30/01/2015
Bình luận về các dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Bài tập học kỳ Tư pháp quốc tế.

Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là hoạt động của toà án một nước trong việc giải quyết các vụ việc phát sinh từ các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền xét xử của toà án theo một thể thức do luật định. Do vậy, trong tố tụng dân sự quốc tế, thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tức là thẩm quyền của toà án tư pháp một nước nhất định đối với việc xét xử các vụ việc dân sự quốc tế cụ thể. Để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế thì cần phải có những dấu hiệu nhất định. Vì vậy nhóm xin chọn đề tài số 1: “Bình luận về các dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” để làm rõ hơn những dấu hiệu xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG

I. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền xét xử quốc tế của tòa án Việt Nam

Để xác định thẩm quyền của mình, tòa án mỗi nước đều dựa trên cơ sở nguyên tắc Luật tòa án (Lex fori). Đây là nguyên tắc đặc thù và quan trọng nhất trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế.

Theo nguyên tắc Lex fori, khi giải quyết các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, về mặt tố tụng, tòa án có thẩm quyền chỉ áp dụng luật tố tụng của nước mình (trừ trường hợp ngoại lệ được quy định trong pháp luật của từng nước hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước đó tham gia). Áp dụng nguyên tắc này vào việc xác định thẩm quyền xét xử quốc tế, tòa án chỉ được áp dụng luật tố tụng nước mình mà không bao giờ được áp dụng luật nước ngoài để xác định thẩm quyền cũng như trình tự giải quyết vụ việc trừ khi trong điều ước quốc tế có quy định khác. Đây là quan điểm được tất cả các quốc gia trên thế giới thừa nhận.

Quy trình để giải quyết xung đột thẩm quyền của tòa án Việt Nam khi nhận được đơn kiện về các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài gồm các giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Tòa án Việt Nam xem xét các điều ước quốc tế (các Hiệp định Tương trợ tư pháp về các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình giữa Việt Nam và các nước; Hiệp định Thương mại; …) có quy định về vấn đề xác định thẩm quyền của mình hay không rồi căn cứ vào đó để xác định thẩm quyền.

- Giai đoạn 2: Trong trường hợp không có điều ước quốc tế nào quy định về việc xác định thẩm quyền xét xử quốc tế, hoặc có mà không có quy định cụ thể thì tòa án Việt Nam sẽ căn cứ vào các dấu hiệu xác định thẩm quyền trong hệ thống các văn bản pháp luật trong nước để xác định thẩm quyền của tòa án nước mình.

- Giai đoạn 3: Nếu theo quy định của các điều ước quốc tế hoặc theo quy định của pháp luật trong nước (sau giai đoạn 1 hoặc 2) tòa án Việt Nam là tòa án có thẩm quyền xét xử thì tòa án sẽ căn cứ vào các dấu hiệu xác định thẩm quyền theo lãnh thổ và theo vụ việc được quy định trong luật tố tụng Việt Nam để xác định thẩm quyền cho một tòa án cụ thể trong nước.

Do khuôn khổ bài viết có hạn, bài làm của nhóm sẽ bình luận về các dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế được sử dụng trong giai đoạn 2 là chính. Bởi việc xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ và theo vụ việc trong giai đoạn 3 là tương tự như với các vụ việc dân sự không có yếu tố nước ngoài.

II. Bình luận về các dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Hiện nay, các quy định của pháp luật về xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài chủ yếu được ghi nhận trong một số văn bản luật quan trọng như Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (Phần IX), Luật Hôn nhân và gia đình 2000 (Điều 102), Luật Thương mại 2005 (Điều 317), Luật Trọng tài năm 2010, Luật Đầu tư 2005…

Trong đó Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS) đã xây dựng hai nhóm dấu hiệu để xác định thẩm quyền chung (Điều 410) và thẩm quyền riêng biệt (Điều 411) của tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

1. Các dấu hiệu xác định thẩm quyền chung của tòa án Việt Nam

Các dấu hiệu xác định thẩm quyền chung nghĩa là đối với những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài có một trong các dấu hiệu này thì cả tòa án Việt Nam và tòa án nước ngoài có liên quan đều có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Nói cách khác, nguyên đơn trong các trường hợp này vừa có thể kiện ra tòa án Việt Nam vừa có thể kiện ra tòa án nước ngoài có liên quan đều được.

