12/12/2014
Đề cương ôn tập môn Tư pháp quốc tế - Chương 10: Hôn nhân và gia đình trong tư pháp quốc tế
 Câu 23. Khái niệm và giải quyết xung đột pháp luật về hôn nhân và gia đình trong tư pháp quốc tế,

Khái niệm.
Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:

Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;

Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.

Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó ở nước 
ngoài.

Ngoài ra tại K4 Điều 100 LHN và GĐ còn quy định các quan hệ giữa hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.

Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn.

+ Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật các nước

* Điều kiện kết hôn. 
Để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn đa số pháp luật các nước áp dụng hệ thuộc luật nhân thân của chủ thể. Song có nước áp dụng luật quốc tịch, có nước áp dụng nguyên tắc luật nơi cứ trú của đương sự để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn.

Pháp: Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước mà đương sự mang quốc tịch quyết định. Tuy nhiên, khi tiến hành kết hôn ở Pháp ngoài việc tuân thủ luật quốc tịch nước mà họ mang quốc tịch, người nước  ngoài còn phải tuân thủ một số điều kienj do pháp luật Pháp quy định: tuổi kết hôn, sự đồng ý của cha mẹ, của người giám hộ nếu người kết hôn chưa đến tuổi thành niên…
Đức: điều kiện kết hôn do pháp luật của nước mà đang sự mang quốc tịch điều chỉnh đồng thời chấp nhận dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến nước thứ ba.
Mỹ: áp dụng pháp luật nơi tiến hành kết hôn bất kể quốc tịch và nơi cư trú của các bên đương sự.

+Nghi thức kết hôn.
Để giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật nơi tiến hành kết hôn. Tuy nhiên cũng có nước quy định bổ sung:

Ở Pháp: Nghi thức kết hôn phải tuân theo pháp luật nơi tiến hành kết hôn, nhưng khi công dân Pháp tiến hành kết hôn ngoài lãnh thổ Pháp thì phải báo trước việc kết hôn về Pháp thì cuộc hôn nhân đó mới được công nhận là hợp pháp;

Ở Đức: Nghi thức kết hôn do pháp luật nơi tiến hành kết hôn quyết định. Nếu nghi thức kết hôn không phù hợp với quy định của pháp luật nơi tiến hành kết hôn, nhưng lại đáp ứng yêu cầu của pháp luật nước nơi đương sự mang quốc tịch thì cuộc hôn nhân đó vẫn có giá trị pháp lý.

ở Anh, Mỹ: Nghi thức kết hôn được xác đinh theo pháp luật nơi tiến hành kết hôn.

Câu 24. Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.

a. Khái niệm

Khái niệm.
Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:

Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;

Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.

Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó ở nước ngoài.

Ngoài ra tại K4 Điều 100 LHN và GĐ còn quy định các quan hệ giữa hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.

b. Điều kiện kết hôn

Theo Điều 103 LHNGĐ và Điều 10 NĐ 68 trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam – Người nước ngoài mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn: áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch. Nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn ( Điều 9 và 10 về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn).

Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn.

Nếu người đó có hai hay nhiều quốc tịch quốc tịch nước ngoài thì giấy tờ xác định điều kiện kết hôn của họ sẽ theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch đồng thời vào thời điểm đăng ký kết hôn,nếu người đó không thường trú tại một trong nước mà người đó có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó mang hộ chiếu cấp.

Đối với người không quốc tịch muốn kết hôn với công dân Việt Nam và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì giấy tờ sử dụng trong giấy kết hôn là giấy là tờ do cơ quan có thẩm quyền nơi người đó thường trú cấp. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giấy tờ sử dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó định cư hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam nước đó cấp.

Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của LHNGĐVN về điều kiện kết hôn.

Đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật quốc gia thì phải nộp giấy tờ xác nhận của cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành cấp trung ương hoặc cấp Tỉnh xác nhận nếu người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật nhà nước hoặc không trái với quy định của ngành đó.

