Hêrôin, Mooc phin, cần sa và một số loại ma tuý ở dạng thuốc tân dược như: Suzusen, Dolagăng, Methamphetamin...
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan.
Do cơ cấu của Điều 194 là điều luật được nhập từ 4 điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 nên người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có các hành vi phạm tội như sau:
Hành vi tàng trữ.
Tàng trữ trái phép chất ma tuý là cất giữ bất hợp pháp chất ma tuý ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma tuý khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội cất giấu ma tuý trên phương tiện giao thông nhưng lại không có mục đích vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, mặc dù trên thực tế phương tiện giao thông đó di chuyển từ nơi này đến nơi khác thì người phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý. Ví dụ: Triệu Quốc H làm nghề lái xe. Do nghiện ma tuý nên H mua 10 gam thuốc phiện để sử dụng dần. H đã sử dụng hết 3 gam thì bị phát hiện và bị thu giữ 7 gam thuốc phiện còn lại được cất giấu trong ca bin dưới ghế ngồi lái xe. Mặc dù số thuốc phiện do H tàng trữ được di chuyển từ nơi này đến nơi khác nhưng H chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Ngược lại, có trường hợp chất ma tuý được cất giấu một nơi cố định, nhưng người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý. Ví dụ: Vũ Thị C làm nghề buôn bán tại chợ M. Do có quen biết từ trước với Trần Văn Nh nên khi Nh nhờ C chuyển cho một người có tên là K gói quà, thị C nhận lời. Sau khi Nh đi khỏi, C mở “gói quà” thì thấy đó là thuốc phiện nhưng vì nể Nh nên C vẫn giao cho K thì bị bắt. Hành vi của C không chỉ là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà còn là hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý và tội danh của C là tội “tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý”
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định người phạm tội có tàng trữ trái phép chất ma tuý hay không. Ví dụ: Nguyễn Văn Q bị bắt quả tang đang giao một bánh Hêrôin cho Bùi Thanh H, nhưng không có căn cứ xác định H là người mua số Hêrôin trên, còn Q thì khai rằng Q được một người thuê vận chuyển sô Hêrôin trên giao cho H còn H có phải là người mua Hêrôin hay không thì Q không biết. Mặc dù H vừa nhận Hêrôin từ tay Q và không có căn cứ xác định H mua sô Hêrôin này, nhưng hành vi của Bùi Thanh H vẫn bị coi là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp khó xác định người phạm tội có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý hay không, bởi lẽ đặc điểm chung của các tội phạm về ma tuý là người phạm tội không bao giờ chịu nhận hành vi thật của mình nếu cơ quan tiến hành tố tụng không có bằng chứng. Nếu chỉ căn cứ vào nơi cất giấu ma tuý thì dễ cho rằng người phạm tội không có hành vi tàng trữ, nhưng nếu căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án thì vẫn xác định được hành vi tàng trữ của người phạm tội. Ví dụ: Theo nguồn tin báo của quần chúng thì Trần Quốc T đang tàng trữ 1 kilôgam thuốc phiện trong nhà, nhưng khi Công an đến khám nhà T thì không tìm thấy thuốc phiện trong nhà T, mở rộng phạm vi kiểm tra, cơ quan điều tra phát hiện trên mái nhà bà Hoàng Thị D liền kề với nhà T có một gói thuốc phiện. Sau khi xác minh, cơ quan điều tra đã xác định số thuộc phiện thu được trên mái nhà của bà D là do T ném qua đó, nhưng T trước sau đều không nhận.
Nếu tàng trữ trái phép chất ma tuý cho người mà khác biết rõ người này mua bán trái phép chất ma tuý đó thì hành vi cất giữ ma tuý không phải là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà là hành vi giúp sức người mua bán trái phép chất ma tuý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi mua bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi mua bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ).
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch sô 01 ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ thì người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép dưới 1 gam nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca; dưới 0,1 gam Hêrôin hoặc côcain; dưới 1 kilôgam lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca; dưới 5 kilôgam quả thuốc phiện khô; dưới 1 kilôgam quả thuốc phiện tươi; dưới 2 gam các chất ma tuý ở thể rắn; dưới 5 mililit các chất ma tuý ở thể lỏng thì chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành chính. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, hướng dẫn trên là trái với quy định của Bộ luật hình sự, vì điều luật không quy định tàng trữ bao nhiêu chất ma tuý mới cấu thành tội phạm. Có thể còn ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi, hướng dẫn trên là cần thiết vì trong thực tiễn xét xử, có nhiều trường hợp người phạm tội nại rằng số ma tuý bắt được là do họ cất giấu để sử dụng dần vì họ là con nghiện, nếu không quy định một lượng ma tuý nhất định để làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi tàng tữ trái phép phép thì có thể dẫn đến tình trạng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý cả người sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc bỏ lọt tội vì cho rằng người phạm tội chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
Hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma tuý từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán.
Như vậy, khái niệm vận chuyển trái phép chất ma tuý được dùng ở đây có nội hàm rộng hơn khái niệm vận chuyển hàng hoá thông thường. Vận chuyển trái phép chất ma tuý có thể giống với vận chuyển hàng hoá từ nơi này đến nơi khác có một cự ly nhất định như: dùng ôtô, xe đạp, xe máy, tàu thuỷ, máy bay... nhưng cũng có thể chỉ là hành vi chuyển dịch từ vị trí này sang vị trí khác trong một không gian chật hẹp như từ gầm giường sang giá sách, từ túi người này sang túi người khác trong một phòng, thậm chí từ túi này sang túi khác của cùng một người. Ví dụ: Đinh Văn T là bạn của Hoàng Văn K. Trong lúc T đang ở nhà K chơi thì bị Công an đến khám nhà K, K nhờ T cất dùm mấy gói Hêrôin vào túi quần, nhưng hành vi của T và K không qua mắt được các chiến sĩ Công an. Khi T giả vờ xin phép K ra về bị bắt giữ, khám trong người T, các chiến sĩ Công an thu được 10 gói Hêrôin với tổng trọng lượng là 1 gam. Hành vi của T, nếu chỉ căn vào không gian, địa điểm thì dễ cho rằng T chỉ có hành vi tràng trữ trái phép chất ma tuý, nhưng nếu căn cứ vào mục đích cũng như hành vi cụ thể của T thì hành vi của T là hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Nếu vận chuyển ma tuý hộ cho người khác mà biết rõ mục đích mua bán ma tuý của người ma mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển ma tuý bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý với vai trò giúp sức. Ví dụ: Nguyễn Văn Th là lái xe thuộc Công ty vận tải số 14 biết Đào Xuân B là người thường xuyên mua bán ma tuý từ Sơn La về Hà Nội. Ngày 14-3-2001, B đến gặp Th và nhờ Th vận chuyển 1 cặp (hai bánh) Hêrôin từ Sơn La về Hà Nội giao cho Nguyễn Văn H và nhận tiền từ H giao về đưa cho B, nhưng trên đường vận chuyển từ Sơn La về Hà Nội đến địa phận tỉnh Hoà Bình thì bị bắt giữ. Khi bị bắt, Th khai vận chuyển thuê cho B và được B cho 3.000.000 đồng. Mặc dù hành vi của Th chỉ là hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng vì Th biết rõ mục đích mua bán trái phép ma tuý của B và của H nên hành vi của Th là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với vai trò giúp sức.