Khoản 2 Điều 410 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 đã liệt kê 7 nhóm dấu hiệu đối với từng loại vụ việc thuộc thẩm quyền chung của tòa án Việt Nam như sau:

a. Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam (Điểm a)

Theo quy định này, thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam được xác định theo dấu hiệu nơi có mặt của bị đơn dân sự. Đây là dấu hiệu phổ biến được nhiều nước áp dụng.Cụ thể, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết quan hệ dân sự có cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia vào khi cơ quan, tổ chức nước ngoài là bị đơn và phải có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh ở nước ngoài (có quốc tịch nước ngoài) nhưng có trụ sở chính ở Việt Nam thì các đối tác của doanh nghiệp vẫn có quyền khởi kiện doanh nghiệp nước ngoài đó tại Tòa án Việt Nam. Quy định này là hoàn toàn cần thiết trong điều kiện hiện nay có nhiều cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và làm phát sinh tranh chấp trong quá trình tham gia các quan hệ pháp luật tại Việt Nam. Nếu không có quy định này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải khởi kiện tại Tòa án nước ngoài, sẽ khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, quy định này cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó làđối với các trường hợp bị đơn là thương nhân nước ngoài chỉ có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam thì quy định này lại không quy định cụ thể liệu tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết hay không. Điều này đã phần nào hạn chế quyền khởi kiện của đương sự cũng như thẩm quyền của tòa án Việt Nam.

Cũng theo quy định này, Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp phía khởi kiện là bên Việt Nam và cơ quan, tổ chức nước ngoài là bên bị đơn, còn nếu cơ quan, tổ chức nước ngoài là bên khởi kiện (là nguyên đơn) thì Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết. Ngoài ra, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc khi bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam, tuy nhiên điều luật không nói rõ Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các vụ việc phát sinh có liên quan đến cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài hay chỉ trong một số trường hợp cụ thể. Chính cách quy định của điều luật cho phép ta hiểu rằng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các vụ việc mà bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam.Quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế và thiếu tính khả thi.

b. Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch, có nơi cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam (Điểm b)

Đối tượng là cá nhân trong trường hợp này được hiểu là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, hoặc người không quốc tịch. Nếu những đối tượng này chỉ tạm trú trên lãnh thổ Việt Nam thì tòa án Việt Nam không có thẩm quyền, trừ trường hợp trong các điều ước có quy định khác.

Có nhiều ý kiến cho rằng đây là một quy định chưa đầy đủ, loại bỏ thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với trường hợp bị đơn là công dân, pháp nhân Việt Nam khi nguyên đơn là bên nước ngoài. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử đã loại ý kiến trên, dựa vào Điểm a, Khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự để xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các trường hợp bị đơn là bên Việt Nam và nguyên đơn là bên nước ngoài. Căn cứ quy định này, tòa án Việt Nam, tức tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ việc.

Nhin chung đây là một quy định hợp lí, bởi trong nền kinh tế thị trường thu hút đầu tư nước ngoài, thì việc người nước ngoài có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam ngày càng gia tăng kèm theo những vụ việc tranh chấp càng phức tạp, để tạo điều kiện giải quyết vụ việc đặc biệt là những vụ việc có liên quan đến tài sản lớn thì thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án Việt Nam sẽ bảo đảm lợi ích của các bên và không xâm phạm đến lợi ích quốc gia.

c. Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ (Điểm c)

Quy định này đã loại trừ các đơn yêu cầu của người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, điều luật cũng không nói rõ liệu nguyên đơn là công dân Việt Nam có đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con với bị đơn nước ngoài cư trú ở nước ngoài thì tòa án Việt Nam có thẩm quyền không? Đây cũng là quy định hạn chế thẩm quyền của tòa án Việt Nam, trong khi các Hiệp định Tương trợ tư pháp quy định rộng hơn khi cho phép Tòa án nơi thường trú của nguyên đơn sẽ có thẩm quyền đối với vụ việc này.

d. Các quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài (Điểm d)

