30/01/2015
Ưu điểm và hạn chế của biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân - Bài tập học kỳ Luật Dân sự
Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng được pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Cùng với các văn bản pháp luật khác, Bộ luật dân sự (BLDS) của Nhà nước ta đã ghi nhận và có những biện pháp để bảo vệ quyền nhân thân của chủ thể. BLDS 2005 sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về quyền nhân thân – đây là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền nhân thân, bởi pháp luật dân sự nói riêng, pháp luật của Nhà nước ta nói chung luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, tất cả đều hướng tời con người và vì con người. Trong một xã hội mà điều kiện kinh tế xã hội càng phát triển, các quyền của cá nhân càng được coi trọng. Hiểu rõ quy định của pháp luật dân sự về quyền nhân thân cũng như biện pháp để bảo vệ quyền nhân thân là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng về lý luận và thực tiễn. Với những lý nêu trên, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân; Ưu điểm và hạn chế của biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân” làm bài tập lớn học kì.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo vệ quyền nhân thân

Bảo vệ quyền nhân thân là việc người có quyền nhân thân bị xâm phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện các phương thức, biện pháp do pháp luật quy định để chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân, nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi xâm phạm và chịu trách nhiệm dân sự về hành vi trái pháp luật của mình.

Khác với quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có ý nghĩa rất quan trọng:

Thứ nhất: Bảo vệ quyền nhân thân chính là sự hiện thực hoá nội dung các quyền nhân thân;

Thứ hai: Bảo vệ quyền nhân thân có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân.

Thứ ba: Bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo.

2. Biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân

Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một khâu trong cơ chế bảo đảm việc thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Tuy vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân một cách tùy tiện cũng có thể xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác vì vậy pháp luật đã phải quy định các phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm. Theo đó, trong trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm chỉ được bảo vệ quyền nhân thân của mình theo những phương thức và biện pháp do pháp luật quy định. Quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của pháp luật khá đa dạng nên hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân cũng khá đa dạng dưới những hình thức, mức độ khác nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả ngoài việc sử dụng nhiều phương thức bảo vệ khác nhau còn phải áp dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau như biện pháp xử lý hành chính, biện pháp xử lý hình sự, biện pháp dân sự, biện pháp xử lý kỷ luật. Trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đó thì biện pháp dân sự là một trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả và được áp dụng phổ biến nhất. Các biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm được quy định trong pháp luật dân sự.

Theo quy định tại Điều 25 BLDS 2005 thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự sau để bảo vệ quyền nhân thân của mình như tự cải chính; yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm; yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

● Thông thường trong trường hợp quyền nhân thân của mình bị xâm phạm thì trước hết cá nhân tự tiến hành các hành vi bảo vệ cần thiết, tương xứng với hành vi xâm phạm để chống lại hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của mình, ngăn chặn không cho các hành vi đó tiếp tục xảy ra như cải tự mình trực tiếp cải chính, yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm. Tự mình cải chính là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm được áp dụng trong trường hợp người có hành vi trái pháp luật đưa ra những tin tức không đúng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là biện pháp cho phép người có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng gây ra và có thể không khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các bên. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn. Biện pháp tự mình cải chính bên cạnh những ưu điểm về hiệu quả bảo vệ như: nhanh chóng, kịp thời, thì cũng gặp phải một hạn chế lớn nhất định đó là hiệu quả bảo vệ không cao do không được bảo đảm bằng tính cưỡng chế nhà nước. Mặt khác việc tự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thường chỉ có hiệu quả khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân nhận thức được trách nhiệm của họ. Đối với những trường hợp người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không nhận thức được trách nhiệm của họ thì việc bảo vệ quyền nhân thân theo phương thức này nhiều khi không có hiệu quả.

● Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ. Nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được quyền nhân thân của mình.

● Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm cũng là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm.

Cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật bảo vệ như yêu cầu tổ hoà giải ở cơ sở, Uỷ ban nhân dân các cấp, Toà án, Viện kiểm sát v.v...bảo vệ. Các cơ quan, tổ chức này căn cứ vào yêu cầu của đương sự, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật quy định tiến hành các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm như xử lý người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân, buộc họ phải chấm dứt hành vi xâm phạm ... Đây là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân chấm dứt hành vi đó. Trên thực tế, biện pháp này thường được người có quyền nhân thân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được đáp ứng. Trong các cơ quan Nhà nước áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chủ yếu và trong việc áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án áp dụng có hiệu quả nhất. Bởi các quyết định, bản án của Toà án sẽ được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước do đó các quyết định liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân của cơ quan này sẽ được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, bảo vệ quyền nhân thân thông qua việc yêu cầu Toà án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền nhân thân bị xâm phạm yêu cầu Toà án bảo vệ chứng mình quyền nhân thân của mình, hành vi xâm phậm quyền nhân thân của họ là trái pháp luật.

● Yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân được thực hiện khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại. Nếu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không chịu bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Bồi thường bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối thiểu (Do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường, hiện nay lương tối thiểu là 1,05 triệu đồng/tháng). Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử… thì riêng mức bồi thường thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lương tối thiểu.

Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện các biện pháp bảo vệ trên để bảo vệ quyền nhân thân của mình. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp bảo vệ quyền nhân thân hoặc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nào là tùy vào trường hợp cụ thể quyền nhân thân bị xâm phạm và do người có quyền nhân thân bị xâm phạm tự lựa chọn quyết định. Tuy nhiên, việc lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp sẽ giúp cho việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả.

3. Đánh giá quy định của pháp luật về biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân

3.1 Ưu điểm

Qua việc phân tích biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân như trên, có thể thấy về cơ bản các quy định của Bộ luật dân sự đã quy định đủ các phương thức, biện pháp mà người có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện để bảo vệ quyền nhân thân của họ trong trường hợp bị xâm phạm.

Pháp luật quy định cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức, biện pháp khác nhau là cần thiết, tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả. Hơn nữa, các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm nhiều quyền khác nhau và các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân cũng rất đa dạng nên việc pháp luật quy định đa dạng hóa các phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là rất cần thiết.

Biện pháp bồi thường thiệt hại về tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 25, BLDS 2005 và đã cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 609 và Điều 611 BLDS 2005. Đây là một biện pháp bảo vệ quyền nhân thân rất mới, rất đặc sắc của BLDS, thể hiện một sự đánh giá đúng đắn các quyền nhân thân của cá nhân, nó là biện pháp rất tích cực, thiết thực và hiệu quả trong việc tăng cường bảo vệ quyền nhân thân và nó cũng thể hiện sự hòa nhập của pháp luật dân sự Việt Nam với pháp luật dân sự của các nước trên thế giới.

3.2 Hạn chế

Mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ các biện pháp để bảo vệ quyền nhân thân, tuy nhiên thực tiễn áp dụng cho thấy các quy định trong BLDS 2005 còn chung chung, mới chỉ mang tính định hướng trong khi đó các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này lại không hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện chúng trên thực tế đã gặp phải nhiều khó khăn và hạn chế, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể.

● Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 BLDS 2005, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền được bảo vệ bằng cách tự mình cải chính những những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của họ mà không nhất thiết phải chờ người có hành vi xâm phạm thực hiện việc cải chính. Việc Bộ luật dân sự quy định người có quyền nhân thân bị xâm phạm được tự cải chính có tác dụng giúp họ góp phần ngăn chặn và khắc phục kịp thời được hậu quả của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của họ. Để người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực hiện được việc tự cải chính thì pháp luật phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện việc tự cải chính đó, nhưng do các văn bản pháp luật có liên quan không có quy định, hướng dẫn cụ thể nên việc tự cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên thực tế hầu như không thể thực hiện được hoặc có thực hiện thì cũng không hiệu quả. Hơn nữa, về tâm lý thì cũng không mấy ai tin việc cải chính của chính người có quyền nhân bị xâm phạm. Hay như việc cá nhân yêu cầu người vi phạm xin lỗi, cải chính công khai. Vậy như thế nào là được xem là xin lỗi, cải chính công khai? Phải chăng công khai là phải đến xin lỗi, cải chính ở nơi ở, nơi làm việc, học tập của người có quyền nhân thân bị xâm phạm hay là phải xin lỗi, cải chính trên báo đài, phương tiện thông tin đại chúng. Rõ ràng, pháp luật không hề quy định về vấn đề này. Do đó việc bảo vệ quyền nhân thân của người có quyền nhân thân bị xâm phạm đã gặp phải hạn chế.

● Tại khoản 2, khoản 3 Điều 25 BLDS quy định khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ thông qua việc buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hai. Theo quy định này, thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ nhưng vấn đề là chúng ta đặt ngược lại câu hỏi: cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở đây là cơ quan, tổ chức nào? BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan không chỉ rõ được điều này. Vì thế trên thực tế đã xảy ra không ít các trường hợp đương sự không xác định được cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của họ. Theo các điều từ Điều 25 đến Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự thì nhiều vụ việc về quyền nhân thân chưa được quy định cụ thể cho Toà án có thẩm quyền giải quyết như yêu cầu bảo vệ tên họ, hình ảnh; yêu cầu bảo vệ bí mật đời tư; yêu cầu bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (không thuộc trường hợp liên quan đến nghiệp vụ báo chí) v.v… Hơn nữa, trong các văn bản pháp luật hiện hành không có quy định về bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm trong trường hợp họ đã chết. Tuy dù họ đã chết nhưng việc bảo vệ quyền nhân thân của họ vẫn phải đặt ra vì trong nhiều trường hợp việc xâm phạm đến các quyền nhân thân của họ cũng có những ảnh hưởng xấu nhất định tới những người thân và người liên quan đến họ. Từ việc pháp luật không quy định cụ thể về thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền nhân thân, các loại vụ việc Toà án có thẩm quyền giải quyết nên trong thực tiễn xét xử của Toà án có việc được Toà án thụ lý giải quyết, có việc Toà án không thụ lý giải quyết và quan điểm về thẩm quyền về giải quyết các vụ việc về quyền nhân thân giữa các Toà án cũng rất khác nhau dẫn đến cùng loại vụ việc Toà án này thì thụ lý giải quyết nhưng Toà án khác lại không thụ lý giài quyết.

● Theo quy định tại Điều 25 BLDS 2005 thì quy định chỉ có người có quyền nhân thân bị xâm phạm mới có quyền yêu cầu bảo vệ. Quy định này còn hạn chế, dẫn đến việc bảo vệ quyền nhân thân chưa được triệt để, hiệu quả, kịp thời. Chẳng hạn, một người đã bị chết, nay bị một người khác bịa đặt, nói xấu làm xâm phạm đến danh dự. Vậy phải làm thế nào để bảo vệ được quyền nhân thân cho người đã chết? Nếu như theo quy định của pháp luật hiện hành, thì chỉ có người đã chết mới có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân. Nhưng người đã chết thì không thể nào thực hiện được việc đó. Do vậy, đây còn là hạn chế của pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân.

4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền nhân thân

Thứ nhất: Nên sửa đổi bổ sung Điều 25 BLDS theo hướng quy định không chỉ người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu bảo vệ mà cả người đại diện, người thân thích của họ cũng có quyền yêu cầu bảo vệ và việc yêu cầu bảo vệ được đặt ra trong cả trường hợp người có quyền nhân thân bị xâm phạm đã chết .

Thứ hai: Cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 25 BLDS theo hướng quy định rõ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền nhân thân để tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời thực hiện được việc bảo vệ quyền nhân thân.

Thứ ba: Về pháp luật tố tụng dân sự, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 25 BLTTDS 2004 về thẩm quyền của Toà án hướng Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các yêu cầu về bảo vệ họ tên, hình ảnh, bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín, xác định giới tính.

Thứ tư: Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật tố tụng dân sự v.v… về trình tự, thủ tục thực hiện việc bảo vệ quyền nhân thân; Trong đó cần chú trọng quy định, hướng dẫn về trình tự thủ tục cải chính; yêu cầu cơ quan, tổ chức khác (ngoài việc yêu cầu Toà án) bảo vệ vì hiện nay vấn đề này hầu như bị bỏ ngỏ không có văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn.

C. KẾT LUẬN

Bảo vệ quyền nhân thân là một vấn đề quan trọng trong cơ chế bảo đảm quyền dân sự của các chủ thể. Các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tuy đã đầy đủ. Tuy nhiên, để việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thực sự có hiệu quả trên thực tế ngoài việc phải nâng cao nhận thức của mọi người về việc tôn trọng, bảo vệ các quyền dân sự trong đó có quyền nhân thân của cá nhân thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, tuy nhiên trong quá trình làm bài cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong cô (thầy) đóng góp ý kiến cho bài tập của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Danh mục tài liệu

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009;

2. Bộ luật dân sự năm 2005;

3. Lê Đình Nghị, “Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân sự”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, tháng 12/2008;

4. Tạp chí luật học.

No comments:

Post a Comment