08/05/2014
Bài tập học kỳ Xã hội học đại cương - Chuẩn mực xã hội
Mọi người chung sống với nhau tạo thành mối quan hệ xã hội, tồn tại và phát triểnnhư một thực thể xã hội. Không ai có thể sống độc lập bên ngoài mối liên hệ vớinhững người khác vì thế liên hệ xã hội là nền tảng cuộc sống của con người, mọicác nhân đều có mối liên hệ với người khác như quan hệ giữa cha mẹ, anh chị, em,ông bà, cô chú…. Trong cuộc sống, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn như cầu lợi ích nhất định, dù được tự do thực hiện những hoạt động theoý muốn cá nhân nhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm xã hội hoặc xãhội nói chung tuân theo những quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của những người xungquanh để định hướng hành động của mình. Và chính con người với ý chí chung củanhóm xã hội giai cấp, tầng lớp xã hội… đã xác lập một hệ thống các quy tắc đòihỏi đối với hành vi của một cá nhân hay nhóm xã hội từ đó hình thành nên cácchuẩn mực xã hội. Vậy chuẩn mực xã hội là gì? Em xin đi tìm hiểu đề bài: “Phântích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội và pháp luật?”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Khái quát chung về chuẩn mực xã hội

1. Khái niệm.

Con người chung sống với nhau tạo thành xã hội, mỗi cá nhân là một thực thế cấu thành nên xã hội. Mỗi cá nhân đó luôn có mối liên hệ với nhau chứ không thể sống độc lập được từ những mối liên hệ đó mà nền tảng của xã hội được tạo nên.Ví dụ như : một người bình thường thì luôn có cha mẹ, anh chị em, bạn bè… và giữa họ và những người thân đó luôn có mối liên hệ với nhau. Trong cái cấu trúc xã hội phức tạp đó mỗi cá nhân thường xuyên phải thực hiện các hành vi xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu hay lợi ích của mình. Ở mỗi quan hệ thì cá nhân phải có những hành vi ứng xử khác nhau, tức họ phải tuân theo những quy tắc, yêu cầu và những đòi hỏi của quan hệ đó. Mặc dù con người luôn có xu hướng mong muốn thực hiện những hành vi theo ý muốn cá nhân nhưng họ luôn phải đặt mình trong các nhóm hay xã hội nói chung. Chính vì vậy mà những hành vi mà họ thực hiện luôn phải phù hợp với những người xung quanh hay rộng hơn là cộng đồng xã hội. Ví dụ :những hành động mà cộng đồng xung quanh luôn mong đợi ở một cá nhân như: ăn mặc gọn gàng, lịch sự; kính trên nhường dưới; tôn trọng pháp luật; không xả rác bừa bãi… Như vậy chính con người bằng ý chí chung của các nhóm, giai cấp, tầng lớp… đã tạo nên một hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Đó chính là cơ sở khiến cho xã hội hình thành và xuất hiện một hệ thống các chuẩn mực. Từ những căn cứ nêu ở trên có thể rút ra định nghĩa về chuẩn mực xã hội như sau:

“Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội”.

Nội dung của định nghĩa “chuẩn mực xã hội” nêu trên đề cập đến những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, do chính các thành viên của xã hội đặt ra nhằm định hướng cho hành vi của mỗi cá nhân. Như vậy, nguồn gốc của chuẩn mực xã hội được hình thành từ chính nhu cầu điều tiết các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của con người trong đời sống hàng ngày.Chuẩn mực xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng được coi là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến.

Thứ hai, chuẩn mực xã hội không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng, mà nó luôn được xác định một cách cụ thể, rõ ràng ở  mức độ ít hay nhiều về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của những khía cạnh, chỉ báo liên quan đến hành vi xã hội của mỗi người; bao gồm: cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện.