Trường hợp này thẩm quyền của Tòa án Việt Nam được xác định theo dấu hiệu nơi phát sinh sự kiện hay là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Việc xác lập các quy định này xuất phát từ quan niệm sự kiện là khởi nguồn của tranh chấp hay vụ việc dân sự xảy ra ở đâu thì cơ quan bảo vệ công lý ở nơi đó có quyền hạn và trách nhiệm trong việc giải quyết vụ việc đó. Mặt khác, Tòa án nơi phát sinh sự kiện cũng là Tòa án có điều kiện tốt nhất để xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu cho việc giải quyết vụ việc.

e. Các vụ việc mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài nhưng với các đương sự đều là công dân, tổ chức Việt Nam, hoặc một trong các bên cư trú tại Việt Nam (Điểm e)

Trường hợp này được xác định theo dấu hiệu quốc tịch.

f. Đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam (Điểm f)

Quy định này nhìn chung là hợp lý, phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới cũng như điều ước quốc tế, bởi tính chất của các hợp đồng quốc tế thường được thực hiện ở nhiều nước, liên quan đến lợi ích không chỉ của các bên trong hợp đồng mà còn ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia nơi thực hiện hợp đồng, các lợi ích trong thương mại quốc tế. Bởi vậy, tòa án Việt Nam cũng luôn có thẩm quyền đối với loại vụ việc này, nếu các bên có yêu cầu, kể cả trong trường hợp các bên đều là bên nước ngoài.

g. Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam (Điểm g)

Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi vụ việc li hôn có một bên vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam; bên kia có thể là công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch. Tại Khoản 3 Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định cụ thể: Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết việc li hôn có yếu tố nước ngoài; Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuốc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam giải quyết việc li hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới Việt Nam. Như vậy, trường hợp này được xác định theo dấu hiệu quốc tịch.

2. Các dấu hiệu xác định thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam

Thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam là thẩm quyền riêng và duy nhất, chỉ xác định cho tòa án Việt Nam và loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án các quốc gia khác. Những vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án nói chung, của tòa án Việt Nam nói riêng thường là những vụ việc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với hệ thống cơ quan tài phán đó. Việc quy định như vậy nhằm bảo vệ không chỉ lợi ích công dân, pháp nhân mà còn phải tính tới lợi ích quốc gia, bảo vệ trật tự công cũng như trật tự pháp lý của quốc gia đó.

Điều 411 BLTTDS 2004 đã liệt kê các dấu hiệu của các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam. Cụ thể như sau:

a. Đối với các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài (Khoản 1)

Theo Khoản 1, Điều 411BLTTDS 2004, những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam là các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam (Điểm a). Việc xây dựng quy định về thẩm quyền theo tòa án nơi có bất động sản xuất phát từ tính chất đặc biệt của bất động sản là loại tài sản gắn liền với đất không di chuyển được. Tòa án nơi có bất động sản là tòa án có điều kiện thuận lợi hơn cả trong việc xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết chính xác vụ việc. Đối với các tranh chấp bất động sản, thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do cơ quan tài nguyên môi trường, nhà đất, chính quyền nơi có bất động sản đó lưu giữ và các cơ quan này cũng là những cơ quan nắm vững những thông tin về nguồn gốc, hiện trạng tài sản và tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xác minh, thu thập các tài liệu, các thông tin liên quan đến bất động sản đang tranh chấp.

Thứ hai, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển, mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam (Điểm b). Quy định này là phù hợp với cơ sở lý luận của việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ, tạo thuận lợi không chỉ cho tòa án giải quyết vụ việc mà cho cả đương sự tham gia tố tụng và thuận lợi cho việc thi hành án sau này.

Thứ ba, vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam (Điểm c). Quy định này dựa trên tiêu chí “nơi thường trú chung” của vợ chồng để xác định thẩm quyền riêng của tòa án Việt Nam là hợp lý. Vì đây là nơi quan hệ vợ chồng được thiết lập nên cũng thuận lợi cho Tòa án cũng như đảm bảo lợi ích cho các bên.

b. Đối với các việc dân sự có yếu tố nước ngoài (Khoản 2)

Theo Khoản 2, Điều 411 BLTTDS 2004, những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của tòa án Việt Nam:

- Xác định một sự kiện pháp lý nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp này được xác định theo dấu hiệu nơi xảy ra sự kiện. Tòa án Việt Nam sẽ là tòa án có điều kiện thuận lợi để xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu cho việc giải quyết vụ việc khi vụ việc xảy ra rên lãnh thổ Việt Nam.

- Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp này xác định theo dấu hiệu nơi cư trú và dấu hiệu nơi xảy ra sự kiện.

- Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch mất tích, đã chết nếu họ có mặt ở Việt Nam tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là căn cứ để tuyên bố một người mất tích, đã chết và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp này được xác định theo dấu hiệu nơi xảy ra sự kiện.

- Yêu cầu Toà án Việt Nam tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp này được xác định theo dấu hiệu quốc tịch.

- Công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp này được xác định theo dấu hiệu nơi có tài sản.

Nhìn chung, các quy định là hợp lý, khá giống với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.

III. Hướng hoàn thiện pháp luật

Để điều luật được áp dụng có hiệu quả trong việc điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì nhóm xin đưa ra một số quan điểm sửa đổi Điều 410 và Điều 411 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 như sau:

Thứ nhất, về điểm a, Khoản 2, điều 410 BLTTDS. Tòa án Việt Nam chỉ nên giải quyết những vụ việc có liên quan đến hoạt động ở Việt Nam của chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài; còn những trường hợp khác, Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền. Chỉ có trong quá trình hoạt động, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến chức năng của cơ quan, tổ chức mới phát sinh và cũng chỉ khi tiến hành các hoạt động tại Việt Nam hoặc có liên quan đến Việt Nam mới có cơ sở và điều kiện để Tòa án Việt Nam giải quyết các tranh chấp có liên quan.

Vì vậy, nhóm đề nghị sửa đổi điểm a, Khoản 2 thành: “Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc vụ việc liên quan đến hoạt động của cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài”. Ngoài ra các nhà lập pháp nên bổ sung thêm đối tượng là các tổ chức có tài sản tại Việt Nam vào quy định này để mở rộng quyền khởi kiện của đương sự cũng như thẩm quyền của tòa án Việt Nam. Đồng thời, cần quy định rõ phạm vi giải quyết của tòa án chỉ là những vụ việc phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.

Thứ hai, về điểm b, Khoản 2 điều 410 BLTTDS. Quy định này trái với quy định của một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực này mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy nên điều chỉnh theo hướng tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch có nơi thường trú, tạm trú tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”. Điều này sẽ góp phấn hạn chế sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các cam kết quốc tế của Việt Nam thể hiện một phần trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bởi việc ban hành các quy định của pháp luật quốc nội tương thích, phù hợp với nội dung của các điều ước quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia là một yêu cầu quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam khi hệ thống pháp luật cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển.

Thứ ba, về Điểm c, Khoản 2, Điều 410 BLTTDS, quy định nên mở rộng theo hướng cho phép tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết trường hợp công dân Việt Nam nộp đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con với bị đơn nước ngoài cư trú ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chính các công dân Việt Nam trong các việc giải quyết các vụ án như vậy.

Thứ tư, về điểm đ, Khoản 2 Điều 410 BLTTDS, để được hiểu và áp dụng chính xác, thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng, điều luật cần được sửa đổi thành: “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức Việt Nam có trụ sở chính tại Việt Nam, công dân Việt Nam có nơi cư trú tại Việt Nam”.

Thứ năm, về điểm b, Khoản 1 Điều 411 BLTTDS về hợp đồng vận chuyển mà trụ sở người vận chuyển chính là ở Việt nam. Mục đích ban đầu của các nhà làm luật là để hạn chế thiệt hại cho các chủ tàu Việt nam, thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải biển Việt nam. Nhưng trong thực tế lại gây khó khăn cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng cũng như thi hành phán quyết. Vì vậy, để hợp lý thì nên để các bên tự chọn trọng tài để giải quyết vì đây là quan hệ hợp đồng.

KẾT LUẬN CHUNG

Việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là một nội dung quan trọng của quá trình giải quyết xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc tế. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là yêu cầu cần thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tư pháp quốc tế nói riêng và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội , Nxb Công an Nhân dân.

2. Giáo trình Luật Tư pháp Quốc tế, Ths Bùi Thị Thu chủ biên, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010.

3. Bộ Luật Dân sự năm 2005.

4. Luật Hôn nhân gia đình 2000.

5. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Trung Quốc 2010.

6. Về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật tố tụng dân sự nãm 2004,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02/2006 - TS. Nguyễn Trung Tín.


7. http://thuvienphapluat.vn.

No comments:

Post a Comment