Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư… Vấn đề lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại phải được các bên cân nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có quyết định hợp lý. Trong đó, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Đó là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành. Để hiểu rõ thêm về vấn đề này, em xin chọn phân tích đề tài: “Bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại”.
Nội Dung
I- Khái quát chung về thoả thuận trọng tài thương mại
1. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
a) Khái niệm
Thỏa thuận trọng tài thương mại là một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên kí kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
b) Đặc điểm
*) Đặc điểm về nội dung của thỏa thuận trọng tài:
Là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật về nội dung.
*) Đặc điểm về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Được thể hiện dưới hình thức văn bản:
Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương lai. Sự thỏa thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa hai bên.
Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hay còn gọi là thỏa thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra giải quyết theo phương thức trọng tài.
*) Đặc điểm về mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng chính
Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị.
*) Đặc điểm về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
- Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài: Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại.
- Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài, ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự tự nguyện thỏa thuận. Đó là khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho phép giải quyết loại tranh chấp đó thông qua hình thức trọng tài.
- Điều kiện về năng lực chủ thể: Có thể nói năng lực chủ thể là vấn đề đầu tiên mà các bên cần quan tâm khi tiến hành đàm phán thỏa thuận trọng tài vì nếu một bên không có năng lực chủ thể sẽ khiến điều khoản này vô hiệu.
- Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể: Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu nó không phải là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể hay là sự áp đặt ý chí của bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
- Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp.
- Thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên.
- Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu từ khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho tới khi phán quyết cuối cùng được đưa ra.
Từ phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng: Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng. Nhưng trên thực tế hiện nay thỏa thuận trọng tài vẫn chưa phát huy được hết vai trò to lớn của mình, vẫn còn nhiều những vướng mắc liên quan tới thỏa thuận trọng tài làm cản trở quá trình tố tụng trọng tài. Vậy, phải làm thế nào để thỏa thuận trọng tài thực sự phát huy được hết vai trò của mình, thực sự trở thành bước khởi đầu hoàn hảo cho tố tụng trọng tài. Câu hỏi trên chỉ có thể được trả lời khi ta nghiên cứu thỏa thuận trọng tài từ hai góc độ là pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó tại Việt Nam.
II- Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng thỏa thuận trọng tài trên thực tế ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
1.1 Hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
1. Quyết định 264/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam.
2. Nghị định 16/NĐ-CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế.
3. Quyết định 114/TTg ngày 16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
4. Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết định của Trọng tài nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước đã được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
5. Bộ luật Dân sự năm 2005 được quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực ngày 01/06/02005.
6. Bộ luật tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 có hiệu lực từ ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sáu: Chương XXI thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
trọng tài nước ngoài).
7. Luật thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI ngày 14/05/2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006, quy định việc giải quyết tranh chấp với hình thức trọng tài tại Điều 317.
8. Pháp lệnh Thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/01/2004 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004, trong đó, có quy định về tổ chức thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam và quyết định của Trọng tài Thương mại Việt Nam.
9. Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 được Thường vụ Quốc hội thông khóa XI thông qua ngày 25/02/2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2003.
10. Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 31/07/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003.
11. Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
12. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Trọng tài Thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010.
1.2. Những quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận trọng tài thương mại
Các quy định về Thỏa thuận trọng tài được quy định tại Chương I và II của Luật trọng tài thương mại 2010. Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã làm rõ được khái niệm hình thức và giá trị của Thỏa thuận trọng tài cũng như tính độc lập của điều khoản trọng tài so với hợp đồng. Về cơ bản, những quy định này tương thích với các quy định của Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế của UNCITRAL (Luật Mẫu) và pháp luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, Luật trọng tài thương mại năm 2010 vẫn chưa bao quát được một cách đầy đủ về tính đồng bộ và hệ thống các quy định về thỏa thuận trọng tài.