     “Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện một hành vi xã hội của cá nhân khi tham gia hoặc ở trong một tình huống, sự kiện hay một quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn như một người nhìn thấy một người khác đang có nguy cơ chết đuối nếu không được cứu kịp thời. Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không nhảy xuống nước cứu người bị nạn phụ thuộc vào việc anh ta biết bơi hay không biết bơi; cùng với đó là cơ chế thúc đẩy hành vi của anh ta đó là sự tự nguyện, tự giác của người này. Đây chính là khả năng hành động hay không hành động.
     “Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các cá nhân đã và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội khi họ tham gia vào các sự kiện, quan hệ xã hội đó.
     “Cái không được phép” là khái niệm chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà chuẩn mực xã hội cấm các cá nhân thực hiện, vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội. Thông thường, “cái không được phép” được nêu và quy định trong các chuẩn mực pháp luật. Ví dụ: không được phép điều khiển xe gắn máy, ô tô lạng lách đánh võng khi tham gia giao thông, vì hành vi này có thể đe dọa đến tính mạng, tài sản của người tham gia giao thông khác.
     “Cái bắt buộc phải thực hiện” là khái niệm chỉ những hành vi, hoạt động mỗi cá nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn khi tham gia hay đang ở trong một tình huống, sự kiện, quan hệ xã hội nhất định. Khía cạnh này của hành vi thường được quy định trong pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Ví dụ, theo quy định của Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 102, “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”. Trong trường hợp này, cái bắt buộc phải thực hiện chính là phải cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Thứ ba, với hệ thống các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướng tới thực hiện các chức năng xã hội: giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm đánh giá hành vi; gạt đi các bất đồng, mâu thuẫn trong các tranh luận; tránh được những xung đột không cần thiết; tạo cơ sở, “khuôn mẫu” cho các quá trình hòa giải, thương lượng giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận “mẫu số chung” nhỏ nhất của mọi hành vi. Trên cơ sở thực hiện các chức năng đó chuẩn mực xã hội góp phần tạo ra sự đồng thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.

2. Các hình thức biểu hiện.

Chuẩn mực xã hội có những hình thức biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào các tiêu chí phân loại cũng như mục đích khảo sát, nghiên cứu. Thông thường, chuẩn mực xã hội được phân loại theo hai tiêu chí sau đây:

 Theo tính chất phổ biến rộng rãi hay bó hẹp thì chuẩn mực xã hội được chia thành: chuẩn mực xã hội công khai và chuẩn mực xã hội ngầm ẩn.

Chuẩn mực xã hội công khai: là những loại chuẩn mực xã hội được phổ biến rộng rãi, công khai trong xã hội, được đa số các thành viên trong xã hội, cộng đồng biết đến, thừa nhận và tuân theo. Chẳng hạn, chuẩn mực pháp luật là chuẩn mực xã hộicông khai, bởi nó vừa được nhà nước xây dựng, ban hành, đảm bảo thực hiện; lại vừa được công bố, phổ biến rộng rãi trong xã hội để mọi công dân biết, tôn trọng và thực hiện.

Chuẩn mực xã hội ngầm ẩn: là những loại chuẩn mực xã hội chỉ được công bố và áp dụng trong một phạm vi hẹp, mang tính chất nội bộ hay trong những nhóm xã hội nhất định nhằm điều chỉnh hành vi của số ít người có trách nhiệm, nghĩa vụ phải tuân theo. “Ví dụ, luật omerta (im lặng hay là chết) lưu hành trong giới maphia ở Italia là một loại chuẩn mực ngầm ẩn, điều chỉnh hành vi của những kẻ tội phạm có tổ chức trong lĩnh vực buôn lậu ma túy xuyên quốc gia, bảo kê, rửa tiền, thủ tiêu, ám sát các quan chức, chính khách… Khi bị cảnh sát bắt giữ, điều tra, khai thác, các thành viên băng nhóm maphia buộc phải tuân thủ luật omerta, nghĩa là hoặc im lặng, không hợp tác, khai báo với cơ quan cảnh sát; hoặc là chết bởi bàn tay của trùm maphia do đã hợp tác và khai báo với cảnh sát”. 

 Theo đặc điểm được ghi chép hay không được ghi chép lại thì chuẩn mực xã hội được biểu hiện dưới hai hình thức là: chuẩn mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã hội bất thành văn.

Chuẩn mực xã hội thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà các nguyên tắc, quy định của chúng thường được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình thức nhất định.

Trong chuẩn mực xã hội thành văn có ba loại: chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị và chuẩn mực tôn giáo. Tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật thể hiện ở những điều khoản, những quy phạm pháp luật cụ thể, được ghi chép và thể hiện trong các bộ luật, các đạo luật hoặc các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Mỗi điều khoản, quy phạm pháp luật đó đều thể hiện tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật.

