03/03/2015
Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc gia - Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế
Đề bài: phân tích , đánh giá thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc gia.

Dẫn độ tội phạm là một chế định của luật hình sự quốc tế , đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm .Trong khuân khổ bài ta sẽ: “phân tích , đánh giá thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa VN và một số quốc gia” để hiểu rõ hơn về hoạt động dẫn độ tội phạm tại Việt Nam qua các hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 

I. Các vấn đề liên quan đến dẫn độ tội phạm 

1. Định nghĩa dẫn độ tội phạm 

Khái niệm dẫn độ có rất nhiều cách tiếp cận,nhưng dù là cách tiếp cận nào đi nữa thì các quan điểm trên cũng được hiểu một cách chung nhất là : “Dẫn độ tội phạm làhành vi tương trợ pháp lý , được thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan( quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu dẫn độ ) dựa trên cơ sở các quy định của luật quốc tế , trong đó một quốc gia được yêu cầu sẽ thực hiện việc chuyển giao cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho  quốc gia có yêu cầu để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với cá nhân đó.” 

2. Đặc điểm của dẫn độ

Về chủ thể thực hiện hoạt động dẫn độ tội phạm: Các quốc gia độc lập có chủ quyền là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế, đồng thời cũng chính là chủ thể tham gia vào hoạt động dẫn độ tội phạm. Trong hoạt động dẫn độ tội phạm sẽ có chủ thể là quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu. Quốc gia yêu cầu là quốc gia là quyền và lợi ích bị cá nhân tiến hành hành vi xâm hại một cách trực tiếp, quốc gia được yêu cầu là quốc gia nơi cá nhân này đang hiện diện. Quốc gia yêu cầu sẽ đưa ra yêu cầu dẫn độ khi phát hiện ra cá nhân đó đang ở trên lãnh thổ của quốc gia yêu cầu (trên cơ sở sự thoả thuận), quốc gia được yêu cầu căn cứ vào pháp luật quốc gia và quy định của Luật quốc tế để chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu dẫn độđó. 

Về cơ sở pháp lý của hoạt động dẫn độ: Các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia hữu quan chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động dẫn độ. Vì việc tiến hành dẫn độ tội phạm là quyền của quốc gia trong quan hệ quốc tế trên cơ sở chủ quyền quốc gia, hoạt động này sẽ chỉ trở thành nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện trên cơ sở các điều ước quốc tế được ký kết với các quốc gia khác. 

Về nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm: Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, luật quốc gia chính là nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm. 

+> Điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động dẫn độ tội phạm gồm điều ước quốc tế đa phương toàn cầu hoặc khu vực (Công ước châu Âu về dẫn độ năm 1957, Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc năm 1990..); Các điều ước quốc tế song phương (Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc năm 2003..) 

+> Tập quán quốc tế có thể kể đến như: nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc có đi có lại.. 

+> Luật quốc gia bao gồm các văn bản pháp lý quốc gia điều chỉnh hoạt động hợp tác về dẫn độ tội phạm (thẩm quyền, trình tự, thủ tục...) của chính quốc gia trong quan hệ với quốc gia khác như: Luật tương trợ tư pháp 

Về đối tượng dẫn độ: Đối tượng chính của hoạt động dẫn độ là các tội phạm mà cá nhân thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia mình và đang hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia khác. Khoa học Luật Hình sự quốc tế ghi nhận 3 hình loại: tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm hình sự chung. Trên thực tế, hoạt động dẫn độ tội phạm chủ yếu được thực hiện với các cá nhân phạm tội có tính chất quốc tế hoặc một số tội phạm hình sự chung mang tính chất quốc tế.

3.Nguyên tắc của dẫn độ

3.1. Nguyên tắc có đi có lại 

Nội dung của nguyên tắc này ghi nhận quốc gia được yêu cầu dẫn độ chỉ được thực hiện yêu cầu dẫn độ theo yêu cầu nếu nhận được bảo đảm từ phía quốc gia yêu cầu dẫn độ trong trường hợp tương tự, quốc gia này chắc chắn sẽ thực hiện dẫn độ tội phạm cho quốc gia đối tác hữu quan. Đây là được ghi nhận trong Luật quốc gia của một số nước , tức luật pháp các nước này yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc có đi có lại trong việc thực hiện tội phạm . Hiện nay, cũng có quan điểm pháp lý của không ít quốc gia cho rằng nên loại bỏ nguyên tắc có đi có lại trong Luật quốc gia như là điều kiện không thể chấp nhận khi giải quyết yêu cầu dẫn độ tội phạm từ một quốc gia khác .

3.2Nguyên tắc định danh tội phạm kép 

Đây là một nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực dẫn độ tội phạm được hầu hết các nước áp dụng .Theo nguyên tắc này , đối tượng bị yêu cầu dẫn độ sẽ được dẫn độ khi hành vi của họ được định danh là hành vi tội phạm theo luật quốc gia của cả nước yêu cầu và nước được yêu cầu dẫn độ . Không đáp ứng được yêu cầu này , các quốc gia có quyền từ chối dẫn độ . 

3.3. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình 

Sự từ chối dẫn độ thường được quy định một cách hết sức rõ ràng trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp hoặc đạo luật khác . Ở Việt Nam, trước khi Luật tương trợ tư pháp năm 2007 ra đời, nguyên tắc này được quy định trong luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 (khoản 2 Điều 4) .Tuy vậy, nguyên tắc này cũng có một số ngoại lệ. Cụ thể tại Hội nghị quốc tế lần thứIII về thống nhất hóa luật quốc tế đã đạt được thỏa thuận nhất trí nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình cho nước khác không áp dụng đối với các cá nhân thực hiện tội phạm quốc tế.

3.4.Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị 

Nguyên tắc này được ghi nhận trong rất nhiều các điều ước quốc tế. Mặc dù có sự nhất trí trong pháp luật quốc gia và sự nhất trí về quan điểm công nhận nguyên tắc này nhưng trong thực tiễn quốc tế không có sự thống nhất về giải thích vấn đề tính chất chính trị . 

Theo nguyên tắc , việc xác định tính chất chính trị của tội phạm diễn ra trong quá trình xét xử tại tòa án và hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách của quốc gia nơi đang có người bị dẫn độ lẩn trốn . Trong thực tiễn dẫn độ tội phạm , nhiều kẻ phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự bỏ trốn ra nước ngoài , yêu cầu cư trú chính trị và họ được chấp nhận cho cư trú . Quốc gia chấp nhận cho những cá nhân này cư trú thì cũng thường không chấp nhận dẫn độ người đó với tư cách là tội phạm chính trị .

4. Các trường hợp không dẫn độ tội phạm.

4.1. Không dẫn độ nếu cá nhân bị dẫn độ sẽ bị kết án đối với tội phạm khác 

Theo đó, cá nhân được yêu cầu dẫn độ sẽ chỉ bị truy tố và xét xử đối với hành vi phạm tội trên cơ sở định danh tội phạm được áp dụng tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội đó, hành vi này đã được cung cấp như là cam kết để được dẫn độ của quốc gia yêu cầu. Quốc gia được yêu cầu hoàn toàn có thể từ chối dẫn độ tội phạm nếu quốc gia yêu cầu tiến hành xét xử đối với tội phạm khác mà cá nhân đó đã thực hiện trong quá khứ (không nằm trong yêu cầu dẫn độ). 

4.2. Không dẫn độ trong trường hợp cá nhân sẽ bị kết án tử hình 

Trong quan hệ hợp tác dẫn độ tội phạm, các quốc gia có thể đưa ra thoả thuận về trường hợp quốc gia được yêu cầu sẽ từ chối dẫn độ nếu như cá nhân được dẫn độ sẽ bị kết án tử hình đối với hành vi vi phạm của mình tại quốc gia yêu cầu hoặc quốc gia đó sẽ chấp nhận dẫn độ nếu nhận được sự cam kết của quốc gia yêu cầu rằng cá nhân đó sẽ không bị lĩnh án tử hình.

4.3. Một số trường hợp khác 

Một số trường hợp không dẫn độ tội phạm khác bao gồm: Không dẫn độ trong trường hợp cá nhân bị xét xử về cùng một tội; Không dẫn độ nếu hành vi phạm tội của cá nhân được thực hiện ở quốc gia này mà quốc gia khác lại đưa ra yêu cầu dẫn độ; Cá nhân không bị dẫn độ nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã chấm dứt; Cá nhân sẽ không bị dẫn độ nếu các hành vi phạm tội được ghi nhận trong đề nghị dẫn độ thuộc sự điều chỉnh đặc biệt của quốc gia được yêu cầu; Một số trường hợp từ chối dẫn độ khi cân nhắc các vấn đề nhân đạo đối với cá nhân bị dẫn độ. 

II.Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa VN và một số quốc gia.

Trong các loại điều ước quốc tế , các điều ước quốc tế song phương luôn tỏ rõ vai trò điều chỉnh cụ thể , chi tiết các quyền và nghĩa vụ giữa hai bên kí kết . Đồng thời thể hiện đượcvị trí của các bên kí kết so với vai trò của họ tại các điều ước quốc tế đa phương . Một số điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc gia khác là : Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam – Hàn Quốc năm 2003( Hiệp định gồm 20 Điều , là hiệp định song phương chuyên biệt đầu tiên về dẫn độ của nhà nước ta) ; Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết ký ngày 10/12/1981, nội dung về hình sự và dẫn độ quy định tại Chương III "Tương trợ tư pháp về hình sự dẫn độ" , gồm 16 điều từ Điều 53 đến Điều 68. Hiệp định này hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa….Ngoài hiệp định chuyên biệt đầu tiên về dẫn độ trên , hiện nay,hai hiệp định song phương mới nhất về dẫn độ tội phạm đã được nước ta đàm phán kí kết Ấn Độ(2013) , Hungari (2013) 

1.Đánh giá 

1.1. ĐÁnh giá chung 

Các điều ước song phương này bao gồm các quy định liên quan đến : Nghĩa vụ dẫn độ tội phạm ; Đối tượng của hoạt động dẫn độ ; Thủ tục dẫn độ và các tài liệu cần thiết ; Quy định bắt khẩn cấp; Quy định dẫn độ đơn giản ; Quy định về giải quyết các trường hợp đặc biệt trong dẫn độ ( nhiều yêu cầu dẫn độ với một cá nhân, hoãn thi hành quyết định dẫn độ , dẫn độ lại , quá cảnh ) ; Quy định về chi phí dẫn độ tội phạm . 

Những quy định về dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và một số quốc gia nêu trên đã thể hiện được sự tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế về về dẫn độ tội phạm (về nguyên tắc dẫn độ tội phạm , các trường hợp từ chối dẫn độ , trình tự, thủ tục  dẫn độ tội phạm …) Phù hợp với các điều kiện của các quốc gia về chế độ kinh tế , chính trị và hệ thống pháp luật , Việt Nam và các quốc gia này đã xây dựng các điều khoản phù hợp nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong hợp tác dẫn độ tội phạm . Tuy nhiên, hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với các quốc gia vẫn còn một số tồn tại  cần khắc phục là: Một là :  số lượng các điều ước song phương được kí kết giữa Việt Nam và các quốc gia khác có liên quan trực tiếp đến dẫn độ tội phạm còn rất  hạn chế. Hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và các quốc gia chủ yếu vẫn dựa trên các hiệp định tương trợ tư pháp mà ít các hiệp định riêng về dẫn độ tội phạm ;Hai là : Phạm vi hợp tác song phương còn hẹp .

• Về nghĩa vụ dẫn độ theo quy định trongcác hiệp định trên thì : 

Thứ nhất , chưa có sự thống nhất trong các quy định của Việt Nam với các nước . Việt Nam kí hiệp định về vấn đề dẫn độ với rất nhiều nước nhưng không phải các quy định này thống nhất ở tất cả các hiệp định đó .  

Thứ hai , quy định về dẫn độ trong các hiệp định này còn có nhiều điểm chưa chặt chẽ, cùng một tội phạm nhưng có quốc gia quy định mức phạt tối thiểu , có quốc gia quy định mức phạt tối đa . Điều này gây khó khăn cho các cơ quan chức năng thực hiện dẫn độ , nếu trong thực tế việc dẫn độ giữa Việt Nam và các nước kí kết gặp phải trường hợp trên

Giới hạn truy cứu trách nhiệm hình sự 

Không phải trong trường hợp nào các nước kí kết hiệp định cũng chấp nhận yêu cầu dẫn độ . Các hiệp định về dẫn độ mà Việt Nam kí với nước ngoài đều quy định : 

+> Không được truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc buộc người bị dẫn độ chấp hành hình phạt về những tội không phải là tội danh yêu cầu trong căn cứ dẫn độ . ; Không được dẫn độ người đó cho nước thứ 3 nếu không có sự đồng ý của nước được yêu cầu dẫn độ ; Các quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của  người bị dẫn độ tránh truờng hợp nước  yêu cầu dẫn độ lợi dụng việc dẫn độ để xét xử đối tượng theo một tội danh khác , phục vụ cho mục đích riêng của mình (chính trị, tôn giáo …)

1.2. Đánh giá các hiệp định 

1.1.1 Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam – Hàn Quốc năm 2003.

Ngày 15/9 /2003  tại Seoul (Hàn Quốc, nhà nước ta đã kí kết hiệp đinh song phương  chuyên biệt đầu tiên về dẫn độ tội phạm với Đại Hàn Dân Quốc (có hiệu lực từ ngày 19/4 /2005 ) Hiệp định này đã thể hiện tương đối đầy đủ chính sách hình sự , cũng như quan điểm của Đảng và nhà nước ta đối với vấn đề dẫn độ trong tình hình hiện nay ; việc kí kết Hiệp định đã đánh dấu một bước tiến mang tính lịch sử và là cơ sở pháp lý quan trọng trong tiến trình tiếp tục đàm phán , kí kết các hiệp định tương trợ tư pháp về dẫn độ song phương giữa Công hòa xã hội chủ nghĩa việt nam với các nước trong khu vực và trên thế giới . Hiệp định gồm 20 điều quy định về các nội dung cơ bản của hoạt động dẫn độ . Bao gồm các nội dung chính sau đây :Hiệp định quy định trường hợp dẫn độ , từ chối dẫn độ , các bên không có nghĩa vụ phải dẫn độ công dân của nước minh và yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản gửi qua đường ngoại giao , trong trường hợp khẩn cấp , một bên có thể yêu cầu bắt khẩn cấp người để dẫn độ trước khi có yêu cầu dẫn độ và các quy định khác… 

Về nghĩa vụ dẫn độ:(điều 1): hai  quốc gia thống nhất dẫn độ cho nhau bất kì người nào đang có mặt trên lãnh thổ của nước mình mà khi có yêu cầu để tiến hành truy tố , xét xử hoặc thi hành án về một tội có thể bị dẫn độ . Ở quy  định đầu tiên của hiệp định đã thể hiện được rõ ràng , đầy đủ trách nhiệm cũng như thiện chí trong nỗ lực chung của hai quốc gia về vấn đề hợp tác quốc tế , đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và hợp tác về dẫn độ nói riêng 

Về các trường hợp từ chối dẫn độ (điều 3) : khi bên được yêu cầu xác định rằng tội phạm  bị  yêu cầu dẫn độ  là tội phạm mang tính chất chính trị hoặc bên được yêu cầu có căn cứ xác đáng cho rằng yêu cầu dẫn độ được đưa ra nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trừng phạt  người bị dẫn độ vì lý do chủng tộc, tôn giáo , quốc tịch , giới tính , chính kiến , quan điểm chính trị.

Về quyền tự  quyết định từ chối dẫn độ (điều 4) : theo hiệp định này , việc dẫn độ có thể bị từ chối khi có một trong các trường hợp sau đây : khi toàn bộ hoặc một phần tội phạm bị yêu cầu dẫn độ tội phạm bị yêu cầu dẫn độ được cho là đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu theo pháp luật của quốc gia đó , khi người bị yêu cầu dẫn độ đã được xử vô tội hoặc bị kết án tại một quốc gia thứ ba về cùng một tội đó , nếu bị kết án thì hình phạt đã được thi hành đầy đủ hoặc không còn hiệu lực nữa. Trong các trường hợp ngoại lệ , xét mức độ nghiêm trọng của tội phạm và lợi ích của quốc gia yêu cầu , quốc gia được yêu cầu thấy rằng việc dẫn độ sẽ không phù hợp với các nguyên tắc nhân đạo do hoàn cảnh cá nhân của người bị yêu cầu dẫn độ và khi tội mà yêu cầu dẫn độ đưa ra là một tội theo Luật quân sự và không phải là tội được quy định trong Luật hình sự thông thường 

Về thủ tục dẫn độ và tài liệu cần thiết : yêu cầu dẫn độ phải được thực hiện bằng văn bản và gửi thông qua con đường ngoại giao . Văn bản yêu cầu dẫn độ phải kèm theo các tài liệu theo quy định của( Điều 7 )Hiệp định có chữ kí hoặc xác nhận của thẩm phán hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền của Bên yêu cầu , được đóng dấu chính thức của cơ quan và gửi kèm theo bản dịch ra tiêng của bên được yêu cầu hoặc tiếng anh

1.1.2 Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết ký ngày 10/12/1981, nội dung về hình sự và dẫn độ quy định tại Chương III "Tương trợ tư pháp về hình sự dẫn độ" , Hiệp định này hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa.

• Văn bản yêu cầu dẫn độ  

Nước kí kết sẽ chỉ chấp nhận dẫn độ tội phạm nếu có đủ căn cứ để chứng minh rằng đối tượng bị dẫn độ tội phạm được nêu trong yêu cầu dẫn độ và tội phạm đó là tội phạm có thể được chấp nhận dẫn độ . Các giấy tờ buộc phải chuyển giao để có thể được chấp nhận dẫn độ theo yêu cầu của các hiệp định bao gồm : 

Lệnh bắt đối tượng (hiện nay , hầu hết các thành viên Interpol đều coi lệnh truy nã của Interpol là căn cứ  hợp pháp ) ;Bản mô tả hoàn cảnh phạm tội ( Bản tóm tắt vụ án ) ; Điều luật của nước kí kết yêu cầu coi hành vi là tội phạm ;thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra (nếu có) ; lý lịch tư pháp của người phạm tội càng chi tiết càng thuận lợi cho việc tìm kiếm , truy bắt đối tượng của nước được yêu cầu ; Nếu yêu cầu dẫn độ để thi hành hình phạt thì còn phải kèm theo chứng thực bản án , xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật . Nếu người bị yêu cầu dẫn độ đã chấp nhận một phần hành vi bản án thì cũng phải thông báo về  điều này .

Những giấy tờ trên là quy định bắt buộc có thể được chấp nhận yêu cầu dẫn độ . Nếu thiếu, nước được yêu cầu có thể đề nghị cung cấp bổ sung tài liệu trong một thời gian hợp lý . Thời hạn này quy định trong các hiệp định là không giống nhau . Như Hiệp định Việt Nam – Liên Bang Nga thời hạn quy định là không quá hai tháng Hết thời hạn trên , nếu các tài liệu không được cung cấp đầy đủ thì nước được yêu cầu dẫn độ có thể chấm dứt thủ tục dẫn độ và trả lại tự do cho người bị bắt giữ .

Trên thực tế ở giai đoạn này các nước kí kết thực hiện yêu cầu dẫn độ của nước ta chưa thực sự tích cực.Các thủ tục dẫn độ, tố tung chưa tuân theo một quy định chính thức nào . Các quy định trong các hiệp định cũng chưa được thực hiện đầy đủ .

Điển hình cho tình trạng này là quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga . Cơ quan đại diện của Bộ công an Việt Nam tại Liên Bang Nga chỉ bảo cáo về Tổng cục Cảnh sát cho tiếp nhận đối tượng , không có người áp giải, không có hồ sơ gì ( Dẫn độ tội phạm , tương trợ pháp ly hình sự vè chuyển giao phạm nhân quốc tế trong phòng chống tội phạm…).Điều này gây khó khăn rất lớn cho phía Việt Nam trong việc xử lý tội phạm vì không đủ căn cứ để khởi tố , bắt, tạm giữ, tạm giam . Khi phía Việt Nam có yêu cầu bổ sung hồ sơ thì không được trả lời hoặc từ chối trả lời . Trong năm 1994 , Cục cảnh sát điều tra – Bộ Công An tiếp nhận và khởi tố 20 bị can từ Nga chuyển về nhưng chỉ truy tố được 11 bị can còn 9 đối tượng phải đình chỉ điều tra do không đủ căn cứ . Ngoài ra thực tế cũng cho thấy hiệp định tương trợ tư pháp của Việt Nam – Liên Bang Nga không được thực hiện đầy đủ . Nhiều trường hợp , phía Nga đã trục xuất về VN một số người Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ Nga trong khi có thể  trao đổi, tiến hành các  thủ tục dẫn độ theo quy định về dẫn độ tội phạm mà hai nước đã thỏa thuận trong hiệp định tương trợ tư pháp . 

Có thể thấy thực tế tình hình dẫn độ tội phạm từ phía nước ngoài cho Việt Nam trong giai đoạn còn nhiều bất cập . Đa số các nước kí kết với Việt Nam đều chưa thực hiện đầy đủ các cam kết đã  thỏa thuận . kết quả là các quy định về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và các nước chưa phát huy được hiệu quả, chưa đạt được mục đích kí kết

• Nhiều nước cùng yêu cầu dẫn độ cùng một đối tượng 

Đây là điều phổ biến trong thực tế đặc biệt với sự phát triển của quan hệ quốc tế  thì những tội phạm xuyên quốc gia ngày càng nhiều . Nước nhận được yêu cầu sẽ phải chấp nhận yêu cầu nào và từ chối yêu cầu nào?. Quyết định điều này , nước được yêu cầu cần phải dựa vào nhiều yếu tố như tính chất hành vi phạm tội, địa điểm phạm tội, và thời điểm các nước yêu cầu để đưa ra quyết định . Đây là một vấn đề quan trọng song trong các hiệp định mà Việt Nam kí kết lại không có sự thống nhất rõ ràng . 

Cụ thể trong hiệp định Việt Nam – Liên Bang Nga chỉ quy đinh chung chung là “ nước kí kết được yêu cầu sẽ xem xét yêu cầu của từng nước để quyết định nên thỏa mãn yêu cầu  nước nào” (Điều 62).Trong khi đó , luật , điều ước quốc tế về dẫn độ của nhiều nước cùng thời điểm đã quy định khá chặt chẽ vấn đề này.Trên thực tế, đa số các nước , nhất là các nước chưa kí hiệp định dẫn độ với nhau thường thỏa thuận về vấn đề này dựa trên mối quan hệ thân thiện giữa các nước , với thiện chí hợp tác và tôn trọng lẫn nhau . 

2. Thực tiễn thực hiện .

Sáu tháng đầu năm 2010, Văn phòng Interpol Việt Nam tiếp nhận, xử lý 246 lượt thông tin liên quan đến gần 20 yêu cầu truy nã tội phạm hình sự, truy nã và dẫn độ tội phạm. Interpol Việt Nam đã phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ trong nước giải quyết tốt một số yêu cầu về tương trợ tư pháp hình sự của cảnh sát các nước trong đó có Hàn Quốc và Liên Bang Nga. Các yêu cầu này chủ yếu liên quan đến những vụ án giết người, bắt cóc tống tiền, tham nhũng, rửa tiền... của các băng nhóm người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài hoặc những vụ án liên quan đến một số cá nhân, công ty ở Việt Nam. Qua kênh hợp tác Interpol, các yêu cầu về tương trợ tư pháp đã được triển khai tích cực, hiệu quả,nhanhchóng. 

Qua trao đổi thông tin, Interpol Việt Nam phát hiện Nam Kuk Hyeon, quốc tịch Hàn Quốc đang bị cảnh sát nước này truy nã về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã trốn vào Việt Nam, nhiều khả năng đang ở Hà Nội. 20 giờ 30 ngày 7-4-2010, Văn phòng Interpol phối hợp Công an Hà Nội bắt giữ Nam Kuk Hyeon tại 120 Nguyễn Chí Thanh, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội. 

Ngày 11/10, TAND Hà Nội mở phiên họp xem xét yêu cầu dẫn độ hai người đàn ông quốc tịch Nga, theo đề nghị của Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga.Cả hai đều phạm vào các tội thông thường, không liên quan đến chính trị, tôn giáo và các hành vi phạm tội không phải nhận án tử hình. Sau khi tiếp nhận yêu cầu dẫn độ của Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga, Bộ Công an đã đề nghị TAND Hà Nội xem xét. Chiếu theo Luật pháp Việt Nam, TAND Hà Nội đã đồng tình với quan điểm của VKSND Hà Nội, đồng ý với yêu cầu dẫn độ của Viện kiểm sát Trung ương Liên bang Nga, căn cứ theo Luật tương trợ tư pháp và pháp lý giữa hai nước.Bộ Công an đã chuyển cho Tổng viện kiểm sát Liên bang Nga 02 yêu cầu dẫn độ;

Trong các điều ước quốc tế song phương,cho đến nay Việt Nam đã kí 12 Hiệp định có các điều khoản về dẫn độ, 4 Hiệp định riêng biệt về dẫn độ với Hàn Quốc, An-giê-ri, Ấn Độ, Australia.Về cơ bản , nội dung tương trợ tư pháp về hình sự của các hiệp định này phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế , tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác giữa Việt Nam với nước ngoài , tuy nhiên bên cạnh đó những quy định của hiệp định cũng chỉ mang tính nguyên tắc hoặc điều chỉnh một số lĩnh vực cụ thể như chuyển giao tài sản , đồ vật liên quan đến vụ án hình sự , ủy thác việc truy cứu TNHS . 

3.  Khó khăn khi thực hiện hoạt động dẫn độ tại Việt Nam

Việt Nam chưa có một văn bản riêng quy định về dẫn độ mà các quy đinh dẫn độ chỉ nằm trong các văn bản phap luật khác ( Luật Tương trợ tư pháp 2007, BLTTHS 2003) việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm ; chế độ chính sách kinh phí, trang thiết bị cho các hoạt động về dẫn độ tội phạm còn rất hạn hẹp ; đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động dẫn độ còn hạn chế về số lượng và chất lượng làm việc .

4. Một số giải pháp

Các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, lấy ý kiến và đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể để bổ sung một số vấn đề còn thiếu trong Luật Tương trợ tư pháp ; tiếp tục đẩy mạnh việc đàm phán, kí kết các điều ước quốc tế trong dẫn độ tội phạm ; về nhân lực , trang thiết bị cần được quan tâm phát triển cải thiện cũng cần tăng cường vấn đề tài chính phục vụ hoạt động dẫn độ  thêm hiệu quả .

III. KẾT LUẬN 

Ngày nay, với sự quốc tế hóa đời sống xã hội , hoạt động giao lưu , hội nhập của các lơi ích quốc gia đến sự hoạt động của tội  phạm ngày càng  tinh vi, phức tạp và liên quan đến nhiều quốc gia hơn. nên sự xuất hiện của quy định về dẫn độ có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế , trừng trị kẻ phạm tội một cách triệt để và hợp pháp 

C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007. 
2. Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân – ThS. Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo trình luật quốc tế, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010. 
3. Lê Mai Anh & Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
4. http:// www. Interpol .int/ public / ICPO
5. Dẫn độ tội phạm, tương trợ pháp lý về hình sự và chuyển giao phạm nhân quốc tế trong phòng chống  tội phạm PGS.TS Nguyễn Xuân Yếm , NXB chính trị quốc gia .
6. Dẫn độ tội phạm Trong luật quốc tế và liên hệ thực tiễn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Lê VĂn Bính , 2012.
7. Hiệp định song phương về dẫn đội tội phạm giữa nước CHXHCN Việt Nam và Đại Hàn Dân quốc.
8. Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết ký ngày 10/12/1981( Hiệp định này hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa.) 

No comments:

Post a Comment