Do Bộ luật hình sự năm 1985 quy định riêng hành vi vận chuyển với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý ở hai điều luật riêng và hình phạt đối với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý bao giờ cũng nặng hơn hành vi vận chuyển, nên thực tiễn xét xử có không ít trường hợp người phạm tội bị bắt quả tang vận chuyển ma tuý, mặc dù người phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý đó nhưng chỉ nhận là mình vận chuyển, thậm chí còn không nhận biết đó là chất ma tuý. Nếu không căn cứ vào các chứng cứ khác thì khó có thể xác định người phạm tội mua bán hay vận chuyển trái phép chất ma tuý. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi vận chuyển và hành vi mua bán cùng trong một điều luật thì việc xác định hành vi mua bán hay vận chuyển cũng rất cần thiết nhưng nếu khó xác định thì cũng không ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng hình phạt.
Khi xác định hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý cũng như hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý như đã giới thiệu ở trên, phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một không gian thời gian nhất định để phân biệt đâu là hành vi tràng trữ và đâu là hành vi vận chuyển.
Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma tuý để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy ma tuý.
Bán trái phép chất ma tuý cho người khác là dùng ma tuý mà mình có dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt được để bán cho người khác lấy tiền hoặc lấy tài sản.
Mua chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là dùng tiền hoặc tài sản để đổi lấy chất ma tuý và dùng chất ma tuý đó bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Khi xác định hành vi mua chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác cần chú ý: Chỉ khi nào xác định rõ mục đích của người phạm tội mua chất ma tuý đó là nhằm bán lại thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Việc xác định này, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, căn cứ vào các tình tiết của vụ án.
Tuy nhiên, việc xác định mục đích của người mua trái phép chất ma tuý có nhằm bán trái phép cho người khác hay không, chỉ phức tạp trong một số trường hợp chất ma tuý có trọng lượng ít và người phạm tội thường khai rằng mua để sử dụng, còn đối với những trường hợp người phạm tội mua một lượng ma tuý lớn thì cho dù người phạm tội có nại ra rằng, mua để dùng thì việc xác định mục đích bán ma tuý đối với người phạm tội đơn giản hơn; không ai mua hàng kilôgam thuốc phiện hay 100 gam Hêrôin để sử dụng dần. Ví dụ: Trong các ngày 26-5, 29-5, 16-6 và 19-6-2001 Công an tỉnh Q.N đã triệu tập các con nghiện gồm: Phạm Tiến L, Trần Đăng K, Phạm Ngọc Kh, Lê Thanh S để hỏi về việc mua Hêrôin của ai về sử dụng. Các con nghiện trên đều khai thời gian từ tháng 4 đến tháng 6-2000 đã nhiều lần mua Hêrôin của Nguỵ Tôn M và Nguyễn Thị Th với giá từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng một liều về sử dụng; khám nhà Nguỵ Tôn M, cơ quan điều tra thu được tại ngăn tủ 10 gói Hêrôin có trọng lượng 0,01 gam, nhưng Nguỵ Tôn M và Nguyễn Thị Th không thừa nhận đã bán Hêrôin cho các con nghiện nói trên, mà nại rằng, M là con nghiện nên có mua 10 liều thuốc Hêrôin để sử dụng dần. Mặc dù M và Th không nhận bán Hêrôin cho các con nghiện nhưng căn cứ vào các chứng cứ khác, nhất là lời khai của các con nghiện thì vẫn có căn cứ xác định hành vi của M và Th là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý.
Xin chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma tuý rồi dùng chất ma tuý đó đem bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Việc xin chất ma tuý nhằm bán lại cho người khác trong thực tế rất ít xảy ra, nhưng trong một số trường hợp vẫn có thể xảy ra. Nếu xin được ma tuý mà bán ngay cho người khác thì hành vi của người phạm tội là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng nếu xin được chất ma tuý rồi đem cất giữ sau đó mới bán cho người khác thì phải định tội là tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý.
Tàng trữ chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý sau đó đem bán chất ma tuý đó cho người khác. Hành vi tàng trữ chất ma tuý hoàn toàn giống như hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý đã nêu ở trên, chỉ khác ở chỗ nếu chỉ tàng trữ mà không đem bán hoặc không chứng minh được mục đích nhằm bán trái phép chất ma tuý đó thì người phạm tội chỉ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý còn nếu đem bán chất ma tuý đó hoặc chứng minh được người phạm tội có mục đích nhằm bán trái phép chất ma tuý đó thì phạm tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý. Đây là điểm khác so với quy định về tội mua bán trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 2-1-1998 và Thông tư liên tịch số 02 ngày 5-8-1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương VIIA “các tội phạm về ma tuý” của Bộ luật hình sự năm 1985 thì việc phân biệt hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý với hành vi mua bán chất ma tuý là rất cần thiết vì Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai hành vi này ở hai điều luật khác nhau, nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai hành vi này trong cùng một điều luật nên việc phân biệt hành vi tàng trữ với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý chỉ có ý nghĩa trong việc định tội danh theo hành vi mà không ảnh hưởng lớn đến mức hình phạt đối với người phạm tội.
Vận chuyển chất ma tuý để bán trái phép cho người khác cũng giống như hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý như đã giới thiệu ở trên, chỉ khác hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý ở chỗ người phạm tội không chỉ vận chuyển mà còn bán chất ma tuý mà mình vận chuyển cho người khác. Việc chứng minh người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà mình vận chuyển cho người khác hay không trách nhiệm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Nếu không chứng minh được người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà họ vận chuyển cho người khác thì chỉ định tội là “vận chuyển trái phép chất ma tuý”, còn nếu chứng minh được người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý mà họ vận chuyển trái phép thì định tội là “vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý”.
Nếu hành vi vận chuyển chất ma tuý không trái phép và người vận chuyển chất ma tuý đó lại bán cho người khác một cách trái phép thì phải định tội là “ chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý”. Ví dụ: Ngày 26-10-2001, Công an xã G đã thu một bao tải có 5.000 ống thuốc Diazepam do anh Nguyễn Văn S nộp. Anh S khai số thuốc trên khi anh lái đò chở khách vớt được trên sông ngày 24-10-2001, thì ngày 25-10-2001 có Đinh Công Ch và một người đi cùng đến xin chuộc với giá 600.000 đồng và nói là thuốc kích thích hoa quả. Do nghi ngờ, nên anh S không đồng ý cho chuộc và đem nộp cho Công an. Sau khi thu số thuốc trên, Công an xã giao cho Đỗ Xuân H và Phùng Văn K vận chuyển số thuốc Diazepam lên Công an huyện. Trên đường vận chuyển, H và K bàn với nhau bán 500 ống thuốc Diazepam cho Nguyễn Thị M có quầy bán thuốc tân dược ở thị trấn Q. Hành vi của H và K là hành vi phạm tội “ chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý” vì hành vi vận chuyển chất ma tuý của H và K không trái phép.
Cũng coi là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nếu dùng chất ma tuý để trao đổi, để thanh toán trái phép hoặc dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán lấy chất ma tuý để bán lại trái phép cho người khác. Ví dụ: Do buôn bán chung với nhau, nên Đoàn Văn D nợ Hoàng Thế Q 60.000.000 đồng. Q đòi nhiều lần nhưng D vẫn không thanh toán cho Q. Ngày 22-10-2001, Q đến nhà D đòi nợ, D nói: “em có một cân thuốc phiện anh lấy bán trừ nợ cho em”. Q suy nghĩ một lát rồi đồng ý lấy thuốc phiện để trừ nợ. Sau khi lấy một cân thuốc phiện của D, Q tìm nơi tiêu thụ thì bị bắt. trong trường hợp này cả D và Q đều phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý.
Khi xác định hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cần chú ý một số vấn đề sau:
Chất ma tuý mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có; không phụ thuộc vào chất ma tuý đó là thật hay giả, có hàm lượng cao hay thấp.
Việc xác minh người phạm tội có mục đích bán chất ma tuý cho người khác hay không, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Trong trường hợp không chứng minh được mục đích bán trái phép chất ma tuý của họ, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép chất ma tuý" hay tội "vận chuyển trái phép chất ma tuý" hoặc “tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý”.
Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý và kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là “ tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý”; “vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý”; “chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý” hay tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chụyển, chiếm đoạt, mua bán trái phép chất ma tuý”.
Hành vi chiếm đoạt chất ma tuý là hành vi cướp chất ma tuý, bắt cóc nhằm chiếm đoạt chất ma tuý, cưỡng đoạt chất ma tuý, cướp giật chất ma tuý, công nhiên chiếm đoạt chất ma tuý, trộm cắp chất ma tuý, lừa đảo chiếm đoạt chất ma tuý, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma tuý, tham ô chất ma tuý.
Hành vi chiếm đoạt chất ma tuý cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt chất ma tuý ngay trước, trong khi thực hiện hành vi khách quan của tội phạm.
Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt chất ma tuý hoặc không chứng minh được ý thức chiếm đoạt chất ma tuý mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn có chất ma tuý nhưng người phạm tội vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì không bị coi là hành vi chiếm đoạt chất ma tuý, mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội có trách nhiệm hình sự chất chiếm đoạt (cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép chất ma tuý.
Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài sản có chất ma tuý và đem chất ma tuý đó nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không coi là hành vi chiếm đoạt chất ma tuý mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Ngày 23-12-2001, Đỗ Quyết Th, Vũ Xuân H rủ nhau đi cướp giật. Th chở H bằng xe máy đến khu vực Cầu Giấy, H phát hiện có một phụ nữ đi xe đạp, trên tay lái ( ghi đông) có treo một chiếc túi xách, H ra hiệu cho Th ép xe để H giật chiếc túi treo trên ghi đông xe đạp. Sau khi giật được túi xách, H và Th lục túi không thấy tiền mà chỉ có 10 tép (liều) Hêrôin nên bàn với nhau đem nộp cho Công an. Tuy nhiên, nếu mục đích ban đầu là chiếm đoạt ma tuý nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt thì lại không có ma tuý mà chỉ có tài sản thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt ma tuý. Nếu người phạm tội không có mục đích rõ rệt là sẽ chiếm đoạt cái gì ( cái gì cũng được) nhưng khi chiếm đoạt lại là ma tuý thì vẫn bị truy cứu trnh về tội chiếm đoạt ma tuý.
b. Hậu quả
Hậu quả của các tội phạm về ma tuý nói chung và hậu quả của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Những thiệt hại do hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất ( chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý ).
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu hành vi chiếm đoạt chất ma tuý lại gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng với những thiệt hại mà người phạm tội gây ra. Ví dụ: Trịnh Công S biết Đào Văn T vận chuyển Thuốc phiện, nên đã bàn với Mai Văn M chặn đường cướp thuốc phiện do T vận chuyển, M đồng ý. M mang theo một khẩu súng kíp ( loại súng săn), S mang theo một đôi Col gỗ ( nhị khúc). Khi gặp T, M dùng súng đe doạ buộc T phải giao túi xách có thuốc phiện cho M và S. Do T có võ nên chống cự lại thì bị M bắn gãy chân có tỷ lệ thương tật 45%. Nếu không phải là cướp ma tuý mà là cướp tài sản thì hành vi phạm tội của M và S thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự nhưng vì đối tượng của hành vi cướp lại là ma tuý nên Ngoài tội chiếm đoạt ma tuý M và S còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây thương tích cho người khác theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Đây cũng là đặc điểm khác với hành vi chiếm đoạt tài sản quy định tại Chương các tội xâm phạm sở hữu ( Chương XIV). Đối với các tội xâm phạm sở hữu hậu quả có thể là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt tuỳ từng trường hợp cụ thể, còn đối với hành vi chiếm đoạt ma tuý thì hậu quả xảy ra ( nếu có) lại là dấu hiệu cấu thành một tội phạm độc lập với tội chiếm đoạt chất ma tuý.
Số lượng chất ma tuý mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý cũng được coi là hậu quả của tội phạm nhưng hậu quả này chỉ là những thiệt hại gián tiếp cho xã hội và đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, số lượng càng lớn thì thiệt hại cho xã hội càng nhiều và người phạm tội bị phạt càng nặng.
Riêng hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nếu trọng lượng chất ma tuý dưới mức hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ nội vụ tại Thông tư liên tich số 01/1998 ngày 2-1-1998 thì chưa cấu thành tội phạm.
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thực hiện hành vi phạm tội của mình do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. Như vậy, đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, đối với hành vi chiếm đoạt chất ma tuý thì người phạm tội có thể thực hiện hành vi của mình do cố ý gián tiếp trong trường hợp người phạm tội không cần xác định đối tượng ma tuý cũng chiếm đoạt mà tài sản khác cũng chiếm đoạt ( bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra, ma tuý cũng lấy mà tài sản khác cũng lấy).
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
Là trường hợp tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.
So với khoản 1 các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 185đ và 185e nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Tuy nhiên đối với hành vi tàng trữ và hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý thì khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn khoản 1 Điều 185c và 185d, nhưng Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn Điều 185c và Điều 185d nên cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. 20
Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt ( dưới hai tù), nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Tuy nhiên, việc cho người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý phải rất thận trọng, vì tội phạm này là tội phạm nghiêm trọng, hơn nữa hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý bản thân nó đã mang tính nghiêm trọng và trong tình hình hiện nay, khi mà tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối cho xã hội thì việc cho người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý hưởng án treo phải hết sức chặt chẽ.
2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức
Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Tuy nhiên, ở nước ta trong thời gian vừa qua một số vụ án ma tuý với quy mô lớn hoặc rất lớn như vụ án Vũ Xuân Trường ở Hà Nội; vụ Lê Văn Tám và vụ Tô Ngọc Hà ở Nam Định; vụ Nguyễn Văn Lượng ở Nghệ An.v.v... Nhưng không phải tất cả các bị cáo trong các vụ án đó đều phạm tội có tổ chức mà chỉ có một số tên bị coi là phạm tội có tổ chức. Đây là đặc điểm của tội phạm về ma tuý, do tính chất phức tạp và xảo quyệt của người phạm tội nên một đường dây vận chuyển ma tuý có thể từ nước ngoài về Việt Nam, từ miền Bắc vào miền Nam có nhiều người tham gia nhưng không phải tất cả những người trong đường dây này biết nhau hoặc tiếp nhận mục đích của nhau, thậm chí còn thanh trừng lẫn nhau.
Trong thời gian qua ở nước ta, cơ quan điều tra đã phát hiện nhiều đường dây mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý xuyên quốc gia nhưng do tính chất của tội phạm về ma tuý nên việc tổ chức thành một đường dây mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý không giống như những trường hợp phạm tội có tổ chức khác. Có đường dây có tới hàng trăm tên, nhưng không phải tất cả những tên tham gia trong đường dây ma tuý đó đều thực hiện hành vi của mình dưới sự chỉ huy của một người, mà chỉ hình thành từng nhóm nhỏ hai ba người, thậm chí người phạm tội nhận vận chuyển ma tuý cho một đường dây nhưng không biết những đồng phạm khác trong đường dây ma mình tham gia. Vì vậy, khi xác định phạm tội có tổ chức trong những trường hợp này cần chú ý đến đặc điểm và tính chất của tội phạm về ma tuý, trên cơ sở những tình tiết của vụ án để phân biệt trường hợp nào là phạm tội có tổ chức và trường hợp nào không phải là có tổ chức.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý như: Khởi xướng ra việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; phân công nhiệm vụ cho những người đồng phạm khác; điều hành, phối hợp hành vi của những người đồng phạm khác để đạt được mục đích chung là tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý như: Trực tiếp cất giữ ma tuý, trực tiếp vận chuyển ma tuý, trực tiếp thực hiện hành vi mua bán ma tuý, trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt ma tuý...
Người xúi dục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Nếu xúi dục trẻ em phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự và trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự thì người có hành vi dúi dục lại trở thành người thực hành, còn trẻ em trở thành công cụ, phương tiện để người có hành vi dúi dục phạm tội. Như vậy, người xúi dục trong vụ án có đồng phạm và hành vi dúi dục của người thực hành, xét về khía cạnh pháp lý là không đồng nhất với nhau.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý như: Cung cấp tiền, cung cấp phương tiện, tìm địa điểm... cho việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý...
Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý có tổ chức có thể có tất cả những người đồng phạm, nhưng cũng có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành. Nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức, nếu thiếu một trong hai người này thì không thể có phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, nếu đã có người tổ chức, người thực hành nhưng người thực hành chưa thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì vẫn là phạm tội có tổ chức nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
b. Phạm tội nhiều lần
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nhiều lần là đã có tất cả hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt chất ma tuý trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; đồng thời trong số các lần tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng trong đó có một lần chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần21
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt chất ma tuý, trong đó đã có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì không coi là phạm tội nhiều lần, còn nếu có từ ba, bốn, năm... lần tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý trong đó có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì vẫn coi là phạm tội nhiều lần vì ít nhất cũng còn hai lần chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu người phạm tội có hai lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng mỗi lần thực hiện hành vi khác nhau thì không coi là phạm tội nhiều lần. Ví dụ: Một lần tàng trữ, một lần vận chuyển, một lần mua bán, một lần chiếm đoạt, tổng cộng là 4 lần phạm tội nhưng vì mỗi lần thực hiện một hành vi phạm tội khác nhau nên không coi là phạm tội nhiều lần.
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt chất ma tuý, nhưng trong đó có một lần đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật, thì không coi là phạm tội nhiều lần.
Vấn đề đặt ra là, nếu cùng một thời gian tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma tuý đối với hai người thì có coi là phạm tội nhiều lần không ? Đây là vấn đề thực tiễn xét xử có nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ: Khoảng 10 giờ ngày 20-1-2001, Nguyễn Thị L và Vũ Văn T đến nhà Huỳnh Quốc D mua Hêrôin về sử dụng. Huỳnh Quốc D đã lấy hai gói Hêrôin đưa cho L và T mỗi người một gói. Vậy Huỳnh Quốc D có phạm tội thuộc trường hợp nhiều lần không ? Có ý kiến cho rằng, trường hợp này D chỉ phạm tội đối với nhiều người ( hai người) nhưng Điều 194 không quy định trường hợp phạm tội đối với nhiều người là yếu tố định khung hình phạt. Có ý kién khác lại cho rằng Điều 194 Bộ luật hình sự không thể quy định tình tiết phạm tội đối với nhiều người là yếu tố định khung hình phạt được vì bán ma tuý cho nhiều người không phải là phạm tội đối với nhiều người, vì người mua ma tuý không phải là người bị hại, mặt khác tội phạm này không quy định trường hợp phạm tội đối với nhiều người là yếu tố định khung hình phạt nên phải coi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép cho nhiều người là trường hợp phạm tội nhiều lần hoặc chiếm đoạt ma tuý của nhiều người cũng là phạm tội nhiều lần. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, nhưng phải phân biệt:
Nếu có nhiều người góp tiền cho một người đến mua ma tuý của một người mà người bán ma tuý biết là mua cho nhiều người thì không coi là phạm tội nhiều lần, vì chỉ có một người giao dịch với người bán.
Nếu có nhiều người cùng đến mua ma tuý nhưng chỉ có một người đứng ra đại diện mua, thì hành vi của người bán ma tuý cũng không bị coi là phạm tội nhiều lần.
Nếu có nhiều người đến mua ma tuý và có từ hai người trở lên đứng ra giao dịch và trả tiền, nhưng khi giao ma tuý lại chỉ giao cho một người để người này chia cho những người đến mua thì phải coi là phạm tội nhiều lần.
c. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Ví dụ: Vũ Xuân Tr là sĩ quan trong lực lượng chống tội phạm về ma tuý đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, cấu kết với một số tên dùng xe đặc chủng để vận chuyển ma tuý từ Lai Châu về Hà Nội và các tỉnh Nam Hà, Thái Bình, Hải Phòng tiêu thụ.
Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của mình thì dù có chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Bùi Xuân K là cán bộ kiểm lâm tỉnh S được về Hà Nội bồi dưỡng nghiệp vụ. Khi đi, K không mặc sắc phục của ngành, đã mang theo 2 kilôgam thuốc phiện. Trên đường vận chuyển thì bị bắt.
Thực tiễn xét xử cho thấy, ngoài việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn người phạm tội còn lợi dụng nghề nghiệp để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý như: Lái xe, thuyền viên, thuỷ thủ, thợ hàn, thợ mộc... Tuy nhiên, nhà làm luật chỉ quy định lợi dụng chức vụ, quyền hạn nên đối với người lợi dụng nghề nghiệp để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì cũng bị coi là lợi dụng quyền hạn, vì nghề nghiệp của họ cũng cho phép họ những quyền hạn nhất định.
d. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý là trường hợp người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Thông thường, người phạm tội trong trường hợp này là thông qua các hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng trông giữ tài sản để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý sản xuất chất ma tuý. Người phạm tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức thường là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội không phải là người có chức vụ, quyền hạn mà chỉ lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Ví dụ: Chu Văn D biết Công ty dược X được mua một số thuốc tân dược. Do quen biết với Bùi Thị H là dược sỹ cao cấp của Công ty, nên D đã bàn với H xin giấy giới thiệu của Công ty để D quan hệ với khách hàng mua thuốc tân dược cho Công ty với giá rẻ hơn giá mà Công ty phải trả. Sau khi đã có giấy giới thiệu trong tay, D đã lợi dụng danh nghĩa của Công ty để mua 1500 ống thuốc Morphine đem bán cho quầy thuốc tư nhân thì bị bắt.
đ. Vận chuyển, mua bán qua biên giới
Vận chuyển, mua bán ma tuý qua biên giới là đưa ma tuý từ nước này qua nước khác dưới bất kỳ hình thức nào.
Nhà làm luật chỉ quy định “qua biên giới” mà không giới hạn qua biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam, do đó khi xác định trường hợp phạm tội này, ngoài hành vi vận chuyển, mua bán trái phép ma tuý qua biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam thì còn bao gồm hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý từ nước một nước không phải là Việt Nam sang một nước thứ ba. Ví dụ: Vận chuyển Hêrôin từ Thái Lan sang Lào, từ Trung Quốc sang My An Ma.v.v... Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người vận chuyển, mua bán trái phép ma tuý trong trường hợp này phải căn cứ vào Điều 6 Bộ luật hình sự về hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.22
Tình tiết vận chuyển, mua bán ma tuý qua biên giới chỉ được quy định tại Điều 185d và Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 còn Điều 185c và Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tình tiết này, nhưng không vì thế mà cho rằng, đối với hành vi tàng trữ và chiếm đoạt ma tuý thì tình tiết này là tình tiết mới, vì trong thực tế không thể có trường hợp tàng trữ và chiếm đoạt ma tuý qua biên giới được. Do đó tình tiết này chỉ áp dụng đối với hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý mà không áp dụng đối với hành vi tàng trữ, chiếm đoạt chất ma tuý.
điều luật không quy định nhằm qua biên giới nên tình tiết này không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, do đó chỉ coi là vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý qua biên giới khi người phạm tội đã vận chuyển, mua bán ma tuý qua được biên giới. Nếu người phạm tội có mục đích đưa chất ma tuý qua biên giới nhưng vì lý do nào đó mà người phạm tội chưa đưa được ma tuý qua biên giới thì không coi là vận chuyển, mua bán ma tuý qua biên giới.
e. Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em
Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội là trường hợp người phạm tội đã dụ dỗ, xúi dục, mua chuộc, hăm doạ, khống chế, lôi kéo... người dưới 16 tuổi thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Nếu xúi dục trẻ em hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý mà người bị xúi dục là trẻ em chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội vẫn bị coi là sử dụng trẻ em vào việc phạm tội.
Bán ma tuý cho trẻ em là dùng ma tuý mà mình có dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt được để bán cho người dưới 16 tuổi lấy tiền hoặc lấy tài sản. Trường hợp phạm tội này chỉ xảy ra đối với người thực hiện hành vi bán trái phép chất ma tuý cho người khác.
Điểm e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định hai tình tiết: sử dụng trẻ em vào việc phạm tội và bán ma tuý cho trẻ em, vì vậy khi xem xét vào trường hợp cụ thể cần phân biệt hai trường hợp khác nhau. Nếu người phạm tội chỉ sử dụng trẻ em vào việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì chỉ xác định người phạm tội sử dụng trẻ em vào việc phạm tội, ngược lại nếu người phạm tội chỉ bán ma tuý cho trẻ em thì chỉ xác định bán ma tuý cho trẻ em.
Tình tiết sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em là yếu tố định khung hình phạt mnhieeMorrphi nhà làm luật quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, đo đó, đối với hành vi sử dụng trẻ em vào việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý hoặc bán ma tuý cho trẻ em xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không áp dụng tình tiết này. Việc nhà làm luật quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt là xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay nhiều người đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật và xã hội của trẻ em, nên đã sử dụng trẻ em để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý và việc sử dụng trẻ vào việc phạm tội thì tội phạm được thực hiện dễ dàng hơn và che giấu hành vi phạm tội của mình cũng dễ dàng hơn.
Đây là loại hành vi phạm tội mà xã hội thường gọi là “ném đá giấu tay”. Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội nói chung và vào việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nói riêng là một tội ác, nên phải bị trừng trị nghiêm khắc. Cũng có ý kiến cho rằng, sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán cho ma tuý cho trẻ em phải coi là yếu tố định khung tại khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật mới thoả đáng.
g. Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 193 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định trọng lượng chất ma tuý mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt. Nếu trọng lượng ma tuý từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam là người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Chất ma tuý quy định ở đây chỉ là nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao cô ca.23
điều luật chỉ quy định nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca, nhưng đối với cần sa còn có dầu cần sa. Dầu cần sa cũng có tỷ lệ thành phần Cannbinoid tương ứng với nhựa cần sa nhưng trong dầu cần sa không có các axit cannabinonic. Dầu cần sa có hiệu lực tác dụng cao hơn nhiều so với nhựa cần sa. Vì vậy, nếu người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt dầu cần sa thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 của điều luật ( các chất ma tuý ở thể lỏng)
h. Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản này, chỉ khác ở chỗ chất ma tuý quy định ở đây là Hêrôin hoặc côcain, chỉ cần xác định trọng lượng của Hêrôin hoặc côcain. Nếu trọng lượng Hêrôin hoặc côcain từ năm gam đến dưới ba mươi gam thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. 24
Hêrôin là một chất ma tuý được điều chế từ Morphine mà Morphine lại là một chất ma tuý được điều chế nhựa thuốc phlieeu; theo các tài liệu khoa học thì cứ 10 kilôgam thuốc phiện sống có thể chiết xuất được 1 kilôgam Morphine và từ 1 kilôgam Morphine có thể điều chế được 1 kilôgam Hêrôin. điều luật chỉ quy định chất ma tuý là Hêrôin mà không quy định chất ma tuý là Morphine, nên người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất Morphine thì không thuộc trường hợp này mà thuộc trường hợp quy định tại điểm m khoản 2 điều này (các chất ma tuý khác)
Côcain là chất tự nhiên được chiết xuất từ lá cô ca (tên Latinh là Erythroxylon norogranatense). Việc điều chế côcain nhất thiết phải bằng phương pháp cho phản ứng hoá học như đã giới thiệu ở phần hành vi khách quan của tội sản xuất trái phép chất ma tuý. Có nhiều cách để xác định côcain, nhưng nhất thiết phải bằng phương pháp hoá học và được tiến hành trong phòng thí nghiệm như: Thử Scott, thử mùi vị, thử vi tinh 25
Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam là trọng lượng để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với Hêrôin thì việc xác định trọng lượng không khó, nhưng việc xác định trọng lượng côcain là vấn đề phức tạp hơn, vì côcain được điều chế từ là cô ca, từ kem cô ca, từ một loại côcain khác (côcain kiềm, côcain HCL). Nếu là côcain kiềm và côcain HCL thì không cần phân biệt côcain loại nào người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về trọng lượng côcain mà người đó tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt. Vì vậy, khi bắt được người tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất côcain, cần đưa đến cơ quan giám định để xác định chất đó có phải là côcain không và là loại côcain nào.
Việc xác định trọng lượng Hêrôin và côcain cũng tương tự như việc xác định trọng lượng đối với nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca quy định tại điểm g khoản 2 điều này.
i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam.
Lá, hoa, quả cây cần sa là ba bộ phận của cây cần sa (Cannabis) khoa học gọi là thảo mộc cần sa (Marijuana).
Cây cần sa là loại thực vật mọc ở các vung khí hậu nhiệt độ cao, vùng nhiệt đới gió mùa Nam Mỹ, vùng Carribians, Châu Phi, Nam á, Đông Nam á. Những người sản xuất cần sa thu hoạch thảo mộc cần sa phơi khô ép thành từng bánh giống bánh thuốc lào đem bán. Những người tiêu thụ lại nghiền nhỏ thảo mộc cuộn thành điếu như điếu thuốc lá để bán cho các con nghiện.26
Cây cô ca có tên khoa học là Erythroxylon, cô ca có nguồn gốc từ Nam Mỹ thổ dân từ xa xưa đã sử dụng cô ca trong sinh hoạt, nhưng mãi đến năm 1855 Gaedecke mới khám phá ra côcaine từ lá cô ca và năm 1959 Niemane phát hiện lại và đặt tên cho hợp chất này là côcaine27. Chỉ có lá cây cô ca mới chiết xuất được cocaine, còn các bộ phận khác của cây cô ca không thể chiết xuất được cocaine. Do đó, nếu tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt cây, hoa, quả, hạt của cây cô ca thì không phải là tội phạm.
Trọng lượng lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm i khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam, không phân biệt đó là lá, hoa quả cần sa, lá cô ca khô hay tươi.
k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam.
Quả thuốc phiện chưa chín còn ở trên cây được người ta rạch để lấy nhựa. Nhựa thuốc phiện lấy từ quả thuốc phiện chưa chín còn ở trên cây, nhưng sau khi thu hoạch nhựa thuốc phiện, quả thuốc phiện để khô hoặc được phơi khô tuy không lấy được nhựa thuốc phiện nhưng hàm lượng Morphine vẫn còn tuy không nhiều như quả thuốc phiện còn tươi. Cũng chính vì hàm lượng Morphine không đáng kể nên nhà làm luật quy định tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm k khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.
l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam.
Quả thuốc phiện tươi mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt phải là quả thuốc phiện đã được tách khỏi cây thuốc phiện nhưng còn tươi, hàm lượng Morphine còn cao, nên nhà làm luật quy định tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm l khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào nêu được tiêu chí để phân biệt giữa quả thuốc phiện khô với quả thuốc phiện tươi. Vì vậy, khi xác định quả thuốc phiện mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt là quả thuốc phiện tươi hay khô nhất thiết phải trưng cầu giám định. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mắt thường cũng có thể xác định được quả thuốc phiện đó là khô hay tươi, chỉ một số trường hợp quả thuốc phiện héo nhưng chưa phải đã khô mới khó xác định bằng mắt thường.
m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp quy định tại điểm g khoản 2, điểm d khoản 3, điểm c khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự quy định về tội sản xuất trái phép chất ma tuý28, chỉ khác ở chỗ các chất ma tuý khác ở thể rắn trong trường hợp này không phải do người phạm tội sản xuất trái phép mà là do người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt.
n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm h khoản 2, điểm đ khoản 3 điểm d khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma tuý29, chỉ khác ở chỗ các chất ma tuý khác ở thể lỏng trong trường hợp này không phải do người phạm tội sản xuất trái phép mà là do người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
Do đơn vị đo lường được tính bằng mililit nên khi xác định các chất ma tuý ở thể lỏng cần bảo đảm tính chính xác tuyết đối, nhất là đối với chất ma tuý không được đóng thành ống có ghi ký hiệu, hàm lượng, khối lượng... mà đơn vị đo lường gần bằng hoặc ( trên, dưới) một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít.
o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 điều này;
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm i khoản 2, điểm e khoản 3 điểm đ khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự. Việc xác định tổng số lượng các chất ma tuý đã được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch sô 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ nội vụ hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luât sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự.30
p) Tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp quy định tại điểm k khoản 2 Điều 193 Bộ luật hình sự quy định về tội sản xuất trái phép chất ma tuý31, chỉ khác ở chỗ người phạm tội tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, hoặc khoản 4 của Điều 194, hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
So với khoản 2 các Điều 185c và 185d Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn mà cũng không nặng hơn. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà khoản 2 các điều 185c và 185d Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định nên phải coi khoản 2 Điều 194 là quy định không có lợi cho người phạm tội. Do đó hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý thuộc các trường hợp mà khoản 2 Điều 185c và khoản 2 Điều 185d không quy định như: “Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội” xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì không được áp dụng khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 mà chỉ áp dụng khoản 1 Điều 185c, Điều 185d hoặc Điều 185e Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội, vì theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự “điều luật quy định một tình tiết tăng nặng mới thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
So với khoản 2 các Điều 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức hình phạt thấp nhất trong khung hình phạt chỉ có bảy năm so với mười năm quy định tại khoản 2 Điều 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985 và Điều 194 so với Điều 185đ và 185e cũng nhẹ hơn. Do đó hành vi phạm tội mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.
Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới hai năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, thì phạt mức cao của khung hình phạt (mười lăm năm tù).
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca là từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam. Việc xác định nhựa thuốc phiện. nhựa cần sa hoặc cao cô ca cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm h khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam. Việc xác định Hêrôin hoặc côcain cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm i khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam. Việc xác định lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm k khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam. Việc xác định quả thuốc phiện khô cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về chất ma tuý này.
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam. Việc xác định quả thuốc phiện tươi cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về chất ma tuý này.
e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm m khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam. Việc xác định các chất ma tuý khác ở thể rắn cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít. Việc xác định các chất ma tuý khác ở thể lỏng cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 điều này.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 điều này. Việc xác định có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 điều này cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 điểm a khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca là từ năm kilôgam trở lên. Việc xác định nhựa thuốc phiện. nhựa cần sa hoặc cao cô ca cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm h khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên. Việc xác định Hêrôin hoặc côcain cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm i khoản 2, điểm c khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên. Việc xác định lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm k khoản 2, điểm d khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên. Việc xác định quả thuốc phiện khô cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về chất ma tuý này.
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2, điểm đ khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên. Việc xác định quả thuốc phiện tươi cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về chất ma tuý này.
e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm m khoản 2, điểm e khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên. Việc xác định các chất ma tuý khác ở thể rắn cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm n khoản 2, điểm g khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trọng lượng các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên. Việc xác định các chất ma tuý khác ở thể lỏng cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 điều này.
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm o khoản 2, điểm h khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 điều này. Việc xác định có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 điều này cũng tương tự như trường hợp quy định tại các điều luật khác về các chất ma tuý này.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức thấp nhất của khung hình phạt là hai mươi năm tù so với tù chung thân được quy định tại khoản 4 các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985, đồng thời Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng nhẹ hơn các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.
Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười lăm năm năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, là người thuộc đối tượng nghiêm trị được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự, thì có thể bị phạt tử hình.
Cũng như đối với khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự, để cụ thể hoá việc áp dụng khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001. Theo Nghị quyết này thì khi áp dụng khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý cần chú ý:
Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với trọng lượng chất ma tuý như sau:
Xử phạt hai mươi năm tù nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ 5 kilôgam đến dưới mười kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam đến dưới một nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam đến dưới bốn trăm năm mươi kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới chín trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít đến dưới hai nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Xử phạt tù chung thân nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới sáu trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ một nghìn năm trăm kilôgam đến dưới bốn nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ bốn trăm năm mươi kilôgam đến dưới một nghìn hai trăm kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ chín trăm gam đến dưới hai nghìn năm trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai nghìn mililít đến dưới năm nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Xử phạt tử hình nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ hai mươi kilôgam trở lên;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ sáu trăm gam trở lên;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ bốn nghìn năm trăm kilôgam trở lên;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một nghìn hai trăm kilôgam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai nghìn năm trăm gam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ năm nghìn mililít trở lên;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Về tình tiết "có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số luợng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ..." quy định tại điểm h khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự được tính như sau:
Trường hợp thứ nhất:
Nếu các chất ma tuý đó đều được quy định trong cùng một điểm của khoản 4 Điều 194, thì cộng trọng lượng các chất ma tuý đó lại với nhau và so sánh với trọng lượng được hướng dẫn trên, để xem xét người phạm tội phải bị xử phạt mức hình phạt nào.
Ví dụ: Một người mua bán 115 gam Hêrôin và 125 gam Côcain. Do Hêrôin và Côcain đều được quy định trong cùng điểm b khoản 4 Điều 194, cho nên cộng trọng lượng Hêrôin và Côcain lại với nhau bằng 240 gam (115 gam + 125 gam = 240 gam). Đối chiếu với trọng lượng được hướng dẫn trên thì phải áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194 để xử phạt người phạm tội mức án 20 năm tù.
Trường hợp thứ hai:
Nếu các chất ma tuý đó được quy định tại các điểm khác nhau của khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194, thì cách tính tổng số lượng của các chất ma tuý này tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý quy định tại khoản 4 Điều 193 hoặc tại khoản 4 Điều 194 được tiến hành theo trình tự sau đây:
Lần lượt lấy làm chuẩn từng chất ma tuý trong số các chất ma tuý mà người phạm tội đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt. Tính trọng lượng của các chất ma tuý còn lại trong số các chất ma tuý mà người phạm tội đã tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tương ứng với bao nhiêu gam, kilôgam hoặc mililít của chất ma tuý đã lấy theo tỷ lệ trọng lượng tối thiểu của các chất ma tuý còn lại với trọng lượng tối thiểu của chất ma tuý đã lấy làm chuẩn quy định tại khoản 4 Điều 194.
Cộng trọng lượng của các chất ma tuý đã tính được tương đương với trọng lượng thực có của chất ma tuý đã lấy làm chuẩn thì được tổng số lượng của các chất ma tuý mà người phạm tội đã tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt.
So sánh các kết quả tính tổng số lượng của các chất ma tuý mà người phạm tội đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tương đương (theo từng chất ma tuý đã lấy làm chuẩn) với nhau và với hướng dẫn trên. Nếu tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương theo chất ma tuý nào mà có lợi cho người phạm tội khi quyết định hình phạt, thì lấy tổng số lượng đó.
Ví dụ: Một người mua bán 4 kilôgam thuốc phiện, 90 gam Hêrôin và 150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn. Cách tính tổng số lượng của các chất ma tuý này như sau:
Lấy thuốc phiện làm chuẩn để tính 90 gam Hêrôin và 150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với bao nhiêu kilôgam thuốc phiện (tính theo tỷ lệ trọng lượng tối thiểu của thuốc phiện và Hêrôin, của thuốc phiện và chất ma tuý khác ở thể rắn quy định tại khoản 4 Điều 194), cụ thể là:
Đối với Hêrôin:
100 gam Hêrôin tương đương với 5 kilôgam thuốc phiện.
90 gam Hêrôin tương đương với X kilôgam thuốc phiện.
X = 90 gam x 5 kilôgam = 4,5 kilôgam thuốc phiện.
100 gam
Đối với chất ma tuý khác ở thể rắn:
300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với 5 kilôgam thuốc phiện.
150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với Y kilôgam thuốc phiện.
Y= 150 gam x 5kilôgam = 2,5 kilôgam thuốc phiện.
300 gam
Cộng trọng lượng của Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn vừa tính được tương đương với trọng lượng thuốc phiện (X và Y) với trọng lượng thuốc phiện thực có là:
4,5 kilôgam + 2,5 kilôgam + 4 kilôgam = 11 kilôgam.
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng của thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái phép) tương đương với 11 kilôgam thuốc phiện.
Lấy Hêrôin làm chuẩn để tính 4 kg thuốc phiện và 150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với bao nhiêu gam Hêrôin (tính theo tỷ lệ trọng lượng tối thiểu của Hêrôin và thuốc phiện, của Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn quy định tại khoản 4 Điều 194), cụ thể là:
Đối với thuốc phiện:
5 kilôgam thuốc phiện tương đương với 100 gam Hêrôin
4 kilôgam thuốc phiện tương đương với X gam Hêrôin
X = 4 kilôgam x 100 gam = 80 gam Hêrôin
5 kilôgam
Đối với các chất ma tuý khác ở thể rắn:
300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với 100 gam Hêrôin
150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đối với Y gam Hêrôin
Y = 150 gam x 100 gam = 50 gam Hêrôin
300 gam
Cộng trọng lượng của thuốc phiện và chất ma tuý khác ở thể rắn vừa tính được tương đương với trọng lượng Hêrôin (X và Y) với trọng lượng Hêrôin thực có là:
80 gam + 50 gam + 90 gam = 220 gam
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng của thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái phép) tương đương với 220 gam Hêrôin).
Lấy chất ma tuý khác ở thể rắn làm chuẩn để tính 4 kg thuốc phiện và 90 gam Hêrôin tương đương với bao nhiêu gam chất ma tuý khác ở thể rắn (tính theo tỷ lệ trọng lượng tối thiểu của chất ma tuý khác ở thể rắn và thuốc phiện, của chất ma tuý khác ở thể rắn và Hêrôin quy định tại khoản 4 Điều 194), cụ thể là:
Đối với thuốc phiện:
5 kilôgam thuốc phiện tương đương với 300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
4 kilôgam thuốc phiện tương đương với X gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
X = 4 kilôgam x 300 gam = 240 gam chất ma tuý khác ở thể rắn
5 kilôgam
Đối với Hêrôin:
100 gam Hêrôin tương đương với 300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
90 gam Hêrôin tương đương với Y gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
Y = 90 gam x 300 gam = 270 gam chất ma tuý khác ở thể rắn
100 gam
Cộng trọng lượng của thuốc phiện và Hêrôin vừa tính được tương đương với trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn (X và Y) với trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn thực có là:
240 gam+ 270 gam + 150 gam = 660 gam
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái phép) tương đương với 660 gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
So sánh các kết quả xác định tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương (theo từng chất ma tuý đã lấy làm chuẩn), tức là so sánh các kết quả ba cách tính trên với nhau và với hướng dẫn trên cho thấy:
Nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng thuốc phiện (11 kg) thì áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 để xử phạt người phạm tội tù chung thân.
Nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng Hêrôin (220 gam) hoặc với trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn (660 gam) thì áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 để xử phạt người phạm tội hai mươi năm tù..
Kết quả so sánh trên đây cho thấy nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái phép tương đương với trọng lượng Hêrôin hoặc chất ma tuý khác ở thể rắn thì đều có lợi hơn cho người phạm tội; do đó, trong ví dụ này có thể lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng Hêrôin hoặc tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn để xét xử đối với bị cáo.
Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau:
Xử phạt tù từ mười lăm năm đến dưới hai mươi năm nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ 5 kilôgam đến dưới mười kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam đến dưới một nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam đến dưới bốn trăm năm mươi kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới chín trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít đến dưới hai nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Xử phạt hai mươi năm tù nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới sáu trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ một nghìn năm trăm kilôgam đến dưới bốn nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ bốn trăm năm mươi kilôgam đến dưới một nghìn hai trăm kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ chín trăm gam đến dưới hai nghìn năm trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai nghìn mililít đến dưới năm nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Xử phạt tù chung thân nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ hai mươi kilôgam trở lên;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ sáu trăm gam trở lên;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ bốn nghìn năm trăm kilôgam trở lên;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một nghìn hai trăm kilôgam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai nghìn năm trăm gam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ năm nghìn mililít trở lên;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau:
Xử phạt tù chung thân nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ 5 kilôgam đến dưới mười kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam đến dưới một nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam đến dưới bốn trăm năm mươi kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới chín trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít đến dưới hai nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Xử phạt tử hình nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ mười kilôgam
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới sáu trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ một nghìn năm trăm kilôgam đến dưới bốn nghìn năm trăm kilôgam;
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ bốn trăm năm mươi kilôgam đến dưới một nghìn hai trăm kilôgam;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ chín trăm gam đến dưới hai nghìn năm trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai nghìn mililít đến dưới năm nghìn mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của một trong các chất ma tuý trên.
Trong trường hợp theo hướng dẫn mà người phạm tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng nếu người phạm tội chỉ là người giúp sức, do nể nang tình cảm, bị cưỡng bức hoặc vì hám lợi nhất thời ... mà tàng trữ, vận chuyển chất ma tuý hộ hoặc giúp sức trong việc mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì có thể không xử phạt tử hình mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
So với Thông tư liên tịch số 01 ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, thì Nghị quyết trên của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Do nghị quyết này chỉ hướng dẫn áp dụng khoản 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, còn các quy định khác của Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 chưa được hướng dẫn. Do đó, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức việc áp dụng Điều 194 Bộ luật hình sự năm của các cơ quan chức năng, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 01 ngày 2-1-1998 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Tuy nhiên, khi vận dụng cần phải đối chiếu, so sánh với những quy định tại Nghị quyết số 01 ngày 15-3-2001 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về 194 Bộ luật hình sự.
5. Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
So với Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức phạt tiền quy định tại Điều 185(o) từ hai mươi triệu đến năm trăm triệu đồng; hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ hai năm đến năm năm; việc áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại Điều 185(o) là bắt buộc, còn khoản 5 Điều 194 việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể áp dụng hoặc không áp dụng, Vì vậy, Toà án được áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng hình phạt bổ sung đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
---
Chú giải
18 Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi còn trẻ em là người dưới 16 tuổi.
19 Xem chú thích số 8 và số 9
20 Xem chú thích số 7
21 Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch sô 01 ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ thì người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép dưới 1 gam nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca; dưới 0,1 gam Hêrôin hoặc côcain; dưới 1 kilôgam lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô ca; dưới 5 kilôgam quả thuốc phiện khô; dưới 1 kilôgam quả thuốc phiện tươi; dưới 2 gam các chất ma tuý ở thể rắn; dưới 5 mililit các chất ma tuý ở thể lỏng thì chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành chính.
22 Điều 6 Bộ luật hình sự quy định:
1. Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
23 Xem điểm đ khoản 2 Điều 193 về tội sản xuất trái phép chất ma tuý và chú thích số 12
24 Xem thêm chú thích số 12 để hiểu thêm về chất Hêrôin và côcain
25 Xem chú thích số 15
26 Xem Vũ Ngọc Bừng “Các chất ma tuý”.NXB Công an nhân dan. Năm 1994. Tr.47
27 Sách đã dẫn. Tr 44-45.
28 Xem nội dung phân tích các điểm g khoản 2, điểm d khoản 3, điểm c khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự
29 Xem nội dung phân tích các điểm h khoản 2, điểm đ khoản 3, điểm d khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự
30 Xem nội dung phân tích các điểm i khoản 2, điểm e khoản 3 điểm đ khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự.
31 Xem nội dung phân tích điểm k khoản 2 Điều 193 Bộ luật hình sự.
No comments:
Post a Comment