Trong các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết với người nước ngoài, nguyên tắc chung là áp dụng luật quốc tịch của các bên đương sự để điều chỉnh các vấn đề về điều kiện kết hôn. Tuy nhiên trong một số hiệp định cũng có những quy định bổ sung. K1 Điều 23 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên Bàng Nga công dân các nước hữu quan muốn kết hôn ngoài việc tuân thủ pháp luật nước mình họ còn phải tuân theo các quy định của pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn về cấm kết hôn.

c. Nghi thức kết hôn.
Theo Điều 11 NĐ 168 Việc kết hôn nếu thwucj hiện ở Việt Nam thì phải được đăng ký  và do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định của PLVN. Đây chính là nghi thức dân sự, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là UBND cấp Tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam. Trong trường hợp công dân Việt Nam không có hoặc chưa có hộ khẩu thường trú nhưng đã đăng ký tạm trú có thời hạn thì UBND cấp Tỉnh nơi tạm trú có thời hạn của công dân Việt Nam thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa người đó với người nước ngoài. Trong trường hợp người nước ngoài thường trú tại Việt Nam xin kết hôn với nhau thì UBND tỉnh nơi thường trú của một trong hai bên đương sự thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới thuộc UBND cấp Xã nơi thường trú của công dân Việt Nam ở khu vực biên giới thực hiện.
Nếu kết hôn ở nước ngoài thì CQ ngoại giao, Lãnh sự VN tại nước tiếp nhận nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện.
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa VN với nước ngoài ghi nhận nguyên tắc chung là nghi thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hôn. Tuy nhiên cũng có những quy định bổ sung, chẳng hạn trong HĐ giữa Việt Nam – Tiệp Khắc cũ khoản 1 Điều 18 quy định: Việc kết hôn giữa công dân hai nước ký kết nhất thiết phải theo hình thức nhà nước mới có giá trị.
(thủ tục đăng ký: NĐ 68 và được cụ thể hóa tại thông tư 07).

Câu 25.Vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài.

a. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Thông thường các nước áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự, luật nơi cư trú, luật của nước có tòa án hay áp dụng phối hợp các nguyên tắc trên.

Pháp: Việc ly hôn có YTNN được giải quyết theo luật nơi cư trú chung của hai vợ chồng. Nếu hai vợ chồng không có nơi cư trú chung thì ván đề ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi cả hai vợ chồng mang quốc tịch, đồng thời cho phép áp dụng rộng rãi nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng.

Ở Đức: việc ly hôn được giải quyết theo luật quốc tịch của người chồng vào thời điểm xin kết hôn, nhưng tòa án Đức được phép chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại luật Đức và dẫn chiếu đến nước thứ 3.

Việc ly hôn tiến hành trên lãnh thổ Đức có thể áp dụng luật nước ngoài với điều kiện: các cơ sở cho phép ly hôn của pháp luật nước ngoài phải phù hợp với cơ sở điều kiện cho phép ly hôn của luật Đức
Ở Anh – Mỹ: Theo luật tòa án

b. vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Điều 104. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định Điều 104 LHNGĐ vấn đề lựa chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài được giải quyết như sau:

- Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo luật HNGĐ: ly hôn, chia tài sản khi ly hôn cũn như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con cái.

- Trong trường hợp một bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi cư thường trú chung của cả hai vợ chồng. Nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.

- Việc giải quyết tài sản là động sản ở nước ngoài khi ly hôn sẽ tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

- Vấn đề ly hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài được giải quyết ở nước ngoài và theo pháp luật nước ngoài thì cũng được công nhận tại Việt Nam.

- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài…

- Tòa án nhân dân quận huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt nam giải quyết việc ly hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam và quy định khác của pháp luật Việt Nam.

- Giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn còn được đề cập trong các các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với nước ngoài: Vấn đề ly hôn giữa công dân các nước ký kết được xác định theo nguyên tắc:

Nếu hai vợ chông có cùng quốc tịch thì luật áp dụng để giải quyết ly hôn là luật quốc tịch của cả hai vợ chồng.

Nếu hai vớ chồng khác quốc tịch thì cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết nào nhận đơn xin ly hôn sẽ giải quyết theo pháp luật của nước đó.

Câu 26. Quan hệ nhân thân và già sản giữa vợ và chồng.

a. Quan hệ pháp lý giữa vợ chồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật của các nước

- Đối với những nước áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự để điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế ( PHáp, Đức…) thì quan hệ nhân thân sẽ được giải quyết theo pháp luật của nước mà vợ chồng mang quốc tịch, nếu không cùng quốc tịch thì áp dụng pháp luật của người chồng mang quốc tịch.

- Đối với những nước áp dụng nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự để điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế ( Anh, Mỹ…) thì quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sẽ do pháp luật nơi cư trú chính thức của họ điều chỉnh.

- Về quan hệ tài sản:

Pháp luật các nước phương Tây cho phép vợ chồng ký kết hôn ước để xác định chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng của mỗi người, các bên có quyền thỏa thuận chọn pháp luật để điều chỉnh quan hệ tài sản cùa mình.

Nếu không thỏa thuận chọn pháp luật thì quan hệ tài sản cùa họ do pháp luật nước vợ chồng mang quốc tịch điều chỉnh: Italya, Đức…Nếu vợ chồng không cùng quốc tịch thì áp dụng pháp luật của nước người chồng mang quốc tịch.

Riêng Anh, Mỹ, Pháp: áp dụng pháp luật nơi cư trú chính thức của vợ chồng để giải quyết quan hệ tài sản của họ.

b. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng có yếu tố nước ngoài ở VN

LHN và GĐ không có điều khoản riêng quy định rõ luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 102 và khoản 1 Điều 7 thì pháp luật điều chỉnh quan hệ trên có thể là pháp luật Việt Nam. (k.3:Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương huỷ việc kết hôn  trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của  pháp luật Việt Nam. 
Và k1điều7:  Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác)
Xung đột pháp luật về quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng còn được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc được ghi nhận trong các hiệp định trương trợ TP mà Việt Nam kí kết với nước ngoài. 
Theo đó, quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng được giải quyết theo các quy phạm xung đột thống nhất ghi nhận nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự và nguyên tắc luật nơi cư trú hoặc thường trú của đương sự. Tuy nhiên, việc sử dụng các nguyên tắc này trong HĐ có sự khác nhau, ngoài việc sử dụng nguyên tắc chính các HĐ còn sử dụng một số nguyên tắc bổ sung. Các HĐ này đều quy định:

Nếu vợ, chồng là công dân của nước kí kết này và cùng cư trú trên lãnh thổ của nước ký kết kia, thì quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng được điều chỉnh theo pháp luật của nước ki kết mà họ là công dân.

Nếu vợ, chồng cùng là công dân một nước mà chống cư trú trên lãnh thổ của nước kí kết này, vợ cư trú trên lãnh thổ của nước kí kết kia thì quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ, chồng được điều chình theo pháp luật của nước kí kết mà họ là công dân.

Nếu vợ, chồng mà người là công dân của nước kí kết này, người là công dân của nước kí kết kia thì quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ, chồng được điều chỉnh theo pháp luật của nước kí kết nơi họ đã hoặc đang cùng thường trú hoặc nơi cư trú cuối cùng.
>>> Pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, trong trường hợp vợ chồng cùng quốc tịch sẽ là quốc tịch của vợ,chồng. không cùng quốc tịch thì điều chỉnh theo nơi thường trú chung cuối cùng.

Trong các hiệp định tương trợ tư pháp việc xác định thẩm quyền của các cơ quan tư pháp: Tranh chấp liên quan đến quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, đa số các hiệp định này thường sử dụng quy tắc nơi thường trú chung của vợ chồng kết họp vói quy tắc quốc tịch của đương sự để giải quyết xung đột về thẩm quyền xét xử.

Câu 27. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

a. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái theo pháp luật các nước.
Ở đa số các nước Phương Tây, nguyên tắc bao trùm quan hệ cha mẹ và con là nguyên tắc quyền gia trưởng của người cha, không những thế  pháp luật các nước này còn công khai phân biệt đối xử giữa con trong giá thú và ngoài giá thú: phần lớn đều áp dụng nguyên tắc quốc tịch của cha để giải quyết xung đột về quan hệ giữa cha mẹ và con, chỉ khi nào cha chết mới áp dụng luật quốc tịch của người mẹ (Pháp, Đức, Italia).

Ở Anh: áp dụng pháp luật nơi cư trú của người cha để điều chỉnh

Ở các nước Đông Âu: ở các nước này khi xem xét mọi vấn để liên quan đến quyền lợi của đứa trẻ, đều xuất phát từ nguyên tắc cao nhất là lợi ích của đứa trẻ.
Trong ĐƯQT mà các nước kí với nhau nhằm giải quyết vấn đề này nguyên tắc luật quôc tịch của đứa trẻ được coi là nguyên tắc chủ đạo

b. Theo pháp luật Việt Nam

+ Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con
LHNGĐ không có điều khoản riêng biệt để điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ và con. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định tại Điều 7 thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam có thể được điều chỉnh theo LHNGĐ và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

+ Xác định cha mẹ và con
Theo quy định của NĐ 68 thì những người sau có quyền nhận cha, mẹ, con:

Người nước ngoài xin nhận cha, mẹ con là công dân Việt Nam đang thường trú tại Việt Nam.

Công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài xin nhận cha, mẹ con là công dân Việt Nam thường trú ở trong nước.

Người nước ngoài thường trú tại Việt nam xin nhận cha, mẹ, con là người nước ngoài đang thường trú tại Việt Nam.

Việc nhận cha, mẹ, con được thực hiện tại UBND nếu được tiến hành tại Việt Nam hoặc tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sư của Việt nam nếu tiến hành ở nước ngoài.

         Điều kiện nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau  chỉ được tiến hành nếu bên nhận và bên được nhận đều còn sống vào thời điểm nộp đơn yêu cầu, tự nguyện và không có tranh chấp.

1 bên chết trong quá trình giải quyết hồ sơ, không có tranh chấp thì việc nhận cha, mẹ, con vãn tiếp tục được giải quyết;

Nếu cả hai bên chết thì sở tư pháp đình chỉ việc giải quyết.

Nếu trong quá trình giải quyết hồ sơ mà phát sinh tranh chấp giữa bên nhận và bên được nhận hoặc là với người thứ ba thì sở tư pháp đình chỉ và hướng dẫn đương sự nộp đơn yêu cầu tòa án nhân dân tỉnh giải quyết theo thủ tục tố tụng…

Quan hệ giữa cha, mẹ và con được điều chỉnh theo các HĐTTTP VN kí kết với nước ngoài.

+ Quan hệ pháp lỹ giữa cha mẹ và con
HĐ tương trợ tư pháp Việt Nam kí với các nước đều ghi nhận các quy phạm xung đột thống nhất điều chỉnh quan hệ giữa cha, mẹ và con có yếu tố nước ngoài, nguyên tắc chủ đạo: nguyên tắc luật quốc tịch của người con để điều chỉnh quan hệ giữa cha, mẹ và con.
Tuy nhiên, còn có các nguyên tắc bổ sung:

HĐ Việt Nam – Nga, HĐ VN – Ucraina, nguyên tắc luật quốc tịch của người con được coi là nguyên tắc bổ sung. Nếu cha hoặc mẹ thường trú trên lãnh thổ của nước kí kết này, còn con thường trú trên lãnh thổ nước kí kết kia thì quan hệ pháp lý giữa họ được xác định theo pháp luật của nước kí kết mà người con là công dân.

HĐ Việt Nam – Hungari: nều người con là công dân của nước kí kết này nhưng cư trú trên lãnh thổ nước kí kết kia thì áp dụng pháp luật của nước kí kết nào xét ra có lợi nhất cho người con.

  HĐ Việt Nam – Nga, Việt nam – Ucraina, nếu một người trong cha, mẹ và con thường trú trên lãnh thổ của nước kí kết kia thì áp dụng pháp luật của nước mà người con là công dân: còn trong HĐ VN – Lào, hiệp định VN –Mông Cổ, vấn đề này được giải quyết bằng áp dụng pháp luật của nước mà người con cư trú.

+ Vấn đề xác định cha mẹ, con.
Trong các HĐ tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và các nước, nguyên tắc luật quốc tịch của người con khi sinh ra là nguyên tắc chủ đạo để giải quyết xung đột pháp luật về việc xác định cha, mẹ, con. Ngoài nguyên tắc này,một số HĐ còn chọn pháp luật bên kí kết nơi đứa trẻ là công dân để điều chỉnh vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ và con. HĐ Việt Nam – Lào chọn pháp luật bên kí kết nơi đứa trẻ cư trú vào thời điểm có đơn yêu cầu để xác định quan hệ này.

+ Vấn đề cấp dưỡng
Theo pháp luật của nước kí kết mà người được cấp dưỡng là công dân (Điều 23 HĐ Vn- Tiệp khắc…). Riêng trong HĐ VN – LX cũ lại có quy định khác: Việc cấp dưỡng giữa cha mẹ và con theo pháp luật của nước kí kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con: xác định theo quy tắc quốc tịch kết hợp với quy tắc nơi cư trú của đương sự.

Về thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ và con, các hiệp định tương trợ tư pháp thường trọn quy tắc quốc tịch của người con sinh ra.

Câu 28  Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

a.Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước ngoài.

Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người nuôi hoặc của con nuôi.

Pháp: luật quốc tịch của con nuôi;

Đức:  Việc nuôi con nuôi được điều chỉnh theo pháp luật của nước mà người nhận nuôi con nuôi là công dân vào thời điểm nuôi con nuôi.

Anh: Khi người nuôi thường trú ở Anh hoặc cả người nuôi và con nuôi thường trú ở Anh và áp dụng pháp luật của Anh để giải quyết.

Ở các nước Đông Âu: vấn đề nuôi con nuôi được giải quyết theo luật của nước mà người nuôi mang quốc tịch. Trong trường hợp người nuôi là hai vợ chồng có quốc tịch khác nhau thì việc nuôi con nuôi phải tuân thủ quốc tịch của cả hai bên vợ chồng người nuôi. Về vấn đề cần phải có sự đồng ý của đứa trẻ hoặc của những người như bố mẹ người đỡ đầu…đa số các nước dựa trên cơ sở pháp luật của nước mà đứa trẻ mang quốc tịch.

b. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Điều 105. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1. Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.

Việc công dân Việt Nam nhận trẻ em là người nước ngoài làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam.
Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.

2. Trong trường hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi  được xác định theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi.

+ Về điều kiện nhận nuôi con nuôi: bao gồm điều kiện đối với người nhận nuôi và con nuôi; điều kiện về sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi.

o Điều kiện đối với người nhận nuôi: theo LHN và GĐ : NNN xin nhận trẻ em VN hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.
. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
Theo khoản 2 Điều 35 NĐ 68:
. Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi.

3. Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06 tháng trở lên;
b) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;
c) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con nuôi hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm con nuôi;  
d) Đối với người nước ngoài tuy không thuộc một trong các trường hợp  quy định tại các điểm a, b và c khoản này, nhưng xin nhận trẻ em khuyết tật, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, nạn nhân của chất độc hoá học, nhiễm HIV/AIDS, mắc các bệnh hiểm nghèo khác đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp và trẻ em quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định này làm con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết;
đ) Các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định."

Theo điều 69 LHN và GĐ
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi:

Điều 36. Trẻ em được nhận làm con nuôi NĐ 69.
1. Trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới mười sáu tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi dân sự. 
Trẻ em chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Vợ chồng phải là những người khác giới có quan hệ hôn nhân.
2. Trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại Việt Nam, bao gồm:
a) Trẻ em bị bỏ rơi;
b) Trẻ em mồ côi;
c) Trẻ em khuyết tật, tàn tật;
d) Trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; 
đ) Trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học;
e) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS;
gTrẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo khác;
h) Trẻ em khác được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. 
3. Trẻ em đang sống tại gia đình cũng được xem xét giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi hoặc có anh, chị, em ruột đang làm con nuôi của người xin nhận con nuôi.
4. Trẻ em khuyết tật, tàn tật, là nạn nhân của chất độc hoá học, nhiễm HIV/AIDS, mắc bệnh hiểm nghèo khác đang được chữa trị ở nước ngoài, nếu được người nước ngoài xin nhận làm con nuôi thì được xem xét giải quyết."

Về sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi: 

Con chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự thì phải được sự đồng ý của người cha mẹ, người giám hộ bằng văn bản, ngoài ra người con nuôi nếu đã từ 9 tuổi trở lên còn phải cần sự đồng ý của người con nuôi.

+  Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi
Pháp luật Việt Nam chia làm hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi được xác định theo luật HN và GĐ. 

Trường hợp thứu hai, nếu việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện ở nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật nước nơi thường trú của con nuôi.

+ HĐ tương trợ tư pháp

Việc nhận và hủy bỏ nuôi con nuôi được giải quyết theo pháp luật của nước kí kết mà người nuôi mang quôc tịch; Nếu cha mẹ không cùng quôc tịch thì việc nuôi con nuôi và hủy bỏ việc nuôi con nuôi phỉa áp dụng pháp luật hiện hành của hai nước.

Nếu pháp luật của nước kí kết mà đứa trẻ là công dân quy định việc nhận nuôi hoặc hủy bỏ việc nuôi con nuôi phải được người đại diện hợp pháp của đứa trẻ,của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như bản thân đứa trẻ đồng ý thì phải tuân theo các yếu cầu đó.

Cơ quan có thẩm quyền giài quyết việc nhận, hủy bỏ việc nuôi con nuôi là cơ quan của nước kí kết mà người nhận nuôi con nuôi hoặc xin hủy bỏ việc nuôi con nuôi là công dân. Trường hợp cha mẹ nuôi khác quốc tịch, thì thẩm quyền thuộc cơ quan của nước kí kết nơi vợ chồng có hoặc đã thường trú hoặc tạm trú.

Câu 29 . Giám hộ

a. Pháp luật các nước

Đức: Việc Giám hộ đối với người nước ngoài có thể được thực hiện nếu người đó có nơi cư trú hoặc nơi thường trú trên lãnh thổ Đức và nếu như nước mà người đó mang quôc tịch không thực hiện trách nhiệm chăm sóc đối với người đó.

Pháp: việc xác lập giám hộ theo pháp luật của nước người giám hộ mang quốc tịch

CƯ La Hay 1902 về giám hộ cho những người là vị thành niên và công ước La Hay năm 1905 về giám hộ cho những người là thành niên thì việc xác lập giám hộ cũng như quan hệ giữa người giám hộ và người được giám hộ được giải quyết theo pháp luật của nước người được giám hộ mang quốc tịch.

B . Giám hộ có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

Điều 106. Giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam, việc giám hộ được đăng ký tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác cu pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp việc giám hộ trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người giám hộ.

Trường họp 1: Việc giám hộ trong quan hệ HN và GĐ có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại VN, việc giám hộ được đăng ký tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài phải tuân theo quy định của HN và GĐ và quy định khác của PLVN.

Th2. nếu việc giám hộ giữa công dân VN và người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa người giám hộ và người được giám họ được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người giám hộ.

Trong các hiệp định:

o Việc xác lập giám hộ do cơ quan của nước kí kết mà người được giám hộ mang quốc tịch giải quyết theo pháp luật nước mình.

o Điều kiện xác lập hoặc hủy bỏ việc giám hộ do pháp luật của nước kí kết mà người giám hộ mang quốc tịch quyết tịch.

o Quan hệ pháp lý giữa người giám hộ và người được giám hộ theo pháp luật của nước kí kết có cơ quan chỉ định người giám hộ quyết định.

No comments:

Post a Comment