Chuẩn mực xã hội bất thành văn cụ thể là chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ. Ví dụ, chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn, thể hiện dưới hình thức là những giá trị đạo đức, những bài học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa người với người trong đời sống xã hội. Chúng không được tập hợp, ghi chép trong một “bộ luật đạo đức” cụ thể nào.

II. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội

1. Tính tất yếu xã hội.

Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội; nó được hình thành, nảy sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của xã hội. Nguyên nhân của việc hình thành các chuẩn mực này là do cộng đồng xã hội muốn điều chỉnh các quan hệ trong xã hội và định hướng những hành vi của con người. Chuẩn mực xã hội được tạo thành từ ý chí chung của các thành viên, các nhóm, các giai cấp trong xã hội nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích của họ. Nội dung chuẩn mực xã hội phản ánh bản chất bên trong của các quan hệ xã hội, nó chứa đựng những quy tắc, yêu cầu đối với hành vi của con người. Chính vì vậy, sự xuất hiện, tồn tại của các chuẩn mực xã hội trong đời sống đã mang lại những vai trò to lớn và nó được coi như tính khách quan, tính tất yếu xã hội.Điều đó nói lên bản chất xã hội của các chuẩn mực này; nó không chỉ thể hiện ở nguồn gốc xã hội mà còn thể hiện ở sức sống sau đó của các chuẩn mực xã hội trong thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, chuẩn mực đạo đức nảy sinh từ quan hệ xã hội, thể hiện ra không chỉ ở các quy tắc đạo đức, mà còn ở hành vi thực tế của con người. Chừng nào mà chuẩn mực đạo đức không thể hiện ra trong xã hội hoặc trong một bộ phận của xã hội như một hành vi mà việc tuân theo và thực hiện nó chỉ mang tính chất thúc đẩy thì chuẩn mực đó không phải là chuẩn mực hành vi; nó chỉ là một cách nhìn được xem là đúng đối với một bộ phận lớn hay nhỏ trong xã hội mà thôi.

Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. Sự tuân thủ và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong hành vi của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người đó. Nếu đi lệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của họ sẽ bị coi là bất bình thường, sai lệch hay là tội ác… Khi đó họ sẽ bị xã hội phê phán, lên án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt tùy theo tính chất, mức độ của hành vi.

2. Tính định hướng của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian và đối tượng.

Khái niệm “định hướng” là khái niệm chủ yếu được sử dụng trong các lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong hoạt động quản lý, định hướng là hoạt động có căn cứ, có mục đích của chủ thể quản lý nhằm tác động vào đối tượng quản lý, hướng sự chú ý của đối tượng tới những nội dung, những vấn đề trọng tâm của sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống theo mong muốn của chủ thể. Sự định hướng của chủ thể đối với một vấn đề xã hội luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó giúp cho chủ thể quản lý nắm bắt được tình hình của một vấn đề, một sự kiện xã hội; từ đó chủ động can thiệp, hướng dẫn quá trình vận động, phát triển của vấn đề, sự kiện phù hợp với lợi ích của xã hội nói chung, của công tác quản lý nói riêng; qua đó tránh được những “sự cố” đáng tiếc có thể xảy ra.

Chuẩn mực xã hội thường được định hướng theo không gian, thời gian và đối tượng. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào các đặc điểm, tính chất của đối tượng; phạm vi không gian; thời điểm, giai đoạn lịch sử mà các chuẩn mực xã hội thường được định hướng thay đổi, sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tế hoặc phù hợp với lợi ích của nhóm đối tượng này hay nhóm đối tượng khác, của giai cấp này hay giai cấp khác.

Theo không gian: các chuẩn mực xã hội được xác định có thể chỉ có giá trị, hiệu lực trong một phạm vi không gian, một khu vực địa lý nhất định; vượt ra ngoài phạm vi không gian đó chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng nữa. Vì vậy, cần định hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợp với các lợi ích chung của xã hội, với các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán của từng vùng lãnh thổ hay khu vực địa lý nhất định.

Theo thời gian: vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xã hội có thể biểu hiện khác nhau qua từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của xã hội. Sự định hướng chuẩn mực xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi và bám sát thực tiễn trong tiến trình phát triển của xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.

Theo đối tượng: có nhiều loại chuẩn mực xã hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh thần của các đối tượng xã hội khác nhau. Có những chuẩn mực xã hội phổ biến, chi phối hành vi của tất cả các thành viên trong xã hội; nhưng cũng có những chuẩn mực xã hội đặc thù, chỉ có giá trị trong một nhóm xã hội nào đó. Sự định hướng chuẩn mực xã hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi ích của cộng đồng hay của các nhóm xã hội khác nhau.

3. Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian, giai cấp, dân tộc.

Các chuẩn mực xã hội không mang tính bất biến mà thường ở trong trạng thái động.Chúng thường xuyên vận động, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, của cộng đồng và của các nhóm xã hội. Trong quá trình vận động, biến đổi đó, có những quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội sau khi hình thành, đã phát huy được vai trò, tác dụng của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều chỉnh các hành vi của con người; song cùng với thời gian trôi đi chúng lại dần trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đó, chúng sẽ tự mất đi, bị loại bỏ hoặc được thay thế bằng những chuẩn mực xã hội mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn tùy theo từng thời kì lịch sử nhất định. Như vậy, bản thân các chuẩn mực xã hội cũng vận động, biến đổi và thay đổi, có những chuẩn mực xã hội bị lãng quên, lùi vào dĩ vãng và có những chuẩn mực xã hội mới ra đời, bắt đầu thể hiện vai trò, tác dụng ở hiện tại và tương lai.

Mỗi chế độ, mỗi nhà nước, mỗi nhóm xã hội lại có hệ thống các chuẩn mực xã hội riêng của mình tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của quan hệ xã hội trong xã hộiđó và ở tại thời điểm lịch sử nhất định. Chẳng hạn, trong xã hội chiếm hữu nô lệ, các chuẩn mực xã hội của nó hình thành xuất phát từ đặc điểm, tính chất của mối quan hệ xã hội phổ biến, điển hình là quan hệ giữa chủ nô và nô lệ. Với đặc điểm đó thì chuẩn mực xã hội thời kỳ này hướng tới bảo vệ, phục vụ cho lợi ích của chủ nô, đàn áp sự phản kháng của nô lệ.

Các chuẩn mực xã hội không phải bao giờ cũng có ý nghĩa tuyệt đối, vì trong xã hội, cộng đồng con người thường có những cá nhân không tuân theo chuẩn mực. Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở một giai cấp, dân tộc này, nhưng lại không thừa nhận ở một giai cấp hay dân tộc khác.Đồng thời, có những chuẩn mực xã hội mà tầng lớp xã hội này phải tuân thủ trong khi tầng lớp xã hội khác lại không phải tuân thủ. Ví dụ, mỗi cộng đồng dân tộc thường có những chuẩn mực phong tục, tập quán riêng của mình xuất phát từ những đặc trưng về lịch sử, địa lý, văn hóa và lối sống. Cho nên, phong tục, tập quán của dân tộc này có thể không được thừa nhận ở một dân tộc khác vì nó không phù hợp với truyền thống văn hóa, lối sống của họ.

III. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội và pháp luật

1. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống.

Chuẩn mực xã hội được hình thành từ chính các quan hệ trong xã hội, tùy vào tính chất của từng quan hệ mà mỗi cá nhân trong quan hệ đó phải thực hiện những chuẩn mực nhất định.Chuẩn mực xã hội thực hiện chức năng hợp nhất quá trình hoạt động; đóng vai trò như một hệ thống tương tác giữa cá nhân với các nhóm xã hội. Không những thế nó còn góp phần điều tiết các quan hệ xã hội, tạo khuôn mẫu cho hành vi của con người, duy trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ cương và an toàn xã hội.

Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động quản lý các lĩnh vực của đời sống. Nó là phương tiện định hướng, điều chỉnh các hành vi của cá nhân trong các nhóm xã hội ở những điều kiện nhất định; đồng thời là phương tiện kiểm tra xã hội đối với các hành vi của họ. Nhờ có các chuẩn mực xã hội mà các cá nhân luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm nghiệm trước khi thực hiện một hành vi nào đó; qua đó góp phần ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật và tội phạm.

Ngoài ra nhiều chuẩn mực còn được coi là những giá trị xã hội chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến như: giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ…

2. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với pháp luật

Để hiểu được tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với pháp luật ta phải xét tác dụng của từng loại chuẩn mực đối với pháp luật. Sau đây xem xin trình bày tác dụng của năm loại chuẩn mực xã hội tiêu biểu như: chuẩn mực chính trị, chuẩn mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ.

Tác dụng của chuẩn mực chính trị: pháp luật là cái phản ánh chuẩn mực này dưới góc độ pháp luật mà nếu không có nó thì sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cầm quyền khó có thể được chấp nhận và phục tùng trong xã hội có giai cấp. Chuẩn mực chính trị được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng và được ghi nhận trong Hiến pháp cũng như các đạo luật khác.Như vậy chuẩn mực chính trị là nguồn cơ bản góp phần xây dựng và phát triển hệ thống của một quốc gia. Trong mối quan hệ giữa quốc gia với nhau chuẩn mực chính trị còn được thể hiện trong các quy tắc giao tiếp, ứng xử quốc tế, hiệp ước, hiệp định… như vậy trong mối quan hệ này chuẩn mực chính trị đóng vai trò là nguồn quan trọng để hình thành và phát triển hệ thống pháp luật quốc tế.

Tác dụng của chuẩn mực tôn giáo: những chuẩn mực tôn giáo tốt đẹp, phù hợp với thuần phong mĩ tục và các giá trị đạo đức đem lại tác dụng tích cực đối với việc thực hiện pháp luật của công dân.

Tác dụng của chuẩn mực đạo đức: cần khẳng định rằng chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Một cá nhân khi có đạo đức tốt thì sẽ tuân thủ tối đa các quy định của pháp luật và ngược lại khi đạo đức tồi thì sẽ không dễ dàng để họ tuân thủ các quy định của pháp luật.

Tác dụng của chuẩn mực phong tục, tập quán: phong tục, tập quán là những thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người. Vì vậy những phong tục, tập quán tốt đẹp, phù hợp thì việc nâng lên thành pháp luật sẽ giúp cho việc thực hiện pháp luật dễ dàng, tự giác.Có thể thấy trong trường hợp này chuẩn mực phong tục, tập quán đóng vai trò là nguồn quan trọng để hình thành pháp luật. Bên cạnh đó chuẩn mực phong tục, tập quán còn thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội mà đặc biệt là khi nó trùng khớp với pháp luật thì nó sẽ có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc đưa pháp luật vào đời sống xã hội.

Tác dụng của chuẩn mực thẩm mỹ: chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng điều chỉnh hành vi thẩm mỹ của con người phù hợp với các quan niệm, quan điểm trong xã hội về cái đẹp, cái xấu… khi pháp luật ban hành phù hợp với chuẩn mực thẩm mỹ thì sẽ được nhân dân tự giác tuân thủ và thực hiện.

KẾT LUẬN

Như vậy các chuẩn mực xã hội đóng vai trò không nhỏ trong đời sống của các cộng đồng người, mỗi địa phương, dân tộc đều có các chuẩn mực xã hội riêng điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi của con người nơi đó. Những chuẩn mực xã hội này có tác động to lớn tới đời sống của con người cũng như tác động tới quá trình thực hiện pháp luật của mọi người, chuẩn mực xã hội có nhiều loại trên nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, pháp luật, thẩm mỹ nhằm điều chỉnh các hành vi của con người trên những lĩnh vực đó và nhằm hoàn thiện xã hội bằng những quy tắc, khuôn mẫu của các chuẩn mực xã hội.

Trên đây là bài tập lớn học kì của em, bài làm tuy còn nhiều thiếu xót mong thầy ( cô) thông cảm và góp ý cho bài làm của em được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010.
2. TS. Ngọ Văn Nhân, Giáo trình xã hội học, Nxb. Lao động-Xã hội, Hà Nội, 2011.
3. Chung Á - Nguyễn Đình Tấn, Nghiên cứu xã hội học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
4. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
5. Xã hội học chuyên biệt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000

Cảm ơn bạn Trang Nguyễn đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment