21/08/2014
Phân tích tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác - Điều 201 - Bình luận khoa học luật hình sự tập 4
Điều 201.  Tội vi phạm  quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác 

Định nghĩa: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác là hành vi của người có trách nhiệm trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác mà vi phạm quy định về  quản lý, sử dụng các chất đó.

Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985.


Tuy nhiên, Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai hành vi  khác nhau với hai đối tượng phạm tội khác nhau nên phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội danh cho chính xác. Có thể nói, nếu tách tội phạm này ra từng tội danh cụ thể ta có tới 4 tội danh như sau:


-    Vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện;
-    Vi phạm quy định về quản lý chất ma tuý khác;
-    Vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện;
-    Vi phạm quy định về sử dụng chất ma tuý khác.

Nếu một người thực hiện cả 4 hành vi trên thì định tội danh đầy đủ là “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện và các chất ma túy khác” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng.

Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi quy định tại điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội danh đầy đủ như điều luật đã quy định. Ví dụ: Nguyễn Thị Kim A là dược sỹ được phân công bán thuốc tạ quầy thuốc thuộc bệnh viện M đã không tuân thủ các quy định về bán thuốc nên đã bán cho Phạm Đức V 20 ống thuốc Dolargan.

Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan với nhau, thì phải định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình phạt riêng cho từng hành vi phạm tội rồi tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Lại Văn S là nhân viên Công ty dược phẩm tỉnh T.B. Do không tuân thủ các quy định về quản lý thuốc gây nghiện nên đã mua bán trái phép 2.000 ống thuốc Morphin và vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện, không có chỉ định của thấy thuốc nhưng vẫn dùng 2 ống Morphin tiêm cho ông Vũ Thị H khi chị H kêu đau bụng dẫn đến hậu quả chị H phải đi cấp cứu vì xốc thuốc. Trường hợp này, S có hai hành vi phạm tội khác nhau: hành vi vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện và hành vi vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện.

So với Điều 185n thì Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 không có sửa đổi, bổ sung lớn. Tuy nhiên, Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có một vài sửa đổi bổ sung như:

Nếu khoản 2 Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tình tiết “vì vụ lợi”, khoản 3 và khoản 4 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2...khoản 3”  là yếu tố định khung hình phạt, thì khoản 2, khoản 3 và khoản 4  Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định tình tiết trên là yếu tố định khung hình phạt nữa.

Về hình phạt chính, Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 có một sô sửa đổi bổ sung như:

Nếu khoản 1 Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng và hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm, thì khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng và hình phạt tù từ một năm đến năm năm; 

Nếu khoản 2 Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985 quy định bị phạt tù  bảy năm đến mười lăm năm, thì khoản 2  Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm tù;

Nếu khoản 3 Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985 quy định khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm, thì khoản 3 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm;

Đối với hình phạt bổ sung cũng có những sửa đổi như:

Nếu Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” thì khoản 5 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định: “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” , chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự.

Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của Điều 201 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Ngoài những điều kiện trên, người phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác phải là người có trách nhiệm trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác. Nếu không phải là những người này thì không phải là chủ thể của tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác. Có thể nói chủ thể của tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác là chủ thể đặc biệt.

Người có trách nhiệm là người được giao hoặc coi như được giao một việc phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả. Trách nhiệm còn bao gồm sự ràng buộc đối với lời nói hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai thì phải chịu hậu quả.

Như vậy, người có trách nhiệm trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhưng cũng có thể chỉ là người được giao thực hiện các việc trên.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Khách thể của tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” là chế độ quản lý của Nhà nước về việc quản lý, sử dụng chất gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác. Chế độ quản lý này được cụ thể hoá bằng các văn bản của các bộ, các ngành như: Chỉ thị số 09/BYT-CT của Bộ y tế ngày 11-6-1993 về việc tăng cường quản lý thuốc gây nghiện; Quyết định số 939/BYT-QĐ, ngày 6-6-1995 của Bộ y tế về việc ban hành quy chế quản lý thuốc gây nghiện và danh mục thuốc gây nghiện v.v...

Đối tượng tác động của tội phạm này là thuốc gây nghiện và các chất ma tuý khác.

Thuốc gây nghiện là những chất tự nhiên hay tổng hợp, bán tổng hợp được dùng trong y học (phòng bệnh, chữa bệnh, nghên cứu khoa học) nhưng dễ bị lạm dụng vào mục đích y học. Việc lạm dụng có thể dẫn tới nghiện.43

Đối với các chất ma tuý khác là ngoài thuốc gây nghiện và chỉ cần căn cứ vào danh mục quy định của Công ước quốc tế  1961, 1971, 1988 về ma tuý mà Việt Nam đã tham gia để xác định.

Nói chung, khi xác định thuốc gây nghiện, cũng như các chất ma tuý khác các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải trưng cầu giám định.

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan.

Theo điều văn của điều luật thì người phạm tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác” có thể thực hiện một hoặc cả hai hành vi, đó là: Vi phạm quy định về quản lý và vi phạm quy định về sử dụng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quy định về quản lý và quy định về sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác không xác định ranh giới, những quy định về sử dụng cũng chính là quy định về quản lý. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan tiến hành tố tụng xác định người phạm tội vi phạm quy định nào để định tội cho chính xác.

Quy định về quản lý trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác là những quy định của Nhà nước của các cơ quan chức năng như: Bộ y tế, Bộ Thương mại, Bộ Công an, Tổng cục Hải quan... Nếu người có trách nhiệm do không làm hết trách nhiệm để thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước thì bị coi là đã vi phạm các quy định về quản lý

Hành vi vi phạm quy định quản lý có thể trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chỉ những hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác mới là hành vi phạm tội. Trong từng lĩnh vực cụ thể cũng có những hành vi vi phạm nhưng cũng không phải là hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác, mà chỉ những hành vi có liên quan trực tiếp đến việc quản lý thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác. Ví dụ: Một thủ kho dược, do không tuân thủ các quy định về cấp phát thuốc nên đã cấp phát thuốc gây nghiện cho người không được bác sĩ chỉ định điều trị loại thuốc đó mới là hành vi vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện. Nếu do bất cẩn, để một lượng thuốc gây nghiện hư hỏng thì không phải là hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện. Trong từng lĩnh vực, hành vi vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác cũng rất đa dạng, do dó khi xác định hành vi vi phạm cũng cần nghiên cứu, tham khảo các quy định của Nhà nước về các lĩnh vực đó. Ví dụ: Hành vi vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu khác với trong lĩnh vực vận chuyển chuyển, bảo quản; trong lĩnh vực phân phối khác với lĩnh vực mua bán. v.v...

Việc xác định hành vi của người có trách nhiệm đã vi phạm về chế độ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác hay chưa cũng phải căn cứ vào Quy chế quản lý thuốc gây nghiện (ban hành theo Quyết định số 939/BYT_QD ngày 6-6-1995 của Bộ trưởng Bộ Y tế). Ngoài ra còn phải căn cứ vào các quy định của các bộ các ngành khác về việc quản lý thuốc gây nghiện và các chất ma tuý khác.

Khi xác định hành vi vi phạm chế độ quản lý thuốc gây nghiện hoặc cấc chất ma tuý khác cần phân biệt với hành vi vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý quy đinh tại Điều 194 Bộ luật hình sự. Nếu người có trách nhiệm trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác mà lợi dụng nhiệm vụ được giao mà xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác thì tuỳ trường hợp sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý với tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. 

Quy định về sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác là những quy định của Nhà nước, của các cơ quan chức năng mà chủ yếu là của Bộ y tế về việc sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác trong lĩnh vực chữa bệnh, nghiên cứu khoa học.

Do đặc tính của thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người, nên việc sử dụng phải hết sức thận trọng và phải tuân theo những quy định của cơ Nhà nước có thẩm quyền (chủ yếu là Bộ y tế đối với việc chữa bệnh).

Khi xác định hành vi vi phạm các quy định về sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác cần phân biệt với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

Nếu người có trách nhiệm trong việc sử dụng chất ma tuý mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma tuý thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự.

Nếu người có trách nhiệm trong việc sử dụng chất ma tuý mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép chất ma tuý thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 199 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý chỉ cấu thành tội phạm khi có đủ các dấu hiệu của tội sử dụng trái phép chất ma tuý.

b. Hậu quả

Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác là những thiệt hại cho xã hội mà chủ yếu là làm cho chế độ quản lý của Nhà nước về lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ dẫn đến những thiệt hại khác về tính mạng, sức khoẻ, tài sản.

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác thực hiện hành vi phạm tội của mình là do vô ý, tức là: Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó44

Có thể nói, tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác chính là tội thiếu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác.

Hiện nay trong một số sách báo khi phân tích các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác đã cho rằng tội phạm này có trường hợp được thực hiện do cố ý.45 Nếu cho rằng, tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác được thực hiện do cố ý thì không thể phân biệt sự khác nhau giữa hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý với hành vi vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác hoặc giữa hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý với hành vi vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt

Là trường hợp vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.

So với khoản 1 Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1999.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, phạm tội do vô ý, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù ( dưới một năm tù), nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự

a) Có tổ chức;

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác. Tuy nhiên chỉ đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác được thực hiện do cố ý mới có phạm tội có tổ chức.

Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Những người đồng phạm khác như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức cũng tương tự với trường hợp phạm tội có tổ chức khác, chỉ khác ở chỗ: hành vi phạm tội có tổ chức là hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác. Tuy nhiên, người thực hành trong vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác là người trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.

Phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác có tổ chức, có thể có tất cả những người đồng phạm, nhưng cũng có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành. Nhưng nhất thiết phải có người thực hành và người tổ chức, nếu thiếu một trong hai người này thì không bị coi là phạm tội có tổ chức.

b. Phạm tội nhiều lần

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác.

Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nhiều lần là đã có tất cả hai lần vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội cưỡng bức hoặc lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời trong số các lần vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu có hai lần vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác trong đó có một lần chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần

Nếu có hai lần vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác, trong đó đã có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật thì không coi là phạm tội nhiều lần, còn nếu có từ ba, bốn, năm... lần vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác trong đó có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật, thì vẫn coi là phạm tội nhiều lần vì ít nhất cũng còn hai lần chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Do điều luật quy định tới 4 hành vi phạm tội khác nhau nên khi áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối với tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác cần chú ý:

Nếu có hai lần vi phạm, trong đó có một lần vi phạm quy định về quản lý và một lần vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác thì không phải là phạm tội nhiều lần mà người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật với tội danh là: “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác”;

Nếu có hai lần vi phạm, trong đó có một lần vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện và một lần vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện thì cũng không phải là phạm tội nhiều lần mà người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật với tội danh là: “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện”;

Nếu có hai lần vi phạm, trong đó có một lần vi phạm quy định về quản lý chất ma tuý khác và một lần vi phạm quy định về sử dụng chất ma tuý khác thì cũng không phải là phạm tội nhiều lần mà người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật với tội danh là: “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng chất ma tuý khác”;

Nếu có hai lần vi phạm, trong đó có một lần vi phạm quy định về quản lý thuốc gây nghiện và một lần vi phạm quy định về quản lý chất ma tuý khác thì cũng là phạm tội nhiều lần;

Nếu có hai lần vi phạm, trong đó có một lần vi phạm quy định về sử dụng thuốc gây nghiện và một lần vi phạm về sử dụng chất ma tuý khác thì cũng là phạm tội nhiều lần.

c. Gây hậu quả nghiêm trọng

Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội đã gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc những thiệt hại khác cho xã hội.

Do điều luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và những thiệt hại khác là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như đối với các tội phạm khác về ma tuý nên có thể căn cứ vào quy định của các tội phạm có quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt để xác định hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác cũng không chỉ căn cứ vào thiệt hại về thể chất, vật chất mà chủ yếu phải xác định những thiệt hại về chê độ quản lý và sử dụng thuốc gây nghiện và các chất ma tuý khác của Nhà nước.

Cho đến nay, chưa có hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây ra, mặc dù đối với các tội phạm về ma tuý các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương đã có nhiều văn bản hướng dẫn, nhưng tình tiết này đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Mặt khác thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào xảy ra cần phải xác định hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên căn cứ vào các quy định của pháp luật, đối chiếu với các tình tiết khác quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự, theo chúng tôi có thể coi các thiệt sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gay ra:

- Gây tổn hại cho sức khoẻ cho người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

- Do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nên dẫn đến người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý.

Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất như ảnh hưởng đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang, bất bình trong nhân dân. v.v... Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 các Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999.

Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới năm năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo; trường hợp có đặc biệt có thể chuyển sang hình phạt tiền, nếu chuyển sang hình phạt tiền thì không được phạt dưới năm triệu đồng, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt mức cao của khung hình phạt ( mười hai năm tù).

3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật hình sự

Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là: “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”.

Cũng như trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, đến nay chưa có hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây ra, thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào xảy ra cần phải xác định hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Tuy nhiên căn cứ vào các quy định của pháp luật, đối chiếu với các tình tiết khác quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự, theo chúng tôi có thể coi các thiệt sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gay ra:

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61 trở lên hoặc dẫn đến chết người;

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều mà tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người từ 61% trở  lên;

- Do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nên dẫn đến người chưa thành niên dưới 13 tuổi sử dụng trái phép chất ma tuý.

- Do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nên dẫn đến nhiều người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý.

Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ, còn những thiệt hại phi vật chất như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. v.v...

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 201 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc nghiêm trọng. So với khoản 3 các Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999.

Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt mức cao của khung hình phạt ( hai mươi năm tù).

4. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 200 Bộ luật hình sự

Khoản 4 của điều luật cũng chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là: “ Gây hậu quả đăc biệt nghiêm trọng”.

Cho đến nay, cũng chưa có hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây ra, thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào xảy ra cần phải xác định hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên căn cứ vào các quy định của pháp luật, đối chiếu với các tình tiết khác quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự, theo chúng tôi có thể coi các thiệt sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác gay ra:

- Làm chết hai người;

- Làm chết một người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

- Làm chết một người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các người cộng lại từ 61% trở lên;

- Do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nên dẫn đến nhiều người chưa thành niên dưới 13 tuổi sử dụng trái phép chất ma tuý.

- Do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác nên dẫn đến rất nhiều người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý ( từ 5 người trở lên)

Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ, còn những thiệt hại phi vật chất như ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.v.v...

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 201 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân. là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 các Điều 185n Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1999.

Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới hai mươi năm tù, nhưng không được dưới mười hai năm, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ, thì có thể bị phạt tù chung thân.

5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội

Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

So với Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 5 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức phạt tiền quy định tại Điều 185(o) từ mười triệu đến một trăm triệu đồng, còn mức phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 201 là từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng; hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định Điều 185(o) quy định từ hai năm đến năm năm, còn khoản 5 Điều 201 quy định từ một năm đến năm năm, đồng thời việc áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại Điều 185(o) là bắt buộc, còn khoản 5 Điều 201 việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể áp dụng hoặc không áp dụng, Vì vậy, đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý, thì được áp dụng khoản 5 Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

---
Chú giải
43  Điều 1 Quy chế quản lý thuốc gây nghiện (ban hành theo Quyết định số 939/BYT_QD ngày 6-6-1995 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
44 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận phần chung Bộ luật hình sự” NXB T.p Hồ Chí Minh năm 2000. Tr. 71 (vô ý phạm tội )
45 Xem Trần Văn Luyện “trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma tuý” NXB Công an nhân dân. Năm 1998. tr 111. 

No comments:

Post a Comment