a) Quy định về vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng
Trong phần định nghĩa về Thỏa thuận trọng tài: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh” (Khoản 2 điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010) chưa làm rõ được vấn đề tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng có được giải quyết bằng Trọng tài hay không. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài cũng như việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Như chúng ta đều biết, quan hệ thương mại rất đa dạng và phong phú. Nhiều quan hệ có thể xác định bằng hợp đồng cụ thể được ký kết giữa các bên. Tuy nhiên, cũng có nhiều tranh chấp không phát sinh từ quan hệ hợp đồng, ví dụ tranh chấp phát sinh do việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như tàu đâm va cầu cảng, tàu đâm va nhau v.v…
Hiểu theo định nghĩa trên thì các tranh chấp không có quan hệ hợp đồng cũng có thể được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài. Do đó, để hạn chế tối đa những rủi ro trong việc áp dụng luật, Pháp lệnh cần cụ thể hóa việc xác định thẩm quyền của Trọng tài tương thích với Luật Mẫu. “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra Trọng tài mọi tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng …” (Điều 7 Khoản 1). Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài cũng quy định rất rõ về vấn đề này “Mỗi quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài” (Điều II). Luật Trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới như Luật Trọng tài Anh, Luật Trọng tài Đức, Luật Trọng tài Hàn Quốc, Luật Trọng tài Nga, Luật Trọng tài Nhật Bản v.v… đều quy định các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng đều được giải quyết bằng Trọng tài.
b) Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Điều 16 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định hình thức thỏa thuận trọng tài: “1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”.
Cũng như quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 xác định tiêu chí hình thức bắt buộc của thỏa thuận trọng tài là phải được lập bằng văn bản. Tuy nhiên, phạm vi khái niệm “văn bản” đã rộng hơn rất nhiều so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Pháp lệnh quy định hình thức thỏa thuận trọng tài gồm: “Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản” (Điều 9 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003).
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã quy định hình thức thỏa thuận trọng tài có xu hướng ngày càng tương thích hơn với Luật Mẫu và Luật trọng tài của các nước. Luật Mẫu cũng có quy định bắt buộc Thỏa thuận trọng tài phải được bằng văn bản. Thỏa thuận được coi là bằng văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, telex, điện tín hoặc các hình thức trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phản đối. Việc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn bản ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên Thỏa thuận trọng tài với điều kiện hợp đồng này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó là một bộ phận của hợp đồng này. Luật Trọng tài Anh còn tiến một bước rất xa trong việc quy định phạm vi thỏa thuận bằng văn bản. Theo đó, có một thỏa thuận bằng văn bản khi: thỏa thuận được lập bằng văn bản (cho dù nó có được các bên ký hay không); thỏa thuận được lập thông qua việc trao đổi các thông tin bằng văn bản, hoặc thỏa thuận được chứng minh bằng văn bản. Thậm chí, trong quá trình tố tụng trọng tài hoặc tố tụng tư pháp,nếu nếu một thoả thuận không được xác lập bằng văn bản nhưng được một bên viện dẫn và bên kia không phủ nhận thì việc trao đổi đó tạo thành một thỏa thuận bằng văn bản có giá trị pháp lý .
c) Vấn đề Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Theo quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”.
So với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định phạm vi Thỏa thuận trọng tài vô hiệu vẫn còn rộng nhưng đã hợp lý hơn. Luật trọng tài thương mại hiện hành đã bổ sung thêm một số quy định mới về trường hợp Thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
Một là, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này. Điều 2 Luật trọng tài thương mại quy định Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài”.
Như vậy, Việc quy định thỏa thuận Trọng tài vô hiệu khi thỏa thuận trọng tài không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Quy định này là hợp lý và phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài quốc tế.
Hai là, trường hợp thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung không bị coi là vô hiệu nữa. Nguyên tắc giải quyết bằng trọng tài là phải dựa trên ý chí của các bên. Vì vậy, bằng việc dẫn chiếu đến Trọng tài, các bên đã có chủ ý và thể hiện ý định đưa ra giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các bên đã diễn đạt chưa chuẩn xác tên một tổ chức trọng tài cụ thể. Do đó, trong mọi trường hợp, khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài, pháp luật trọng tài các nước đều ưu tiên giải quyết bằng Trọng tài. Luật Mẫu và luật trọng tài các nước không đưa ra tiêu chí phải xác định tên tổ chức trọng tài cụ thể và không có quy định về trường hợp thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu nếu không chỉ rõ tên tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp.
Bên cạnh đó, hầu hết các tổ chức trọng tài uy tín trên thế giới đều không đưa tên tổ chức mà chủ yếu là đưa Quy tắc tố tụng của mình vào điều khoản trọng tài mẫu. Ví dụ, Tòa án Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đưa ra điều khoản trọng tài mẫu như sau: “Tất cả các tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng này được giải quyết chung thẩm theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương mại quốc tế bởi một hoặc nhiều trọng tài viên được chỉ định theo Quy tắc nêu trên”.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam cho thấy, số lượng các Thỏa thuận trọng tài không diễn đạt chính xác tên gọi của tổ chức trọng tài chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Việc Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không yêu cầu các bên phải thỏa thuận bổ sung để xác định tên tổ chức trọng tài cụ thể là hợp lý, vì khi tranh chấp đã phát sinh thì các bên rất khó có cơ hội để thỏa thuận lại, đặc biệt là bên vi phạm hợp đồng sẽ tìm mọi cách để lẩn tránh nghĩa vụ của mình.
Ba là, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Nếu so với quy định thỏa thuận trọng tài trái với quy định của pháp luật thì quy định này rõ ràng là đã mở rộng phạm vi thỏa thuận trọng tài. Chỉ những thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật mới bị coi là vô hiệu.
d) Vấn đề thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được
Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã bổ sung thêm một quy định quan trọng là vấn đề “Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được” mà Pháp lệnh trọng tài năm 2003 còn bỏ sót. Theo điều Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Như vậy, Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã giải quyết được cả hai vấn đề: thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Do đó, các vụ tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết một cách ổn thỏa.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đã bỏ sót một quy định rất cơ bản là vấn đề “Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được”. Trong thực tế, có rất nhiều điều khoản trọng tài có hiệu lực theo quy định của pháp luật, đó là: Phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài; người ký Thỏa thuận trọng tài có đủ thẩm quyền, đủ năng lực hành vi; quy định rõ đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền nhưng vẫn không thể giải quyết được bằng Trọng tài. Ví dụ, có một số điều khoản trọng tài quy định như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết trước tiên tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam sau đó sẽ được giải quyết chung thẩm tại Tòa án”; hoặc “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế”; hoặc “Tranh chấp nếu có sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC” v.v… Theo quy định của Pháp lệnh, các điều khoản trọng tài nêu trên không thuộc trường hợp vô hiệu vì đã chỉ rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, những điều khoản trọng tài này không thể thực hiện được trong thực tiễn bởi thỏa thuận có sự mâu thuẫn. Vậy vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào? Các bên sẽ đưa tranh chấp ra cơ quan nào để giải quyết? Nếu đưa ra Tòa án thì Tòa án sẽ từ chối. Điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện ra Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Như vậy, Pháp lệnh mới chỉ giải quyết vấn đề Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, chưa giải quyết vấn đề Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Do đó, sẽ có nhiều vụ tranh chấp phát sinh nhưng không được cơ quan nào giải quyết. Vấn đề này nếu không được điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra hậu quả xấu làm giảm tính hấp dẫn của Trọng tài.
Luật Mẫu và Pháp luật trọng tài các nước đều quy định rất rõ về vấn đề này. Khoản 1 Điều 8 Luật Mẫu quy định “Tòa án, nơi có khiếu kiện về vấn đề đối tượng của thỏa thuận được đưa ra, nếu một bên yêu cầu không muộn hơn thời gian khi nộp bản giải trình đầu tiên của mình về nội dung tranh chấp, sẽ chuyển tranh chấp ra trọng tài trừ khi thấy rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu, không có hiệu lực hoặc không thể thực hiện được”. Điều II Công ước New York quy định “Tòa án của một quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà vấn đề đó các bên đã có thỏa thuận theo nội dung của điều này, sẽ theo yêu cầu của một bên, đưa các bên ra trọng tài , trừ khi Tòa án thấy rằng thỏa thuận nói trên không có hiệu lực hoặc không thể thực hiện được”. Luật Trọng tài các nước đều có quy định tương tự về vấn đề này.
e) Nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền” chưa được ghi nhận tuyệt đối
Điều 19 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Như vậy, Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã đưa ra một nguyên tắc rất quan trọng, đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Luật Mẫu và trong hầu hết luật trọng tài các nước. Khác với tòa án vốn có thẩm quyền đương nhiên để giải quyết tranh chấp nếu các bên không có thỏa thuận khác, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, với việc lựa chọn trọng tài, các bên đã loại trừ sự can thiệp của tòa án. Do đó, việc xác định điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì đây là cơ sở duy nhất để Hội đồng Trọng tài được thành lập xem xét và quyết định hợp đồng có hiệu lực hay không. Pháp luật trọng tài quốc tế coi nguyên tắc này là “thẩm quyền của thẩm quyền” - “competence of competence” tức là Hội đồng Trọng tài có quyền xem xét, xác định thẩm quyền của chính mình khi có khiếu nại của các bên.
Nguyên tắc này cũng được thể hiện trong Điều 43 Luật trọng tài thương mại năm 2010: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết”.
Mục đích của nguyên tắc này chính là đảm bảo các tranh chấp đều được xem xét và giải quyết. Nếu công nhận hợp đồng vô hiệu mặc nhiên kéo theo điều khoản trọng tài vô hiệu và dẫn đến Hội đồng Trọng tài không thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì vụ tranh chấp sẽ không được giải quyết. Tuy nhiên, quy định trong Luật trọng tài thương mại năm 2010 vẫn chưa thể hiện được một cách tuyệt đối nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền” giống như quy định trong Luật Mẫu, theo đó “Hội đồng trọng tài có thể quyết định trong phạm vi thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Vì mục đích này, một điều khoản trọng tài là một phần của hợp đồng sẽ được coi là một thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của hội đồng trọng tài về việc hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo” (Điều 16 Khoản 1 Luật Mẫu).
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam thông qua một số vụ việc điển hình
Vụ việc thứ nhất: Một công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản có trụ sở tại Bà Rịa - Vũng Tàu ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Hai bên đã thỏa thuận và đưa ra điều khoản trọng tài: “Nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết”. Khi tranh chấp xảy ra, một bên đã gửi đơn khiếu kiện lên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) yêu cầu giải quyết tranh chấp. Nhưng VIAC đã phải từ chối giải quyết tranh chấp vì trong điều khoản trọng tài việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, tên của tổ chức trọng tài đã không được thể hiện cụ thể mà chỉ ghi nhận một cách chung chung.
Vụ việc thứ hai: Vụ việc điển hình thứ hai liên quan tới thỏa thuận trọng tài đó là vụ việc giữa Công ty Dâu tơ tằm Việt Nam (Viseri) và Công ty Kyunggi Silk (Hàn Quốc). Hai công ty ký đã hợp đồng trao đổi hàng hóa, nhưng khi ký hợp đồng,Viseri do không hiểu luật và đánh giá đúng tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài nên đã không chú trọng đến việc: chọn luật, chọn trọng tài, chọn nơi giải quyết tranh chấp (nếu xảy ra).
Vụ việc thứ ba: Ký hợp đồng mua vải giữa nguyên đơn (Người mua Việt Nam) với Bị đơn (Người bán Trung Quốc) để mua hai loại vải.
2.2. Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng các quy định của thỏa thuận trọng tài
- Các bên chưa có một thói quen đặt ra câu hỏi là cần lựa chọn trọng tài hay tòa án khi ký kết hợp đồng và tại sao lại như vậy? Do đó, khi có tranh tranh chấp phát sinh trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam luôn ở tình thế bị động, không thể lựa chọn được cho mình một phương án giải quyết tranh chấp tối ưu nhất.
- Các bên trong quan hệ hợp đồng đã có ý thức lựa chọn trọng tài làm phương án giải quyết tranh chấp, nhưng họ không hiểu rõ, hiểu chính xác về bản chất của trọng tài, về tổ chức trọng tài mà mình lựa chọn. Các bên còn khá chủ quan trong việc thỏa thuận lựa chọn trọng tài, chọn quy tắc, chọn địa điểm trọng tài và luật áp dụng vì quan niệm rằng tranh chấp sẽ không xảy ra, mà nếu xảy ra thì vẫn có thể thương lượng tiếp. Minh chứng cụ thể cho trường hợp này là bài học đắt giá của công ty Dâu tơ tằm Việt Nam.
- Các bên trong quan hệ hợp đồng đã lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp, nhưng trong điều khoản trọng tài họ chỉ quy định một cách chung chung hoặc không chính xác về tên của tổ chức trọng tài, hoặc có sự mâu thuẫn giữa tổ chức trọng tài với quy tắc tố tụng hoặc đồng thời lựa chọn cả tòa án và trọng tài v.v... Minh chứng cụ thể cho trường hợp này là vụ việc của công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản có trụ sở tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Thực tế, những thỏa thuận trọng tài mang những khiếm khuyết, không cho phép triển khai tố tụng như trên được biết đến dưới tên gọi “Thỏa thuận trọng tài khuyết tật”. Qua quá trình nghiên cứu thực tiễn ta có thể phân nhóm các “Thỏa thuận trọng tài khuyết tật” như sau:
+) Thỏa thuận trọng tài “Trắng”: Là thỏa thuận trọng tài chỉ nhằm bày tỏ ý chí của các bên trong việc đưa tranh chấp ra trọng tài, mà không chỉ rõ việc chỉ định trọng tài viên hoặc không dẫn chiếu tới một quy tắc trọng tài hoặc một tổ chức trọng tài nào. Thỏa thuận trọng tài được nêu trong vụ việc thứ nhất (Trong phần 2.1) được coi là một thỏa thuận trọng tài trắng.
+) Thỏa thuận trọng tài lựa chọn một tổ chức trọng tài không tồn tại hay chỉ định không chính xác tổ chức trọng tài: Thực tế các bên có thể do sơ ý hoặc thiếu thông tin đã chỉ định sai tổ chức trọng tài, cụ thể là điều khoản trọng tài đưa đến một tổ chức trọng tài không hề tồn tại trên thực tế.
+) Thỏa thuận trọng tài lựa chọn đồng thời tòa án và trọng tài: Bản chất của thỏa thuận trọng tài là sự loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, có không ít trường hợp các bên thỏa thuận đồng thời chọn cả Tòa án và Trọng tài giải quyết tranh chấp, ví dụ: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và Tòa án có thẩm quyền”.
+) Thỏa thuận trọng tài xác định một tổ chức trọng tài nhưng lại lựa chọn quy tắc tố tụng của một Trung tâm Trọng tài khác: Là trường hợp các bên lựa chọn tổ chức trọng tài thường trực nhưng không chọn quy tắc tố tụng của tổ chức này mà lại lựa chọn quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài khác: “Tranh chấp phát sinh giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam theo quy tắc tố tụng của Ủy ban Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)”.
- Hai bên chọn tổ chức trọng tài để xét xử nhưng lại thỏa thuận phán quyết trọng tài không được coi là chung thẩm: Điều này trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng như Luật trọng tài quốc tế: “Mọi tranh chấp, bất đồng có thể phát sinh từ trọng tài liên quan tới hợp đồng của các bên theo đây, sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài Việt Nam theo Quy tắc trọng tài của VCCI, Việt Nam. Phán quyết của trọng tài sẽ là chung thẩm và ràng buộc các bên liên quan, và việc xét phán quyết đó có thể bị đưa ra bất cứ tòa án nào hoặc ủy ban có thẩm quyền xét xử việc đó”.
- Người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền: Là trường hợp thường liên quan tới việc người ký kết thỏa thuận trọng tài được ủy quyền. Trường hợp người ký kết không đươc ủy quyền trực tiếp trong hợp đồng này nhưng được ủy quyền ký kết hợp đồng liên quan tới hợp đồng này; hoặc người ký kết chỉ được ủy quyền ký kết hợp đồng thương mại nhưng khi xảy ra tranh chấp họ lại tiếp tục ký kết thỏa thuận trọng tài mặc dù không được ủy quyền.
Những thỏa thuận này có thể bị vô hiệu theo Khoản 2, Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 hoặc vẫn có thể có hiệu lực nhưng cần có sự can thiệp của Tòa án để xem xét tính hiệu lực. Ví dụ điển hình là vụ việc gữa công ty TNHH quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và công ty Kumgang.
3. Điểm mới về pháp luật thoả thuận trọng tài ở Việt Nam theo Luật Trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
3.1. Về định nghĩa thỏa thuận trọng tài
Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên theo Điều 3 Luật TTTM “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên nhằm giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh giữa các bên”. Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.
3.2. Về hình thức của thoả thuận trọng tài
Điều 16 - Luật trọng tài ra đời đã khắc phục những điểm hạn chế quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, mở rộng hình thức thỏa thuận trọng tài, khắc phục được sự khác biệt về các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài trong pháp luật trọng tài của Việt nam và pháp luật Trọng tài thương mại quốc tế cũng như các nước trên thế giới.
3.3. Về thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết
Khắc phục những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 về quy dịnh thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết, Luật trọng tài thương mại đã loại bỏ quy định trên và điều này là phù hợp bởi vì nguyên tắc giải quyết bằng trọng tài là phải dựa trên ý chí của các bên.
3.4. Về thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không thể thực hiện được
Luật trọng tài thương mại tại Điều 6 đã quy định “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Luật Trọng tài thương mại đã giải quyết được vấn đề thỏa thuận trọng tài khong thể thực hiện được cũng như Luật Mẫu và pháp luật trọng tài các nước đều quy định rõ về vấn đề này. Việc pháp luật trọng tài ghi nhận đối với trường hợp này một mặt tạo điều kiện cho trọng tài được phát triển vì Tòa án sẽ không can thiệp vào vụ việc nếu như các bên đã có thỏa thuận trọng tài, mặt khác còn tạo điều kiện cho việc hỗ trợ nếu như thỏa thuận trọng tài đó có sai sót khiến cho thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thỏa thuận trọng tài trong thực tiễn ở Việt Nam
Qua quá trình tìm hiểu về thực tiễn ký kết các thỏa thuận trọng tài ta có thể thấy rằng điều khoản trọng tài là điều khoản luôn bị các bên tham gia hợp đồng coi nhẹ, không để ý hoặc nếu có thì chỉ xem xét qua loa vì tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên thường không dự liệu hay không nghĩ đến tranh chấp sẽ phát sinh cũng như cách thức giải quyết tranh chấp đó. Điều này dẫn tới hệ quả xấu là khi có tranh chấp, bên bị vi phạm sẽ gặp phải những khó khăn, bất lợi.
-.Lựa chọn hình thức trọng tài phù hợp: Khi soạn thảo điều khoản trọng tài, các bên cần cân nhắc các điều kiện về tài chính, sự thuận tiện hay bản chất của tranh chấp sẽ phát sinh để lựa chọn một hình thức trọng tài phù hợp. Trọng tài quy chế thích hợp với những tranh chấp phức tạp, hợp đồng có giá trị lớn còn trọng tài vụ việc thích hợp với những tranh chấp đơn giản, cần giải quyết nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
-.Thỏa thuận trọng tài đơn giản và chính xác: Để đạt được tính khả thi và hiệu quả, một điều khoản trọng tài không nhất thiết phải dài và chi tiết. Hai nguyên tắc cơ bản mà bất kỳ người soạn thảo điều khoản trọng tài nào cũng nên biết là tính đơn giản và tính chính xác, cụ thể là đơn giản trong soạn thảo và chính xác khi tập hợp các nội dung để đưa vào điều khoản.
-.Sử dụng ngôn ngữ trọng tài : Nếu trong khi soạn thảo hợp đồng, các bên sử dụng ngôn ngữ mà họ dùng để giao tiếp hàng ngày thì không có vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế, các bên thường được sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau để soạn thảo văn bản.
Các bên thường có quan niệm sai lầm cho rằng ngôn ngữ của hợp đồng sẽ chính là ngôn ngữ trọng tài và không dự đoán được rằng một bên, dù có thiện ý hay dụng ý, có thể đưa vấn đề này ra tranh cãi. Vấn đề tương tự cũng có thể phát sinh nếu hợp đồng được soạn thảo bằng hai ngôn ngữ khác nhau (ngôn ngữ của mỗi bên) với nội dung tương đương. Một khi tranh chấp đã phát sinh, hoặc vào thời điểm bắt đầu tố tụng, các bên rất khó thỏa thuận về ngôn ngữ chung bởi mỗi bên đều muốn đạt được lợi ích của mình từ việc lựa chọn đó. Vì vậy, để tránh những khó khăn nói trên, ngôn ngữ được dùng trong quá trình xét xử trọng tài nên được quy định trong điều khoản trọng tài. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn Trọng tài viên trong quá trình tố tụng trọng tài.
-.Lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài: Thông thường, mỗi bên tham gia hợp đồng đều mong muốn địa điểm trọng tài được tiến hành tại quốc gia nơi mình đặt trụ sở hoạt động. Bởi vậy, việc quyết định địa điểm tiến hành trọng tài ở đâu tùy thuộc vào khả năng đàm phán của mỗi bên. Trong trường hợp không đạt được việc lựa chọn địa điểm trọng tài tại quốc gia mình và phải lựa chọn địa điểm trọng tài tại quốc gia khác, các bên cần cân nhắc kỹ xem pháp luật nơi tiến hành trọng tài có hoàn thiện không, phạm vi và vai trò của các Tòa án liên quan đến tố tụng trọng tài như thế nào, ủng hộ hay phản đối trọng tài. Tốt nhất nên chọn địa điểm tiến hành trọng tài tại quốc gia đã thông qua Luật Mẫu UNCITRAL vì Luật Mẫu được coi là “Tiêu chuẩn vàng” về trọng tài thương mại quốc tế. Khi đó, các bên sẽ hoàn toàn yên tâm.
-.Lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp: Luật áp dụng sẽ xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng, các bên cần phải biết luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các điều khoản hợp đồng không phải lúc nào cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên. Các bên cũng cần lưu ý rằng luật điều chỉnh nội dung hợp đồng có thể khác với luật điều chỉnh quá trình tố tụng trọng tài. Thông thường luật điều chỉnh quá trình tố tụng trọng tài là luật nơi tiến hành trọng tài.
-.Trong thương mại quốc tế, luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn: Tùy theo khả năng đàm phán, luật áp dụng có thể là luật của quốc gia của một bên, ví dụ như luật của nước bên bán hoặc bên mua hoặc là luật của một nước trung lập. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, giải pháp tốt nhất là các bên nên quyết định trước luật áp dụng cho hợp đồng vì như vậy sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện hợp đồng.
-.Sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu: Một điều khoản trọng tài rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ sẽ đảm bảo tranh chấp phát sinh được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện để tìm hiểu sâu về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Để tiết kiệm thời gian, giải pháp tốt nhất là nên sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu.
Kết Luận
Luật trọng tài thương mại năm 2013 ra đời đã có những cải thiện rõ rệt so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 về thỏa thuận trọng tài. Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã khắc phục được những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại năm 2003 như tăng phạm vi quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài, phạm vi quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu rõ ràng hơn, đã có quy định rõ ràng về quyền của người tiêu dùng. Tuy nhiên, luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng có những mặt hạn chế về thỏa thuận trọng tài như hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Hiện tại ở Việt Nam lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại chưa được chú trọng, khác với các nước phát triển trên thế giới, giải quyết tranh chấp thương mại là lựa chọn hàng đầu. Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài có những ưu điểm nhất định so với tòa án và là xu hướng của thế giới. Với sự phát triển của luật trọng tài thương mại thì thỏa thuận trọng tài cũng sẽ không ngừng cải thiện để phù hợp với những vấn đề phức tạp của tranh chấp thương mại.
Cảm ơn bạn Đỗ Anh đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment